NHÀ VĂN VIỆTNAM , CHÂN DUNG TỰ HỌA
NGÔ THẢO & LẠI NGUYÊN ÂN tổ chức biên soạn.
nxb Văn Học, Hà Nội 1995.
Lời dẫn:
Gặp Ngô Thảo lần đầu tiên, khi anh tới thăm Ý Nhi - khi ấy chị là Trưởng Chi nhánh Nxb Hội Nhà văn tại tp. HCM. Ngô Thảo ngỏ ý muốn có một tiểu sử trích ngang một nhà văn miền Nam trước 1975 trong ' Nhà văn Việtnam / Chân dung tự họa '. Ừ ào , gửi thì gửi thôi , tin sẽ không in đâu, nếu có, chắc be bét xóa, bôi. Không ngờ, sách ra in đúng nguyên văn - khi ấy tôi đang tham dự Les Temps des Livres do Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội tổ chức mời một số nhà văn ở tp. HCM tham dự cùng một sớ nhà văn Pháp sang . Đại diện ,Tùy viên báo chí Robert Lacombe , thuận theo sự giới thiệu của Ý Nhi, nên tôi có mặt ở Hà Nội, và mua cuốn ' Chân dung, nhà văn tự họa ' ở phố sách Đinh Lễ. Ngô Thảo và Lại Nguyên Ân in không thiếu một chữ, khiến tôi ngạc nhiên không ít - vậy lả tôi đã góp mặt cùng một số chân dung bạn văn thơ miền Bắc ' đồng sàng dị mộng'.
Có lời cảm ơn muộn nhà văn Ngô Thảo.
Thếphong.
-----------------------------------
NGÔ THẢO & LẠI NGUYÊN ÂN
Tổ chức biên soạn .
Nhà văn
VIỆTNAM
Chân dung tự họa
VĂN HỌC
Hà Nội 1995.
-----------------------------------------
THẾ PHONG
Sinh ngày 10-7- 1932 ở Yên Bái . Tên thật Đỗ Mạnh Tường. Viết văn từ cuối 1952, truyện ngắn đầu tiên Đời học sinh ký Tương Huyền, đăng trên nhật báo Tia sáng ở Hà nội ngày 17-11- 1952. ( Ngô Vân Chủ nhiệm ). Truyện dài đầu tiên in ở Sài Gòn 1954 là Tình sơn nữ trong tổng số 50 tác phẩm, đủ thể loại. ( thơ, truyện, phê bình văn học, khảo luận, dịch thuật ).
Đã cộng tác với các báo Tia sáng, Giang sơn, Quê hương, làm phóng viên các nhật báo Thân dân, Dân chủ, biên tập viên các tạp chí Văn nghệ Tập san, Văn hóa Á Châu ( Chủ nhiệm: Nguyễn đăng Thục ) . Cộng tác viên các báo Đời mới, Nguồn sống mới, Tân dân, Sống, Đất nước, Trình bầy, Sinh lực, Đời, Tiền tuyến, Sóng thần, Lý Tưởng v.v.. ( Sài Gòn từ 1955 đến 1975 ) . Đăng truyện ngắn Les Immondices dans la banlieue trên báo Le Monde Diplomatique ( Dec. / 1970/ Paris ) , đăng thơ tiếng Anh trên tạp chí TENGGARA ( Kuala Lumpur, Malaysia, từ 1968 đến 1971).
Chủ trương nhà xuất bản Đại Nam văn hiến ( 1959-1975) .
Riêng về thơ :
- Nếu anh có em là vợ, tập thơ đầu tiên in 1959, Sai biệt ( 1960 ) , Vương miện Mai A ( 1961),Cho thuê bản thân ( 1962 ), Trước mắt nhìn thi sĩ ( 1963 ), Đàn bà & Tổ quốc (1964) Việtnam vùng trời lửa đạn ( 1966) , Nam Việtnam, đứa trẻ thơ của vú em Huê Kỳ ( song ngữ việt, anh-mỹ, 1968 ).
Các tác phẩm của Thế Phong dịch sang Anh ngữ do Đàm Xuân Cận, như:
- Asian Morning Western Music( 1971)
- Vietnam Under Fire & Flames ( 1968)
- Uplifting Poems ( 1973 )
- South Vietnam, The Baby in the Arms
of the American nurse ( bilingual, 1973 )
- Thephong by Thephong: The Writer, the Work & The Life,
autobiography, 1970, 1974 ).
- The Rubbish Tip Outside the City & other stories ( 1973)
- I Was an Americam militiaman ( 1969)
tái bản thay tựa The Ordeal of the American militiaman ( 1969, 1974 )
- A Brief Glimpse at the Vietnamese literary scene
from 1900- 1956 ( 1974)
- The Summing up of Ten years of Writing ( 1968) .
Tác phẩm chính khac :
- Tình sơn nữ , 1954,
-Đợi ngày chiến thắng ( 1955)
- Cô Gái Nghĩa Lộ ( 1955 )
- Truyện người của tình phụ ( 1965, )
- Khu Rác Ngoại Thành ( tập truyện, 1966)
- Thủy & T6 ( tập truyện, 1968) v.v..
- Lược sử văn nghệ Việtnam 1900-1956
gồm 4 tập:
a) Nhà văn tiền chiến 1930-1945
b)Nhà văn kháng chiến chủ lực & Nhà văn miền Nam :
1945- 1950.
c) Nhà văn hậu chiến : 1950-1956.
d) Tổng luận 60 năm văn nghệ Vietnam 1900-1956.
- Chiếc roi ngựa ( dịch tiểu thuyết C.V, Gheorghiu- 1969)
- Việtnam bi thảm Đông dương ( dịch ký sự lịch sử Louis Roubaud-1965)
- Hàn Mặc Tử & Quách Thoại: nhà thơ siêu thoát. ( 1965)
- Friedrich Nietzsche & Chủ nghĩa đi lên con người ( 1960, 1968)
-Nhận diện vóc dáng Nguyễn đức Quỳnh ( 1963, 1964 ). v.v..
Các bút hiệu khác :
- Tương Huyền, Đường Bá Bổn, Đinh Bạch Dân, và tên tuổi tác giả đã được đưa vào WHO'S WHO IN VIETNAM ( VN Thông tấn xã VN, Saigon 1074) , INTRODUCTION À LA LITTÉRATURE VIETNAMIENNE ( M.M DURAND et Nguyễn- Trần HUÂN - Collection UNESCO, Ed Maisonneuve & La Rose, Paris 1969)
[]
( trích NHÀ VĂN VIỆTNAM / CHÂN DUNG TỰ HỌA / Ngô Thảo & Lại Nguyên Ân tổ chức biên soạn / Nxb Văn Học, Hà Nội 1995 - tr. 214-215).
Thứ Ba, 31 tháng 1, 2012
Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2012
GIẤY CHỨNG NHẬN BẢN QUYỀN / chủ sở hữu THẾ PHONG - ĐỖ MẠNH TƯỜNG.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------------------
BỘ VĂN HÓA THÔNG TIN
CỤC BẢN QUYỀN TÁC GIẢ
------------------------
G I Ấ Y C H Ứ N G N H Ậ N B Ả N Q U Y Ề N
Số: 341 VH / BQ / Đ D
Chủ sở hữu ; ĐỖ MẠNH TƯỜNG ( Thế Phong, Đường Bá Bổn, Đinh Bạch Dân )
Tác giả: ĐỖ MẠNH TƯỜNG Quốc tịch : VIỆT NAM
Tên tác phẩm: ( kèm Bảng liệt kê 50 tác phẩm ) Thể loại :
Thời hạn bảo hộ:
Nội dung bảo hộ:
Theo Quyết định hoặc
Đơn đăng ký số : 142 / ĐK
Ngày 5 tháng 8 năm 1996. Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 1996.
CỤC BẢN QUYỀN TÁC GIẢ
p. Cục trưởng
TRƯƠNG THUẬN
( đã ký và dấu ấn )
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
50 TÁC PHẨM CỦA TÁC GIẢ ĐỖ MẠNH TƯỜNG
( Bút danh : Thế Phong, Đường Bá Bổn, Đinh Bạch Dân )
------------
stt tên tác phẩm thể loại thòi gian x.b
1 Nếu anh có em là vợ ( thơ) 1959
2 Sai biệt ( thơ) 1960
3 Vương miện Mai- A ( thơ) 1961
4 Cho thuê bản thân ( thơ ) 1962
5 Trước mắt nhìn thi sĩ ( thơ) 1963
6 Đàn bà và Tổ quốc ( thơ) 1964
7 Thơ làm lớn dậy con người ( thơ) 1965
8 Việtnam vùng trời lửa đạn (thơ ) 1966
9 Nam Việtnam đứa trẻ thơ của vú em Huê Kỳ ( thơ ) 1968
10 Muốn hiểu chính trị
( Tổ chức chính trị thế giới ) khảo luận 1955
11 Sinh hoạt chính trị Nhật Bản - nt- 1956
12 Hiện tình văn nghệ miền Nam ( 1957-1961) - nt- 1962
13 Friedrich Nietzsche và Chủ nghĩa đi lên con người -nt- 1960
14 Thức giấc trong văn chương hiện đại Ba Lan -nt- 1962
15 Mười hai nhà thơ mới nhất hôm nay -nt- 1962
16 Hàn Mặc Tử và Quách Thoại, nhà thơ siêu thoát -nt- 1965
17 Lược sử văn nghệ Việtnam ( gồm 4 tập) -nt 1959
(1) - Nhà văn tiền chiến :1930-1945
(2) a. Nhà văn kháng chiến chủ lực :1945-1950
b. Nhà văn miền Nam : 1945-1950
(3) c. Nhà văn hậu chiến : 1950-1956
(4) - Tổng luận 60 năm văn nghệ Việtnam: 1900-1956 .
18 Thế Phong... Mười năm văn nghệ sưu tập 1963
19 Nửa đường đi xuống tiểu thuyết tự- sự- kể 1968
20 Người lính Casablanca truyện ngắn 1960
21 Khu rác ngoại thành -nt- 1966
22 Thủy & T6 -nt- 1968
23 Người đàn bà không tóc -nt- 1961
24 Người thương binh liên khu truyện dài 1960
25 Tình sơn nữ -nt- 1954
26 Cô gái Nghĩa Lộ -nt- 1955
27 Truyện người của tình phụ nt- 1965
28 Đợi ngày chiến thắng -nt- 1955
29 Nhận diện vóc dáng nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh ký 1963, 1964
30 Tuyển Truyện Thế Phong tập truyện 1964
31 T.T.KH Nàng là Ai ? ( với Trần Nhật Thu ) biên khảo 1994
32 Cuộc đời viết văn làm báo TAM LANG -TÔI KÉO XE 1996, 2004
33 Khúc bi ca nàng tiên nhỏ ( Maxime Gorki ) dịch 1962
34 Maiaikovsky, Thi sĩ Nga ( Elsa Triolet ) -nt- 1963 , 2004
35 Tuyển thơ Kháng chiến Pháp1939-1945
( Jean Paulhan & Dominique Aury ) -nt- 1964
36 Chiếc roi ngựa ( Constant Virgil Gheorghiu ) -nt- 1968, 2004
37 Hồi ký văn chương viết sớm ( Eugène Evtouchenko )
( Nhà thơ và cuộc đời ) -nt- 1964, 2004
38 Việtnam bi thảm Đông Dương ( Louis Roubaud )
1963 , 1965, 2004, 2005
39 Jacques Perry và Thế Nào Là Phi Lý ? 1962
40 Constant Virgil Gheorghiu qua Lữ hành đơn độc 1962
40 a Thế Phong, nhà văn , tác phẩm, cuộc đời
tự- sự- kể 1960, 1964, 1970
41 Thephong by Thephong;: The Writer,The Writer
& The Life autobiography 1966
42 The Sky under Fire & Flames 1967
43 The Summing up of ten yeras of Writing 1968
44 Asian Morning Western Music 1971 - 2006
45 The Ordeal of the American militiman
( I Was an American militiaman ) 1968
46 The Rubbish Tip Outside the City 1970, 2006
47 South Vietnam, the Baby in the Arms
of the American nurse (bilingual) 1968
48 A Brief Glimpse at the Vietnamese
literary scene : 1900-1956 1970
49 Uplifting Poems 1974, 2012
50 Le Crépuscule de la Violence 1969
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------------------
BỘ VĂN HÓA THÔNG TIN
CỤC BẢN QUYỀN TÁC GIẢ
------------------------
G I Ấ Y C H Ứ N G N H Ậ N B Ả N Q U Y Ề N
Số: 341 VH / BQ / Đ D
Chủ sở hữu ; ĐỖ MẠNH TƯỜNG ( Thế Phong, Đường Bá Bổn, Đinh Bạch Dân )
Tác giả: ĐỖ MẠNH TƯỜNG Quốc tịch : VIỆT NAM
Tên tác phẩm: ( kèm Bảng liệt kê 50 tác phẩm ) Thể loại :
Thời hạn bảo hộ:
Nội dung bảo hộ:
Theo Quyết định hoặc
Đơn đăng ký số : 142 / ĐK
Ngày 5 tháng 8 năm 1996. Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 1996.
CỤC BẢN QUYỀN TÁC GIẢ
p. Cục trưởng
TRƯƠNG THUẬN
( đã ký và dấu ấn )
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
50 TÁC PHẨM CỦA TÁC GIẢ ĐỖ MẠNH TƯỜNG
( Bút danh : Thế Phong, Đường Bá Bổn, Đinh Bạch Dân )
------------
stt tên tác phẩm thể loại thòi gian x.b
1 Nếu anh có em là vợ ( thơ) 1959
2 Sai biệt ( thơ) 1960
3 Vương miện Mai- A ( thơ) 1961
4 Cho thuê bản thân ( thơ ) 1962
5 Trước mắt nhìn thi sĩ ( thơ) 1963
6 Đàn bà và Tổ quốc ( thơ) 1964
7 Thơ làm lớn dậy con người ( thơ) 1965
8 Việtnam vùng trời lửa đạn (thơ ) 1966
9 Nam Việtnam đứa trẻ thơ của vú em Huê Kỳ ( thơ ) 1968
10 Muốn hiểu chính trị
( Tổ chức chính trị thế giới ) khảo luận 1955
11 Sinh hoạt chính trị Nhật Bản - nt- 1956
12 Hiện tình văn nghệ miền Nam ( 1957-1961) - nt- 1962
13 Friedrich Nietzsche và Chủ nghĩa đi lên con người -nt- 1960
14 Thức giấc trong văn chương hiện đại Ba Lan -nt- 1962
15 Mười hai nhà thơ mới nhất hôm nay -nt- 1962
16 Hàn Mặc Tử và Quách Thoại, nhà thơ siêu thoát -nt- 1965
17 Lược sử văn nghệ Việtnam ( gồm 4 tập) -nt 1959
(1) - Nhà văn tiền chiến :1930-1945
(2) a. Nhà văn kháng chiến chủ lực :1945-1950
b. Nhà văn miền Nam : 1945-1950
(3) c. Nhà văn hậu chiến : 1950-1956
(4) - Tổng luận 60 năm văn nghệ Việtnam: 1900-1956 .
18 Thế Phong... Mười năm văn nghệ sưu tập 1963
19 Nửa đường đi xuống tiểu thuyết tự- sự- kể 1968
20 Người lính Casablanca truyện ngắn 1960
21 Khu rác ngoại thành -nt- 1966
22 Thủy & T6 -nt- 1968
23 Người đàn bà không tóc -nt- 1961
24 Người thương binh liên khu truyện dài 1960
25 Tình sơn nữ -nt- 1954
26 Cô gái Nghĩa Lộ -nt- 1955
27 Truyện người của tình phụ nt- 1965
28 Đợi ngày chiến thắng -nt- 1955
29 Nhận diện vóc dáng nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh ký 1963, 1964
30 Tuyển Truyện Thế Phong tập truyện 1964
31 T.T.KH Nàng là Ai ? ( với Trần Nhật Thu ) biên khảo 1994
32 Cuộc đời viết văn làm báo TAM LANG -TÔI KÉO XE 1996, 2004
33 Khúc bi ca nàng tiên nhỏ ( Maxime Gorki ) dịch 1962
34 Maiaikovsky, Thi sĩ Nga ( Elsa Triolet ) -nt- 1963 , 2004
35 Tuyển thơ Kháng chiến Pháp1939-1945
( Jean Paulhan & Dominique Aury ) -nt- 1964
36 Chiếc roi ngựa ( Constant Virgil Gheorghiu ) -nt- 1968, 2004
37 Hồi ký văn chương viết sớm ( Eugène Evtouchenko )
( Nhà thơ và cuộc đời ) -nt- 1964, 2004
38 Việtnam bi thảm Đông Dương ( Louis Roubaud )
1963 , 1965, 2004, 2005
39 Jacques Perry và Thế Nào Là Phi Lý ? 1962
40 Constant Virgil Gheorghiu qua Lữ hành đơn độc 1962
40 a Thế Phong, nhà văn , tác phẩm, cuộc đời
tự- sự- kể 1960, 1964, 1970
41 Thephong by Thephong;: The Writer,The Writer
& The Life autobiography 1966
42 The Sky under Fire & Flames 1967
43 The Summing up of ten yeras of Writing 1968
44 Asian Morning Western Music 1971 - 2006
45 The Ordeal of the American militiman
( I Was an American militiaman ) 1968
46 The Rubbish Tip Outside the City 1970, 2006
47 South Vietnam, the Baby in the Arms
of the American nurse (bilingual) 1968
48 A Brief Glimpse at the Vietnamese
literary scene : 1900-1956 1970
49 Uplifting Poems 1974, 2012
50 Le Crépuscule de la Violence 1969
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------
Thứ Năm, 26 tháng 1, 2012
FROM A WRITER'S DIARY / by THE PHONG .
F R O M T H E W R I T E R ' S D I A R Y
by THE PHONG
translated by ĐÀM XUÂN CẬN
Saigon 1963
I started writing in 1952 in Hanoi - in the first days of Vietminh-launched autumn winter offensive when the rumble of artillery reached even the captital. My mother was the last of the ĐỖ clan to be reported as lost after the fall of my native town Nghĩa lộ. I felt compelled to write in my lonely state. Writing the brought me some solace.
At the beginning of 1963 when I ceased toreceive any money from my mother, I was obliged to embark on journalism of the humblest sort. I was charged with the collecting news around the four districts of Hanoi and the courts as well. I also assumed the duties of a proof-reader in the adfternoon and evening. Whereas my collagues receuved one thousand piaster's monthly, my boss Vũ Ngọc Các paid one thousand only. I had to earn my daily bread by the sweat of my brow.
I came to the South Vietnam before Điện Biên Phủ and the subsequent Geneva Agreements. Of the first ten years of my profession as a writer, I was an official on a contractual basis for eighteen months only. I was known under the pen name The Phong coined by Lê Trọng Duật and myself at the foot of an electric pole in front of my aunt's villa in Chợ Đuổi Street. This magical name keeps ringing in my ears.
In those days, there were vere few Northerners and life was pretty hard for me. The highest price I enjoyed for a review was one hundred and fifty piaster's. At the time, I had in store some memorial novels dealing with life of the montagnards in my homeland in the nothernmost part of Vietnam. They were ' Tình Sơn Nữ' ( A Highland Lass' Lover) written in Hanoi, ' Đợi ngày Chiến Thắng' ( Waiting for Day of Victory), and' Cô Gái Nghĩa Lộ' ( A Girl from Nghĩa Lộ), written in Saigon. The royalties for each of this trio were thousand piasters for the first edition of two thousand copies. It was really great for an apprentice writer like me. The public received my novels with much enthusiasm.
The charge that I held many a critic in slight contempt was partly justified. The so-called critics could not fail to acclaim any book by any influential man. Take this case. When a book by Phan Văn Tạo was released, lots of provincial cadres offered to sell it and some tens of newspapers were quick to comment on it favorably. Even a minister in Bảo Đại'd era wrote a partisan review in his extremely polished style in ' Le Journal d'Extrême Orient' the prominent French language daily in Saigon. I knew and I still believe he did not write it out of sincere admiration. When Phan Văn Tạo presented his book to Nguyễn Đức Quỳnh writer, then adviser to the Minister, the latter said,
" You're only a writer with half of your being because you're only acquainted with the pink side of things".
To quote Jan Kott,
Uniformity of opinion among intellectuals is always a bad thing. The more complete it is,
the worse the omen is. Uniformity of poorly informed opinions are all the more. We deplore conformity. It's like witnessing a farce to hear a Minister of Cultural Affairs making a plea to writers to work harder while he did not believe in literature.
Although the situation then was not so bad as in Poland where writers commissioned by the government, we are heading towards such a course of things. After the war many writers who could not put up with privation, hunger, and misery have dropped their sense of mission. Here is another quotation by Jan Kott:
" What worries me is not the fact that many Polish stories are badly written, but the fact that many Polish writers are standing around and telling lies. As a critic I feel it is my duty to scrutinize the artist's motivation, that is, real behavior or his attitude towards life. I cannot praise a book it if does not reflect some concern about life. I felt nauseous when literary awards were decided by government officials who had very little knowledge, if any, of literature."
Can gvernment officilas become great writers ? Perhaps, but only something like on out of a million. The majority of them only uphold the order of the Town Hall clock
I was never keen on behaving myself and writing as if I had my head in the clouds. Only those to whom luxury and misery make no difference and who do not compromise with their conscience can understand me. For this I wrote these words by Essenin in capitals:
' DRINK WITH ME, O SUFFERING FEMALE DOG! DO COME AND DRINK WITH ME !'
In alien Paris, after losing his money Mayakovski asked for help from friends and had to swear, shruggring his shouders," How could these lousy bastards dare tothink of generosity ?"
Those who insist on having a tasty breafast with a gulp of delicious coffee, those who enjoy the wishful thinking of having contributed to national culture after attending functions held in luxurious hotels had better not read my books if they wish to avoid disappointment. My sort of rugged literature is definitely not to your taste. Don' t torture me anymore. Stop giving me the fly-caused itchy sensation to a pussy wound. You can go and pick up pretty girls, suits expertly tailored in cities as far as Paris, a set of weird buttons, a new pipe, a special imported tie or a top bottle of perfume. Sophisticates, you are surely much smarter than I can afford to be. Most of us writers are lucky if we have enough for ourselves to eat, let alone feeding wives and kids. We write simply because we cannot escape it, because victims of what we can all ' complexe d'obession' .
In the last years of writing how did I live? Time and again I faced hunger, humiliations of all sorts and committed such unsavory acts as theft and extortion of money from friends. All sorts of queer things. All my enemies can use these to discredit me if they want to; there is no need for them to forge any other accusations. Or, they can just quote from my published autobiography
' Nửa Đường Đi Xuống ' ( Midway in My Life's Journey ) , wherein the author is never evasive about any issue, however touchy it is. I have never practised blackmail and I am living victim of blackmail; I have never been a vandal and I am branded a literary vandalist unhonourably. I am just an agnostic - never an atheist. I am condemned of being a Judas, the traitor who sold out Jesus Christ. An innocent. I was reported to be chief of the destructive committee. All this happened to the simple writer that I was when the tempo of our literary activities was at an all time low.
In France the freat playwright Jean Anouilh swore he would never write for dailies. I cannnot but thoroughly agreee with him, knowing what rubbish Vietnamese dalilies are. As a former journalist, I cannot believe my eyes when I read all the rubbish in the newspapers. Fortunately I am no longer a journalist. I was a contractual official for eighteen months because of hunger and because of my lack of courage. Afterwards, I served again as an official for six months. According to the contract I was received five thousand piaster's a month . After two months, I was given four thousand only, due to the budget squeeze. I was forcwed to resign when I learnt there would be a further cut in my salary. And it took me unbelievable patience to realize a claim for the salary I was entitled to. At last I was convinced that I could not hang on to the government payroll as long as I wanted to write. Independence of thought is the sine qua non of any conscientious writer.
In my ten years of writing, there are at least three memorable events concerning three of my readers and muself. I am going to relate them one by one. I did not know the first reader, a Quang Trung Training Center Canteen salesgirl. Nguyễn Quốc Toàn, who has fed meeeeeeee some time came to the Center as a national serviceman. He took some of my books there to read and lent her my autobiography' Nửa Đường Đi Xuống' ( Midway in My Life's Journey ) . Upon returning it to him sh said," I think I should lodge a complaint against you. I was so absorted in reading The Phong you lent me I forgot to watch the customers. As a result, I lost a couple of fountain pens ". Nguyễn Quốc Toàn also said he was allowed to buy on credit. I felt immensely proud of having such as a keen reader. The second reader was a Faculty of Letters student from Central Vietnam who met me in the street. He stopped to say " Hello there " and then continued, " I know you because I've read your book' Nửa Đường Đi Xuống' which my brother bought. I can recognize you from your photo on the jacket'.
Hesistantly, he asked me whether I had lunch. It was around three in the afternoon then. I was deeply moved, knowing my account of hunger in the autobiography was very convincing. I have not see him since and do not even recall his name. But I would still recognize him if I saw him again and I remember the address he gave me, 66 Phó Đức Chính St. Saigon 1. I did not not go there.
The third event occured during a visit I paid in 1963 to Dalat, the settlement area reserved for the Thais of Lai Châu, Sơn La and Nghĩa Lộ. I had brought a camera with the entention of taking snapshots of the sweet Thai girls - the beautiful flowers of my hometown Nghĩa Lộ. I was a bit diasppointed because I did not see any girl in the traditional dress. When my friend and I stopped in front of a house next to a well I struck up a conservation with a Thai woman. When her daughter of about seventeen or eighteen overheard me speaking in Thai she came out to join us although she was ill at the time. I asked her in Vietnamese whether she was Thai. She nodded and very graciously she invited us in. We sat around a table made of rough unplanned wood. She asked us where we came from and what we were doing. Before I could reply my friend hastily declared I was a writer. She put out her tongue and frankly confessed she was very much afraid of journalists. Then she asked me about my job. She let me know that she read a ' forest' story about highland and had enjoyed it very much. I enquired about the title of the book and the name of the author. I also asked her if she had kept it. She went in and brought it out. The cover of the book was torn and coverd with signatures of all sizes and descriptions and in all sorts of ink. The student accompanying me was very young and did not know much about me except that I was a writer. Looking at the jacket, he said in surprise," Here he is, the author of this book!"
I was deeply touched taht my book was appreciated by a girl in this isolated place - a girl from my hometown. I told her I wrote it a long time ago. She praised and criticized me at the same time. According to her, the description of life in highland was accurate but I had made a mistake the word ' koóng khảu' for' kóm khảu'. I learned that her name is Lò Lệ Thu or La Lệ Thu if it is Vietnamese. But I prefer the first. later I wrote a dedication to her at the beginning of my book of poetry ' Trước Mắt Nhìn Thi Sĩ' ( Under the Poet's Eyes) written in Dalat in this period. Those who cared for me most were poor people.
Let's stop wandering about the innumerable manifestations of hyprocrisy in a society like Vietnam. Let's no forget Vietnam has been under a process of disintegration for eighty years under French domination and twenty years of grinding war.
When I come to these lines it is eleven in the morning. People are battling which other right next to my boarding house. The cause of it all ? The rubbish from foreign-operated trucks stationed near the rubber plantation. They hope and so do I. But my hope is only that I would be able to write a story about their hard life, their relentless struggle for life in this hard-core
porstitute-infested area. After probing deeper into their motives. I no longer feel nauseous. They are just human beings. Let us struggle for life, no matter how much sweat we will have to shed. I wrote them in' Khu Rác Ngoại Thành' ( The Rubbish Tip Outside the City) (*) .
How to sum up my experience in ten years of writing ? What mkes me so bitter was the just the sheer lack of courage on the part of the so-called intellectuals, writers, artists, enginners of the masses' soul ' - in short the backbone of any viable society - those whowere ready to do anything, no matter how degrading it was, to achieve a sort of petty satisfaction. They knew thie damm well. Whta makes me still hate them like hell is simply their hyprocritical preaching about humanity's love and so on. And I wrote:
'Be assured, intellectual worms who cling to the vegetable tops
when you die, you'll occupy three-meter-long tombs
and these bitter lines of poetry:
suddenly Iwas dumb-struck by the fact my country was in full plight
I live in Saigon the year round without a warm coat
witnessing my people searching for food
around the foreigner-operated rubbish dump
I am standing pensively at the Bẩy Hiền crossroads
watching kids growing on bread scattered on the earth
and the older boy presenting his brother
with a piece of chocolate picked up from the roadside
I cannot contain my anger...
why on earth did they dare consider art as mere ornament
the white-collared students by day turned artists by night
the visiting- card supported poets are so numerous
the printers cannot promptly carry out the the orders
all of them are using litearture the same way as bar hostsses look!
the millionaire's poet son is expressing his pity for beggars
the ex-sub prefecture chief is expounding a new way of life
can we believe in the love for humanity expressed in his book
with a fervid tone which can be matched by a judge's voice
while he keeps giving his dog a daily ration better than a Viet's,
when I visited Thai settlers in Dalat
I was struck by this scene:
Thai kids have water in their mouths, craving for sticky rice
and they cry because this Tết they won't have firecarckers.
when their parents share their sadness, who is a position
to tell them to be cheerful
thinking of what the future holds for them, I give
this conclusion:
... And this socirty, this life, this sun is still as dark
as night itself...
I believe my same statements scattered here and there still shed
light on reality, and consequently will help politicians to do
something about this shocking state of affairs.
o the people who have lived through so many years
of ordeal due
to the communists and colonialists and the Fanoti rulers:
the million square meters of cultivated land belong
to my countrymen
the million lines of poetry which can become directives
for this nation in the future
should be preceded by the million lines of poetry
cataloguing the hardships of today...
( Trước Mắt Nhìn Thi Sĩ - Under the Poet's Eye )
After a full breakfast consisting of steak and casse-croute a friend of mine, aged 50 gave me this' advice' reassuringly:
" ... Go one like this for somrtime, man. After you get married it won't be long before you understand us better and then it's entirely up to you to hate or pity us".
I was really upset, although for a very brief moment only.
A lot of indecent intellectuals who used to be very keen on doing good to the public in pre-war times tried by any means to achieve wealth in the post-war period. And their famous excuse was that they did such and such a thing because of wives and kids. What a shame for them. And what a pity for the woman who are their wives and the boys who are their children ! Unsucessful writers have the potential to become efficient censors or alert informers.
In think I will get married. This year I am thirty-two. According to Shin Nai Am who wrote that masterpiece of Chinese fiction, All Men Are Brothers. I should not get married at this late age. But if I do, I will strive to feed my wife and children by the sweat of my brow. I am no different from you, nor do I want to because I still cannot afford another thing than red rice, dried fish, chilly and pepper. But I'm a bit different from you because I have the guts to say that I have been a bloody liar or I have robbed a needy friend. I am not a coward and I know what I am doing for my country's literature. And this is the reason; I could not help writing this short account of my life as a writer. I am not simply man beset by narcissisms.
In 1959 Thiên Giang writer wrote an open letter to Nguiễn- Ngu- Í discussing my case. Mr Í has shown me the letter. He also expressed his desire to see me in his rwesidence at Xóm Chuồng Ngựa -Gia Định Province to have the opprtunity to praise my efforts in promoting the national literary output. That is enough for me. I want to say thanks to the journalist who jokingly," Never
think that there are such words as The Phong in Vietnamese language. Never mention them".
[]
----
(*) The Phong, Khu Rác Ngoại Thành / The Rubbish Tip Outside the City (bilingual)
Dai Nam Van Hien Books, Saigon South Vietnam .( 1963, 2006).
THE PHONG
( p. 52 to 57 - TENGGARA, October 1968,
Volume 2. No 2. / University of Malaya,
Malaysia ).
(from ' Asian Morning Western Music, poems by The Phong.
This Edition : Jan. 2012- Ho Chi Minh City)
by THE PHONG
translated by ĐÀM XUÂN CẬN
Saigon 1963
I started writing in 1952 in Hanoi - in the first days of Vietminh-launched autumn winter offensive when the rumble of artillery reached even the captital. My mother was the last of the ĐỖ clan to be reported as lost after the fall of my native town Nghĩa lộ. I felt compelled to write in my lonely state. Writing the brought me some solace.
At the beginning of 1963 when I ceased toreceive any money from my mother, I was obliged to embark on journalism of the humblest sort. I was charged with the collecting news around the four districts of Hanoi and the courts as well. I also assumed the duties of a proof-reader in the adfternoon and evening. Whereas my collagues receuved one thousand piaster's monthly, my boss Vũ Ngọc Các paid one thousand only. I had to earn my daily bread by the sweat of my brow.
I came to the South Vietnam before Điện Biên Phủ and the subsequent Geneva Agreements. Of the first ten years of my profession as a writer, I was an official on a contractual basis for eighteen months only. I was known under the pen name The Phong coined by Lê Trọng Duật and myself at the foot of an electric pole in front of my aunt's villa in Chợ Đuổi Street. This magical name keeps ringing in my ears.
In those days, there were vere few Northerners and life was pretty hard for me. The highest price I enjoyed for a review was one hundred and fifty piaster's. At the time, I had in store some memorial novels dealing with life of the montagnards in my homeland in the nothernmost part of Vietnam. They were ' Tình Sơn Nữ' ( A Highland Lass' Lover) written in Hanoi, ' Đợi ngày Chiến Thắng' ( Waiting for Day of Victory), and' Cô Gái Nghĩa Lộ' ( A Girl from Nghĩa Lộ), written in Saigon. The royalties for each of this trio were thousand piasters for the first edition of two thousand copies. It was really great for an apprentice writer like me. The public received my novels with much enthusiasm.
The charge that I held many a critic in slight contempt was partly justified. The so-called critics could not fail to acclaim any book by any influential man. Take this case. When a book by Phan Văn Tạo was released, lots of provincial cadres offered to sell it and some tens of newspapers were quick to comment on it favorably. Even a minister in Bảo Đại'd era wrote a partisan review in his extremely polished style in ' Le Journal d'Extrême Orient' the prominent French language daily in Saigon. I knew and I still believe he did not write it out of sincere admiration. When Phan Văn Tạo presented his book to Nguyễn Đức Quỳnh writer, then adviser to the Minister, the latter said,
" You're only a writer with half of your being because you're only acquainted with the pink side of things".
To quote Jan Kott,
Uniformity of opinion among intellectuals is always a bad thing. The more complete it is,
the worse the omen is. Uniformity of poorly informed opinions are all the more. We deplore conformity. It's like witnessing a farce to hear a Minister of Cultural Affairs making a plea to writers to work harder while he did not believe in literature.
Although the situation then was not so bad as in Poland where writers commissioned by the government, we are heading towards such a course of things. After the war many writers who could not put up with privation, hunger, and misery have dropped their sense of mission. Here is another quotation by Jan Kott:
" What worries me is not the fact that many Polish stories are badly written, but the fact that many Polish writers are standing around and telling lies. As a critic I feel it is my duty to scrutinize the artist's motivation, that is, real behavior or his attitude towards life. I cannot praise a book it if does not reflect some concern about life. I felt nauseous when literary awards were decided by government officials who had very little knowledge, if any, of literature."
Can gvernment officilas become great writers ? Perhaps, but only something like on out of a million. The majority of them only uphold the order of the Town Hall clock
I was never keen on behaving myself and writing as if I had my head in the clouds. Only those to whom luxury and misery make no difference and who do not compromise with their conscience can understand me. For this I wrote these words by Essenin in capitals:
' DRINK WITH ME, O SUFFERING FEMALE DOG! DO COME AND DRINK WITH ME !'
In alien Paris, after losing his money Mayakovski asked for help from friends and had to swear, shruggring his shouders," How could these lousy bastards dare tothink of generosity ?"
Those who insist on having a tasty breafast with a gulp of delicious coffee, those who enjoy the wishful thinking of having contributed to national culture after attending functions held in luxurious hotels had better not read my books if they wish to avoid disappointment. My sort of rugged literature is definitely not to your taste. Don' t torture me anymore. Stop giving me the fly-caused itchy sensation to a pussy wound. You can go and pick up pretty girls, suits expertly tailored in cities as far as Paris, a set of weird buttons, a new pipe, a special imported tie or a top bottle of perfume. Sophisticates, you are surely much smarter than I can afford to be. Most of us writers are lucky if we have enough for ourselves to eat, let alone feeding wives and kids. We write simply because we cannot escape it, because victims of what we can all ' complexe d'obession' .
In the last years of writing how did I live? Time and again I faced hunger, humiliations of all sorts and committed such unsavory acts as theft and extortion of money from friends. All sorts of queer things. All my enemies can use these to discredit me if they want to; there is no need for them to forge any other accusations. Or, they can just quote from my published autobiography
' Nửa Đường Đi Xuống ' ( Midway in My Life's Journey ) , wherein the author is never evasive about any issue, however touchy it is. I have never practised blackmail and I am living victim of blackmail; I have never been a vandal and I am branded a literary vandalist unhonourably. I am just an agnostic - never an atheist. I am condemned of being a Judas, the traitor who sold out Jesus Christ. An innocent. I was reported to be chief of the destructive committee. All this happened to the simple writer that I was when the tempo of our literary activities was at an all time low.
In France the freat playwright Jean Anouilh swore he would never write for dailies. I cannnot but thoroughly agreee with him, knowing what rubbish Vietnamese dalilies are. As a former journalist, I cannot believe my eyes when I read all the rubbish in the newspapers. Fortunately I am no longer a journalist. I was a contractual official for eighteen months because of hunger and because of my lack of courage. Afterwards, I served again as an official for six months. According to the contract I was received five thousand piaster's a month . After two months, I was given four thousand only, due to the budget squeeze. I was forcwed to resign when I learnt there would be a further cut in my salary. And it took me unbelievable patience to realize a claim for the salary I was entitled to. At last I was convinced that I could not hang on to the government payroll as long as I wanted to write. Independence of thought is the sine qua non of any conscientious writer.
In my ten years of writing, there are at least three memorable events concerning three of my readers and muself. I am going to relate them one by one. I did not know the first reader, a Quang Trung Training Center Canteen salesgirl. Nguyễn Quốc Toàn, who has fed meeeeeeee some time came to the Center as a national serviceman. He took some of my books there to read and lent her my autobiography' Nửa Đường Đi Xuống' ( Midway in My Life's Journey ) . Upon returning it to him sh said," I think I should lodge a complaint against you. I was so absorted in reading The Phong you lent me I forgot to watch the customers. As a result, I lost a couple of fountain pens ". Nguyễn Quốc Toàn also said he was allowed to buy on credit. I felt immensely proud of having such as a keen reader. The second reader was a Faculty of Letters student from Central Vietnam who met me in the street. He stopped to say " Hello there " and then continued, " I know you because I've read your book' Nửa Đường Đi Xuống' which my brother bought. I can recognize you from your photo on the jacket'.
Hesistantly, he asked me whether I had lunch. It was around three in the afternoon then. I was deeply moved, knowing my account of hunger in the autobiography was very convincing. I have not see him since and do not even recall his name. But I would still recognize him if I saw him again and I remember the address he gave me, 66 Phó Đức Chính St. Saigon 1. I did not not go there.
The third event occured during a visit I paid in 1963 to Dalat, the settlement area reserved for the Thais of Lai Châu, Sơn La and Nghĩa Lộ. I had brought a camera with the entention of taking snapshots of the sweet Thai girls - the beautiful flowers of my hometown Nghĩa Lộ. I was a bit diasppointed because I did not see any girl in the traditional dress. When my friend and I stopped in front of a house next to a well I struck up a conservation with a Thai woman. When her daughter of about seventeen or eighteen overheard me speaking in Thai she came out to join us although she was ill at the time. I asked her in Vietnamese whether she was Thai. She nodded and very graciously she invited us in. We sat around a table made of rough unplanned wood. She asked us where we came from and what we were doing. Before I could reply my friend hastily declared I was a writer. She put out her tongue and frankly confessed she was very much afraid of journalists. Then she asked me about my job. She let me know that she read a ' forest' story about highland and had enjoyed it very much. I enquired about the title of the book and the name of the author. I also asked her if she had kept it. She went in and brought it out. The cover of the book was torn and coverd with signatures of all sizes and descriptions and in all sorts of ink. The student accompanying me was very young and did not know much about me except that I was a writer. Looking at the jacket, he said in surprise," Here he is, the author of this book!"
I was deeply touched taht my book was appreciated by a girl in this isolated place - a girl from my hometown. I told her I wrote it a long time ago. She praised and criticized me at the same time. According to her, the description of life in highland was accurate but I had made a mistake the word ' koóng khảu' for' kóm khảu'. I learned that her name is Lò Lệ Thu or La Lệ Thu if it is Vietnamese. But I prefer the first. later I wrote a dedication to her at the beginning of my book of poetry ' Trước Mắt Nhìn Thi Sĩ' ( Under the Poet's Eyes) written in Dalat in this period. Those who cared for me most were poor people.
Let's stop wandering about the innumerable manifestations of hyprocrisy in a society like Vietnam. Let's no forget Vietnam has been under a process of disintegration for eighty years under French domination and twenty years of grinding war.
When I come to these lines it is eleven in the morning. People are battling which other right next to my boarding house. The cause of it all ? The rubbish from foreign-operated trucks stationed near the rubber plantation. They hope and so do I. But my hope is only that I would be able to write a story about their hard life, their relentless struggle for life in this hard-core
porstitute-infested area. After probing deeper into their motives. I no longer feel nauseous. They are just human beings. Let us struggle for life, no matter how much sweat we will have to shed. I wrote them in' Khu Rác Ngoại Thành' ( The Rubbish Tip Outside the City) (*) .
How to sum up my experience in ten years of writing ? What mkes me so bitter was the just the sheer lack of courage on the part of the so-called intellectuals, writers, artists, enginners of the masses' soul ' - in short the backbone of any viable society - those whowere ready to do anything, no matter how degrading it was, to achieve a sort of petty satisfaction. They knew thie damm well. Whta makes me still hate them like hell is simply their hyprocritical preaching about humanity's love and so on. And I wrote:
'Be assured, intellectual worms who cling to the vegetable tops
when you die, you'll occupy three-meter-long tombs
and these bitter lines of poetry:
suddenly Iwas dumb-struck by the fact my country was in full plight
I live in Saigon the year round without a warm coat
witnessing my people searching for food
around the foreigner-operated rubbish dump
I am standing pensively at the Bẩy Hiền crossroads
watching kids growing on bread scattered on the earth
and the older boy presenting his brother
with a piece of chocolate picked up from the roadside
I cannot contain my anger...
why on earth did they dare consider art as mere ornament
the white-collared students by day turned artists by night
the visiting- card supported poets are so numerous
the printers cannot promptly carry out the the orders
all of them are using litearture the same way as bar hostsses look!
the millionaire's poet son is expressing his pity for beggars
the ex-sub prefecture chief is expounding a new way of life
can we believe in the love for humanity expressed in his book
with a fervid tone which can be matched by a judge's voice
while he keeps giving his dog a daily ration better than a Viet's,
when I visited Thai settlers in Dalat
I was struck by this scene:
Thai kids have water in their mouths, craving for sticky rice
and they cry because this Tết they won't have firecarckers.
when their parents share their sadness, who is a position
to tell them to be cheerful
thinking of what the future holds for them, I give
this conclusion:
... And this socirty, this life, this sun is still as dark
as night itself...
I believe my same statements scattered here and there still shed
light on reality, and consequently will help politicians to do
something about this shocking state of affairs.
o the people who have lived through so many years
of ordeal due
to the communists and colonialists and the Fanoti rulers:
the million square meters of cultivated land belong
to my countrymen
the million lines of poetry which can become directives
for this nation in the future
should be preceded by the million lines of poetry
cataloguing the hardships of today...
( Trước Mắt Nhìn Thi Sĩ - Under the Poet's Eye )
After a full breakfast consisting of steak and casse-croute a friend of mine, aged 50 gave me this' advice' reassuringly:
" ... Go one like this for somrtime, man. After you get married it won't be long before you understand us better and then it's entirely up to you to hate or pity us".
I was really upset, although for a very brief moment only.
A lot of indecent intellectuals who used to be very keen on doing good to the public in pre-war times tried by any means to achieve wealth in the post-war period. And their famous excuse was that they did such and such a thing because of wives and kids. What a shame for them. And what a pity for the woman who are their wives and the boys who are their children ! Unsucessful writers have the potential to become efficient censors or alert informers.
In think I will get married. This year I am thirty-two. According to Shin Nai Am who wrote that masterpiece of Chinese fiction, All Men Are Brothers. I should not get married at this late age. But if I do, I will strive to feed my wife and children by the sweat of my brow. I am no different from you, nor do I want to because I still cannot afford another thing than red rice, dried fish, chilly and pepper. But I'm a bit different from you because I have the guts to say that I have been a bloody liar or I have robbed a needy friend. I am not a coward and I know what I am doing for my country's literature. And this is the reason; I could not help writing this short account of my life as a writer. I am not simply man beset by narcissisms.
In 1959 Thiên Giang writer wrote an open letter to Nguiễn- Ngu- Í discussing my case. Mr Í has shown me the letter. He also expressed his desire to see me in his rwesidence at Xóm Chuồng Ngựa -Gia Định Province to have the opprtunity to praise my efforts in promoting the national literary output. That is enough for me. I want to say thanks to the journalist who jokingly," Never
think that there are such words as The Phong in Vietnamese language. Never mention them".
[]
----
(*) The Phong, Khu Rác Ngoại Thành / The Rubbish Tip Outside the City (bilingual)
Dai Nam Van Hien Books, Saigon South Vietnam .( 1963, 2006).
THE PHONG
( p. 52 to 57 - TENGGARA, October 1968,
Volume 2. No 2. / University of Malaya,
Malaysia ).
(from ' Asian Morning Western Music, poems by The Phong.
This Edition : Jan. 2012- Ho Chi Minh City)
Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012
KHAI BÚT XUÂN NHÂM THÌN / thơ TẠ QUANG KHÔI.
Lời dẫn:
Tạ Quang Khôi, tiểu thuyết gia khởi nghiệp viết tiểu thuyết' Mưa gió miền Nam' - từ sự động viên của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan, ban chủ trương nhật báo Tự Do Saigon khi ấy. ( đợt đầu) . Trước 1954 ở Hà Nội , làm thơ ký Tạ Quang Diễm - người đen nhèm tựa hồ ống khói, bạn nữ học Đại học Sư phạm thường đùa : Tạ Quang Khói. Từng hiệu trưởng trường trung học công lập Nguyễn Trãi ( Saigon 4), sau 1975 di tản sang Huê Kỳ. Mới đây, nhờ < www.vanchuongviet. > chuyển điện thư hỏi ''Thằng Phải Gió' có phải là bạn cũ ?
Nên vừa rồi, anh gửi cho đọc 'Khai bút xuân Rồng 2012'' - dường như phong độ - tuổi lẻ 80( liệu) xuân còn xanh ?'
Đường Bá Bổn.
K H A I B Ú T
( xuân Nhâm Thìn 2012)
Năm cùng tháng tận buồn ray rứt,
Dĩ vãng sao còn mãi vấn vương?
Bạn cũ vài tên xa lác đác,
Đứa thì đau ốm, đứa tha phương.
Giao thừa gió nổi ngoài song lạnh,
Ngơ ngác năm canh chỉ một mình,
Từng bước xuân về nghe uể oải
Tám mươi tuổi lẻ xuân còn xanh ?
[]
TẠ QUANG KHÔI.
Tạ Quang Khôi, tiểu thuyết gia khởi nghiệp viết tiểu thuyết' Mưa gió miền Nam' - từ sự động viên của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan, ban chủ trương nhật báo Tự Do Saigon khi ấy. ( đợt đầu) . Trước 1954 ở Hà Nội , làm thơ ký Tạ Quang Diễm - người đen nhèm tựa hồ ống khói, bạn nữ học Đại học Sư phạm thường đùa : Tạ Quang Khói. Từng hiệu trưởng trường trung học công lập Nguyễn Trãi ( Saigon 4), sau 1975 di tản sang Huê Kỳ. Mới đây, nhờ < www.vanchuongviet. > chuyển điện thư hỏi ''Thằng Phải Gió' có phải là bạn cũ ?
Nên vừa rồi, anh gửi cho đọc 'Khai bút xuân Rồng 2012'' - dường như phong độ - tuổi lẻ 80( liệu) xuân còn xanh ?'
Đường Bá Bổn.
K H A I B Ú T
( xuân Nhâm Thìn 2012)
Năm cùng tháng tận buồn ray rứt,
Dĩ vãng sao còn mãi vấn vương?
Bạn cũ vài tên xa lác đác,
Đứa thì đau ốm, đứa tha phương.
Giao thừa gió nổi ngoài song lạnh,
Ngơ ngác năm canh chỉ một mình,
Từng bước xuân về nghe uể oải
Tám mươi tuổi lẻ xuân còn xanh ?
[]
TẠ QUANG KHÔI.
Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2012
Thi ca & Thi nhân: CUNG TRẦM TƯỞNG / CAO THẾ DUNG viết.
Thi ca & Thi nhân:
C U N G T R Ầ M T Ư Ở N G
bài viết: CAO THẾ DUNG.
Tên thực : Cung thúc Cần, sinh năm 1932 tại Hà Nội.
Sĩ quan Không Quân, từng du học tại Pháp.
Ông là một trong mấy nhà thơ thuộc lớp tiền đạo của phong trào
vận động văn học nghệ mới 1956 .
Đã cộng tác với: tạp chí Sáng Tạo, Nghệ Thuật, Khởi Hành..
Đã xuất bản : ' Tình ca ' ( thơ Cung trầm Tưởng, nhạc Phạm Duy,
họa Ngy Cao Uyên - 1959).....
Dù đã bao năm qua , người ta vẫn còn nhớ cái từ điệu mênh mang và hàm dưỡng trong khúc Tình Ca của Cung trầm Tưởng. Ông là một trong số rất ít những nhà thơ, bằng cung bậc của hồn, bằng tiếng nói của tim. Cung trầm Tưởng có một giọng đài các lạ thường, bi hoài như một Bà huyện Thanh Quan. Ông lại có cái phiêu du của Lưu trọng Lư. Thơ ông là thơ tình ái, nhưng thứ tình ái vân du trong khắp ngả tâm linh vời vợi, lên cao vời tìm thân phận, cùng vơi sự nổ trôi về dĩ vãng xa xưa nao ! Lời thơ Cung trầm Tưởng bao giờ cũng trân trọng, ý thơ đài trang, và hình ảnh, là những hình ảnh tuyệt đẹp. Ta hãy lắng nghe :
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế !
Trời mùa đông Paris
Suốt đời lam chia ly
Tiễn em về xứ mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách
Ga Lyon đèn vàng
Tuyết rơi buồn mênh mang
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng
Hôn nhau phút này
Rồi chia ly tức khắc
Khóc đi em, khóc đi em
Để luồn qua tóc rối
Những vì sao rụng ướt vai mềm
Khóc đi em, khóc đi em
Hỡi người yêu xóm nhỏ
Để sương thấm bờ đêm
Đường anh đi tràn ngập lệ buồn em.
( Chưa bao giờ buồn thế ! - Tình ca ).
Ta thấy rằng tiếng thơ Cung trầm Tưởng bát ngát thương yêu qua hình ảnh, qua từ điệu. Thật là một bài thơ xinh xắn, mang cái yêu dấu của Xuân Diệu, mang cái chất thanh cao trong tiếng thơ tình Verlaine. Yêu là nhớ thương, vì trong yêu đã có xa cách. Nỗi buồn xa cách trongt hơ Cung trầm Tưởng đa mang theo cái say sưa, cái ngơ ngẩn trong tâm thần trước phút cách xa. Ta có thể nói, Cung trầm Tưởng là thơ của Tình Ái. và lòng Nhớ Nhung. Hình như bao giờ ông cũng say sưa với dĩ vãng, ôm ấp trái sầu tâm tư của một lần yêu, một lần cách trở, một lần đợi chờ :
Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đổ tràn ly
Mùa thu đêm mưa
Phố cù hè xưa
Công trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút giờ
Mùa thu âm thầm
Bên vướn Lục- xâm'
Ngồi quen ghế đá
Không em buốt giá từ tâm...
(...................)
Mua thu mùa thu
Thôi sầu hoang vu
Yêu em độ lượng
Trong em tâm tưởng giam tù
Mùa thu... trời ơi... mùa thu.
( Mùa thu Paris ).
Tự ngàn xưa, mùa thu đã có duyên nợ với thi nhân. Tiếng thu đìi hiu nhẹ , đi vào tâm thể thi nhân tự muôn đời, tư muôn thê hệ. Verlaine bất tử với một Chanson d'Automne. Cũng không ai có thể quên Lưu trọng Lư với Tiếng thu. Nói đến thu là nói đến cỏ cây vàng úa cùng vơi tâm thức hao mòn trong một nhịp sầu nhớ bâng khuâng. Mùa Thu đã trở thành người tình từ thiên cổ của thi nhân. Khi mùa Thu đến, ai mà không cảm thấy men say của thu... Mùa Thu từ khung trời cao vợi đi len lén vào tâm hồn người, mà ngân lên những cung bậc mây cao của hiu hắt, của chập chùng. Nhất là thuở ở nơi đất lạ của một người yêu giữa công trường lá đổ và tượng đá hoang liêu, thì khung cảnh ấy tự nó đã rất nên thơ mà lại được Cung trầm Tưởng vẽ lên cùng với hơi thu Paris, thì nhất định nó phải là bản tình ca diễm tuyệt của Thu trong cách xa vời vợi và đợi chờ. Vì vậy, ta hãy đọc đi, đọc lại' Thu Paris' mà không cảm thấy chán ! Tiếng thu ấy như Tiếng thu của Lưu trọng Lư- ngân rất dài, tưởng như bất tuyệt, đi thẳng vào trái tim ta, in đậm trong cân não. Đọc xong Thu Paris, ta ao ước một lần đến vườn Luxembourg để chờ đợi một nguời yêu nào đó. Mùa thu Paris quả là sự cám dỗ mơn man, và chưa hết, Cung trầm Tưởng còn thêm nhiều những cám dỗ mơn man khác, cao điệu hơn, đẹp mà đài trang - lạnh lùng trong thiên cổ :
Xanh thau ớn lạnh hồn chiều
Hoang sơ lá cỏ, tiêu điều quán không
Vang dội núi sông
Chiêng ai rùng rú
Khua đời lính thú
Cho trời mênh mông
Đơn côi ai hú đồi thông
Cây mơ nhắc nhở gió đông nhớ chiều
Thuyền nan một mái xiêu xiêu
Con sông tới giấc mắc chiều lên nhanh,
(Chiều ).
Khúc thơ Chiều của Cung Trầm Tưởng không khác gì tiếng nhạc Chiều của Hồ Dzếnh. Thật khó lòng mà dùng ngòi bút để bày tỏ cho hết những' hoang sơ lá cỏ' những' ớn lạnh hồn chiều'. Thật thế, ta chỉ có thể cảm thấy cái chất nhớ chiều của gió Đông, hoang vu trong quán vắng. ta cảm bằng hồn, bắng cả trái tim, thì mới thầm cảm đước cái giọng thơ cao kỳ này :
Con sông tới giấc mắc chiều lên nhanh
Phải là một nhà thơ có biệt tài như Cung trầm Tưởng mới đưa buổi chiều vào tiếng ngân trong lặng lẽ mơ màng như thế !. Người ta bảo thơ Cung trầm Tưởng mang dấu tích thơ Bà huyện Thanh Quan. Nhận xét như thế không phải là sai. Cung trầm Tưởng như đồng điệu với Bà huyện Thanh Quan trong nỗi bi hoài dĩ vãng, trong một ngôn ngữ trân trọng, đài trang :
Bù em một tháng trời gần
Đem hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi
Bù em góp núi chung đồi
Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ
Bù em xuôi có ngàn thơ
Vẫn nghe trắc trở bên bờ sông Thương
( Kiếp sau - Tình ca )
Gần như toàn bộ thơ Cung trầm Tưởng đều mênh mang nỗi tang thương, đơn lạnh. Không một bài thơ nào của ông mà không có cái từ điệu hoang sơ, cô tịch. Ông đi trên con đường thật riêng rẽ - con đường của người trẻ tuổi hôm nay - day dứt với dĩ vãng, bơ vơ trước ngả tương lai. Con đương của ông thì chỉ một mình ông làm- kẻ đ8ang trình trong sót thương ơ hờ, khép kín một nỗi hàn ôn.
Người ta còn nói rằng : Cung trầm Tưởng là một thứ Huy Cận hôm nay. Điều này thì không thể đúng !. Cung trầm Tưởng chi giống Huy Cận ở cái giọng cao kỳ - mang niềm kiêu hãnh của đẳng cấp vong thân- và 2 nhà thơ này không phải là thi nhân đi lên từ quần chúng - Cũng như Huy Cận, Cung trầm Tưởng là thi nhân của một số người chọn lọc. Điều có thể làm ta dễ ngộ nhận Cung trầm Tưởng là chịu ảnh hưởng Huy Cận qua thơ lục bát của ông và của Huy Cận có nhiều nét hao hao. Giọng thơ lục bát Huy Cận như thế này :
Giữa trời hình lá con con
Trời xa sắc biến lá thon mình thuyền
Gió qua lá ngọn triều lên
Hiu hiu gió thổi thuyền trên biển trời
( Lửa thiêng / Huy Cận ).
Đây là giọng thơ lục bát Cung trầm Tưởng :
Chiều đông tuyết phủ âm u
Bâng khuâng chều đến tiếp thu trời buồn
Nhớ ngày tàu cũng đi luôn
Ga thôn trơ nỗi băng nguồn héo hon ...
( Khoác kín / Cung trầm Tưởng )
Ta có thể nhận ra rõ ràng bản sắc của mỗi người một khác, thể chất thơ mỗi người môt vẻ. hai nhà thơ có 2 nét giống nhau, qua giọng thơ nhịp 6 và 8. Lục bát Huy Cận trau chuốt hơn, nhưng thiếu đằm thắm, bình dị, trong sáng. Lục bát Cung trầm Tưởng thì lại hội được cái tình ý phiêu du mà đơn sơ của ca dao, thêm nét đài các Bà huyện Thanh Quan, nỗi bi thương Đoạn trường tân thanh, và cả cái phiêu bồng qua thơ Lưu trọng Lư:
Mưa rơi đêm lành Saigon
Mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi
Mưa bay trời cũng thế thôi
Đời nao biển lạnh mưa bồi đất hoang
Hồn tu kín xứ đa man
Chóng hao thân thể sớm vàng lượng xuân
Niềm tin tay trắng cơ bần
Cuối hoàng hôn lịm bóng thần tượng xưa
Đêm nay trời khóc, trời mưa
Gió lùa ẩm đục trời đưa thu về
Trời hay thu khóc ủ ê
Cổ cao áo kín đi về hồn tôi.
( Đêm sinh nhật )
Thơ lục bát mà đạt được một nghệ thuật như vậy đã là tân kỳ. Không thể so sánh với lục bát Nguyễn Du, cũng không thể so sánh với lục bát Huy Cận. Lục bát hôm nay- với Cung trầm Tưởng là một chứng tích thời đại qua ngôn ngữ, hình ảnh, thi âm. Một sự thoát xác để vươn lên cao, nhưng vẫn giữ lại cái tinh tự muôn thuở trong tâm hồn quê hương. Lục bát Cung trầm Tưởng đủ khả năng tiêu biểu cho sự lớn mạnh, qua đổi thay của lục bát hôm nay. Song có một sự thực mà ai cũng nhận ra; lục bát Cung trầm Tơởng nhiều khi cố ý lập dị, vì nhà thơ quá chú trọng đến ngôn từ - và như cố tình muốn nói lên điều gì thật cao, thật khó hiểu cho nên nhiều chỗ tình ý không được thực. Tuy vậy, lục bát Cung trầm Tưởng không thể lẫn lộn với bất cứ lục bát của ai khác, bởi ông là nhà thơ có bản sắc riêng rẽ, đậm đà. Ông sở trường về thơ lục bát, 5 hoặc 4 chữ, còn thơ 8 chữ thì Cung trầm Tưởng rất tưoờng. Ông cũng không thể thành công ở những đề tài bày tỏ thái độ hay suy tư của ông về quê hương xứ sở. chẳng hạn :
Con sông chảy gieo diêu niềm xúc động
Thụ cuồng si của thái mẹ non cha
Máu Yên Bình máu chợ Ngọc trào pha
Cho chan chứa giòng yêu thương lịch sử
( trích' Không đề ' - tạp chí' Đất Đứng;).
Cung trầm Tưởng vốn là thi nhân quá trân trọng ngôn ngữ lại trau chuốt từ điệu, nên ông dễ dàng thất bại, qua những đề tài không thích hợp với tâm hồn ông. Hồn thơ CTT là thơ của kẻ bi hoài như vị hoàng tử mất ngôi, vì luyến tiếc dĩ vãng, để rồi thức giấc trong bi hoài ! Ông chỉ sở đắc thơ tình tự mà thôi:
Chiều đông tuyết phủ âm u
Bâng khuâng trời đến tiếp thu trời buồn
Nhớ ngày tàu cũng đi luôn
Ga thôn trơ nỗi băng nguồn héo hon
Phương xa nhịp sắt bon bon
Tàu như dưới tỉnh núi còn vọng âm
Sân ga mái giọt âm thầm
Máu đi có nhớ hồi tâm đêm nào
Mình tôi với tuyết non cao
Với cồn pôố tỉnh buốt vào xương da
Với mây trên nhợt ánh tà
Với đèn xóm hạ cũng là tịch liêu
Tôi về bước bước đăm chiêu
Tâm tư khép kín sợ chiều al5nh thêm.
( Khoác kín ).
Với thơ lục bát hôm nay , thì chưa một nhà thơ nào vượt qua được giọng thơ Cung trầm Tưởng. cái giọng thơ trong tình tự nhạc, qua ánh sáng của hình ảnh.
Cung trầm Tưởng là một thi nhân có biệt tài - vì ông có riêng bản sắc. Hồn thơ đi theo cá biệt của tâm hồn ông, và ông thực muốn làm sống lại những huy hoàng của mộng ảo, trong qúa vãng, trong nhớ thương. Ông là nhà thơ của một tình yêu lý tưởng, của hoài niệm, xao xuyến trong tình yêu vô biên. Và Tình Ca là một điềm son của Thi ca hiện đại - một vùng ánh sáng thơ mộng trên Quê hương - một tình tự đậm đà của thời đại.
[]
CAO THẾ DUNG.
( trích' Văn học hiện đại - Thi ca & Thi nhân / Cao Thế Dung/
Nxb Xây dựng, Saigon 1969- tr. 49- 56)
C U N G T R Ầ M T Ư Ở N G
bài viết: CAO THẾ DUNG.
Tên thực : Cung thúc Cần, sinh năm 1932 tại Hà Nội.
Sĩ quan Không Quân, từng du học tại Pháp.
Ông là một trong mấy nhà thơ thuộc lớp tiền đạo của phong trào
vận động văn học nghệ mới 1956 .
Đã cộng tác với: tạp chí Sáng Tạo, Nghệ Thuật, Khởi Hành..
Đã xuất bản : ' Tình ca ' ( thơ Cung trầm Tưởng, nhạc Phạm Duy,
họa Ngy Cao Uyên - 1959).....
Dù đã bao năm qua , người ta vẫn còn nhớ cái từ điệu mênh mang và hàm dưỡng trong khúc Tình Ca của Cung trầm Tưởng. Ông là một trong số rất ít những nhà thơ, bằng cung bậc của hồn, bằng tiếng nói của tim. Cung trầm Tưởng có một giọng đài các lạ thường, bi hoài như một Bà huyện Thanh Quan. Ông lại có cái phiêu du của Lưu trọng Lư. Thơ ông là thơ tình ái, nhưng thứ tình ái vân du trong khắp ngả tâm linh vời vợi, lên cao vời tìm thân phận, cùng vơi sự nổ trôi về dĩ vãng xa xưa nao ! Lời thơ Cung trầm Tưởng bao giờ cũng trân trọng, ý thơ đài trang, và hình ảnh, là những hình ảnh tuyệt đẹp. Ta hãy lắng nghe :
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế !
Trời mùa đông Paris
Suốt đời lam chia ly
Tiễn em về xứ mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách
Ga Lyon đèn vàng
Tuyết rơi buồn mênh mang
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng
Hôn nhau phút này
Rồi chia ly tức khắc
Khóc đi em, khóc đi em
Để luồn qua tóc rối
Những vì sao rụng ướt vai mềm
Khóc đi em, khóc đi em
Hỡi người yêu xóm nhỏ
Để sương thấm bờ đêm
Đường anh đi tràn ngập lệ buồn em.
( Chưa bao giờ buồn thế ! - Tình ca ).
Ta thấy rằng tiếng thơ Cung trầm Tưởng bát ngát thương yêu qua hình ảnh, qua từ điệu. Thật là một bài thơ xinh xắn, mang cái yêu dấu của Xuân Diệu, mang cái chất thanh cao trong tiếng thơ tình Verlaine. Yêu là nhớ thương, vì trong yêu đã có xa cách. Nỗi buồn xa cách trongt hơ Cung trầm Tưởng đa mang theo cái say sưa, cái ngơ ngẩn trong tâm thần trước phút cách xa. Ta có thể nói, Cung trầm Tưởng là thơ của Tình Ái. và lòng Nhớ Nhung. Hình như bao giờ ông cũng say sưa với dĩ vãng, ôm ấp trái sầu tâm tư của một lần yêu, một lần cách trở, một lần đợi chờ :
Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đổ tràn ly
Mùa thu đêm mưa
Phố cù hè xưa
Công trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút giờ
Mùa thu âm thầm
Bên vướn Lục- xâm'
Ngồi quen ghế đá
Không em buốt giá từ tâm...
(...................)
Mua thu mùa thu
Thôi sầu hoang vu
Yêu em độ lượng
Trong em tâm tưởng giam tù
Mùa thu... trời ơi... mùa thu.
( Mùa thu Paris ).
Tự ngàn xưa, mùa thu đã có duyên nợ với thi nhân. Tiếng thu đìi hiu nhẹ , đi vào tâm thể thi nhân tự muôn đời, tư muôn thê hệ. Verlaine bất tử với một Chanson d'Automne. Cũng không ai có thể quên Lưu trọng Lư với Tiếng thu. Nói đến thu là nói đến cỏ cây vàng úa cùng vơi tâm thức hao mòn trong một nhịp sầu nhớ bâng khuâng. Mùa Thu đã trở thành người tình từ thiên cổ của thi nhân. Khi mùa Thu đến, ai mà không cảm thấy men say của thu... Mùa Thu từ khung trời cao vợi đi len lén vào tâm hồn người, mà ngân lên những cung bậc mây cao của hiu hắt, của chập chùng. Nhất là thuở ở nơi đất lạ của một người yêu giữa công trường lá đổ và tượng đá hoang liêu, thì khung cảnh ấy tự nó đã rất nên thơ mà lại được Cung trầm Tưởng vẽ lên cùng với hơi thu Paris, thì nhất định nó phải là bản tình ca diễm tuyệt của Thu trong cách xa vời vợi và đợi chờ. Vì vậy, ta hãy đọc đi, đọc lại' Thu Paris' mà không cảm thấy chán ! Tiếng thu ấy như Tiếng thu của Lưu trọng Lư- ngân rất dài, tưởng như bất tuyệt, đi thẳng vào trái tim ta, in đậm trong cân não. Đọc xong Thu Paris, ta ao ước một lần đến vườn Luxembourg để chờ đợi một nguời yêu nào đó. Mùa thu Paris quả là sự cám dỗ mơn man, và chưa hết, Cung trầm Tưởng còn thêm nhiều những cám dỗ mơn man khác, cao điệu hơn, đẹp mà đài trang - lạnh lùng trong thiên cổ :
Xanh thau ớn lạnh hồn chiều
Hoang sơ lá cỏ, tiêu điều quán không
Vang dội núi sông
Chiêng ai rùng rú
Khua đời lính thú
Cho trời mênh mông
Đơn côi ai hú đồi thông
Cây mơ nhắc nhở gió đông nhớ chiều
Thuyền nan một mái xiêu xiêu
Con sông tới giấc mắc chiều lên nhanh,
(Chiều ).
Khúc thơ Chiều của Cung Trầm Tưởng không khác gì tiếng nhạc Chiều của Hồ Dzếnh. Thật khó lòng mà dùng ngòi bút để bày tỏ cho hết những' hoang sơ lá cỏ' những' ớn lạnh hồn chiều'. Thật thế, ta chỉ có thể cảm thấy cái chất nhớ chiều của gió Đông, hoang vu trong quán vắng. ta cảm bằng hồn, bắng cả trái tim, thì mới thầm cảm đước cái giọng thơ cao kỳ này :
Con sông tới giấc mắc chiều lên nhanh
Phải là một nhà thơ có biệt tài như Cung trầm Tưởng mới đưa buổi chiều vào tiếng ngân trong lặng lẽ mơ màng như thế !. Người ta bảo thơ Cung trầm Tưởng mang dấu tích thơ Bà huyện Thanh Quan. Nhận xét như thế không phải là sai. Cung trầm Tưởng như đồng điệu với Bà huyện Thanh Quan trong nỗi bi hoài dĩ vãng, trong một ngôn ngữ trân trọng, đài trang :
Bù em một tháng trời gần
Đem hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi
Bù em góp núi chung đồi
Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ
Bù em xuôi có ngàn thơ
Vẫn nghe trắc trở bên bờ sông Thương
( Kiếp sau - Tình ca )
Gần như toàn bộ thơ Cung trầm Tưởng đều mênh mang nỗi tang thương, đơn lạnh. Không một bài thơ nào của ông mà không có cái từ điệu hoang sơ, cô tịch. Ông đi trên con đường thật riêng rẽ - con đường của người trẻ tuổi hôm nay - day dứt với dĩ vãng, bơ vơ trước ngả tương lai. Con đương của ông thì chỉ một mình ông làm- kẻ đ8ang trình trong sót thương ơ hờ, khép kín một nỗi hàn ôn.
Người ta còn nói rằng : Cung trầm Tưởng là một thứ Huy Cận hôm nay. Điều này thì không thể đúng !. Cung trầm Tưởng chi giống Huy Cận ở cái giọng cao kỳ - mang niềm kiêu hãnh của đẳng cấp vong thân- và 2 nhà thơ này không phải là thi nhân đi lên từ quần chúng - Cũng như Huy Cận, Cung trầm Tưởng là thi nhân của một số người chọn lọc. Điều có thể làm ta dễ ngộ nhận Cung trầm Tưởng là chịu ảnh hưởng Huy Cận qua thơ lục bát của ông và của Huy Cận có nhiều nét hao hao. Giọng thơ lục bát Huy Cận như thế này :
Giữa trời hình lá con con
Trời xa sắc biến lá thon mình thuyền
Gió qua lá ngọn triều lên
Hiu hiu gió thổi thuyền trên biển trời
( Lửa thiêng / Huy Cận ).
Đây là giọng thơ lục bát Cung trầm Tưởng :
Chiều đông tuyết phủ âm u
Bâng khuâng chều đến tiếp thu trời buồn
Nhớ ngày tàu cũng đi luôn
Ga thôn trơ nỗi băng nguồn héo hon ...
( Khoác kín / Cung trầm Tưởng )
Ta có thể nhận ra rõ ràng bản sắc của mỗi người một khác, thể chất thơ mỗi người môt vẻ. hai nhà thơ có 2 nét giống nhau, qua giọng thơ nhịp 6 và 8. Lục bát Huy Cận trau chuốt hơn, nhưng thiếu đằm thắm, bình dị, trong sáng. Lục bát Cung trầm Tưởng thì lại hội được cái tình ý phiêu du mà đơn sơ của ca dao, thêm nét đài các Bà huyện Thanh Quan, nỗi bi thương Đoạn trường tân thanh, và cả cái phiêu bồng qua thơ Lưu trọng Lư:
Mưa rơi đêm lành Saigon
Mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi
Mưa bay trời cũng thế thôi
Đời nao biển lạnh mưa bồi đất hoang
Hồn tu kín xứ đa man
Chóng hao thân thể sớm vàng lượng xuân
Niềm tin tay trắng cơ bần
Cuối hoàng hôn lịm bóng thần tượng xưa
Đêm nay trời khóc, trời mưa
Gió lùa ẩm đục trời đưa thu về
Trời hay thu khóc ủ ê
Cổ cao áo kín đi về hồn tôi.
( Đêm sinh nhật )
Thơ lục bát mà đạt được một nghệ thuật như vậy đã là tân kỳ. Không thể so sánh với lục bát Nguyễn Du, cũng không thể so sánh với lục bát Huy Cận. Lục bát hôm nay- với Cung trầm Tưởng là một chứng tích thời đại qua ngôn ngữ, hình ảnh, thi âm. Một sự thoát xác để vươn lên cao, nhưng vẫn giữ lại cái tinh tự muôn thuở trong tâm hồn quê hương. Lục bát Cung trầm Tưởng đủ khả năng tiêu biểu cho sự lớn mạnh, qua đổi thay của lục bát hôm nay. Song có một sự thực mà ai cũng nhận ra; lục bát Cung trầm Tơởng nhiều khi cố ý lập dị, vì nhà thơ quá chú trọng đến ngôn từ - và như cố tình muốn nói lên điều gì thật cao, thật khó hiểu cho nên nhiều chỗ tình ý không được thực. Tuy vậy, lục bát Cung trầm Tưởng không thể lẫn lộn với bất cứ lục bát của ai khác, bởi ông là nhà thơ có bản sắc riêng rẽ, đậm đà. Ông sở trường về thơ lục bát, 5 hoặc 4 chữ, còn thơ 8 chữ thì Cung trầm Tưởng rất tưoờng. Ông cũng không thể thành công ở những đề tài bày tỏ thái độ hay suy tư của ông về quê hương xứ sở. chẳng hạn :
Con sông chảy gieo diêu niềm xúc động
Thụ cuồng si của thái mẹ non cha
Máu Yên Bình máu chợ Ngọc trào pha
Cho chan chứa giòng yêu thương lịch sử
( trích' Không đề ' - tạp chí' Đất Đứng;).
Cung trầm Tưởng vốn là thi nhân quá trân trọng ngôn ngữ lại trau chuốt từ điệu, nên ông dễ dàng thất bại, qua những đề tài không thích hợp với tâm hồn ông. Hồn thơ CTT là thơ của kẻ bi hoài như vị hoàng tử mất ngôi, vì luyến tiếc dĩ vãng, để rồi thức giấc trong bi hoài ! Ông chỉ sở đắc thơ tình tự mà thôi:
Chiều đông tuyết phủ âm u
Bâng khuâng trời đến tiếp thu trời buồn
Nhớ ngày tàu cũng đi luôn
Ga thôn trơ nỗi băng nguồn héo hon
Phương xa nhịp sắt bon bon
Tàu như dưới tỉnh núi còn vọng âm
Sân ga mái giọt âm thầm
Máu đi có nhớ hồi tâm đêm nào
Mình tôi với tuyết non cao
Với cồn pôố tỉnh buốt vào xương da
Với mây trên nhợt ánh tà
Với đèn xóm hạ cũng là tịch liêu
Tôi về bước bước đăm chiêu
Tâm tư khép kín sợ chiều al5nh thêm.
( Khoác kín ).
Với thơ lục bát hôm nay , thì chưa một nhà thơ nào vượt qua được giọng thơ Cung trầm Tưởng. cái giọng thơ trong tình tự nhạc, qua ánh sáng của hình ảnh.
Cung trầm Tưởng là một thi nhân có biệt tài - vì ông có riêng bản sắc. Hồn thơ đi theo cá biệt của tâm hồn ông, và ông thực muốn làm sống lại những huy hoàng của mộng ảo, trong qúa vãng, trong nhớ thương. Ông là nhà thơ của một tình yêu lý tưởng, của hoài niệm, xao xuyến trong tình yêu vô biên. Và Tình Ca là một điềm son của Thi ca hiện đại - một vùng ánh sáng thơ mộng trên Quê hương - một tình tự đậm đà của thời đại.
[]
CAO THẾ DUNG.
( trích' Văn học hiện đại - Thi ca & Thi nhân / Cao Thế Dung/
Nxb Xây dựng, Saigon 1969- tr. 49- 56)