Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2012
nhà văn minh hương : hồ dzếnh / bài : hoàng tấn
nhà văn minh hương : hồ dzếnh
hồi ký văn học : hoàng tấn
- trái tim tôi dành cho trung hoa 4 phần, còn 6 phần dành cho việt ...
-vợ hồ dzếnh, nguyễn thị hiền bị bạo bệnh... để lại ... hồ chính ... -...mình ở lại em đi ... chuyện hiểu lầm ... mong tha ... cố nuôi con... đừng để nó kh...
-... hỡi việtnam! tôi nghiêng xuống lòng người... trên luống.. hương thơm ...
-... trên chuyến đi saigon-hànội, gặp hồng nhật, vợ góa trần trung... rổ rá cạp lại... lại bền vững ...
Hồ Dzếnh bước vào làng văn từ 1937, anh không tham gia vào nhóm Tiểu thuyết thứ Bảy, không Tự lực văn đoàn, cũng không có chân trong nhóm Hàn Thuyên, Tiểu thuyếtthứ Năm.. mặc dù trong Tiểu thuyết thứ Bảy, Tiểu thuyết thứ Năm, Mùa gặt mới đều đăng thơ của anh. Những bàit hơ đăng báo àny như một khúc dạo đàu vào văn chương Việtnam. Phải chờ đến những năm đầu thập kỷ 40, khi tập truyện ngắn CHÂN TRỜI CŨ xuất hiện, đông đảo độc giả mới biết và mở rộng vòng tay đón nhà văn Minh hương * có bút pháp độc đáo này . Sau đó, một loạt thơ văn tiếp tục trình làng, Hồ Dzếnh được định hình từ đấy.
----------------------
* Minh hương: Tàu lai, có bố hoặc mẹ là người Trung hoa hoặc Việtnam ( TP )
----------------------
Sau khi nhật đảo chính Pháp ít lâu , Hồ Dzếnh từ Hànội vào Saigon, anh đến thăm tôi tại tòa soạn báo Thanh niên mới tại số 38 J.C. Bosc ( nay Vũ Tùng) bên Gia Định. Tôi quen anh biết anh từ đấy, anh bảo:
" ... trái tim tôi dành cho Trung hoa 4 phần còn 6 phần trao cho Việtnam , đất nước nuôi dưỡng tôi trưởng thành ".
Những bài viết của anh trong thời điểm này rất quan trọng, được đăng trên báo Ngày mai, Điện tín, sài Gòn, Thanh niên mới .. . Chúng tôi mau chóng trở thành tri âm, tri kỷ. Hồ Dzếnh tá túc ngay tại tòa soạn Thanh niên mới, anh ít nói, có phần dè dặt, đôi khi chỉ ngồi im lắng nghe cuộc tranh luận về thời cuộc giữa Lê Tràng Kiều, Thiếu Sơn, Hoàng Phố, Vũ Tùng và Nguyễn Tử Anh ...
Khi Pháp bày ra cuộc thương thuyết 10 ngày với Ủy ban hành chính lâm thời, thì những thức giả đều thừa biết, đó là âm mưu Pháp cáo già, tìm kế hoãn binh, để chờ viện binh. Theo chỉ đạo của Nguyễn Oanh, lúc này là Xứ ủy Nam Kỳ phụ trách tuyên giáo, chúng tôi chuẩn bị rời tòa soạn vào chiến khu ; thì cũng là lúc Hồ Dzếnh chia tay để trở về Hànội. . Anh nói:
" Mình phải rút trước khi chiến cuộc xảy ra ở Saigon"
Chúng tôi mỡ bữa tiệc nhỏ liên hoan, tôi ra lệnh cho thủ quỹ xuất qũy 2000 đồng, gọi là trả nhuận bút cho Hồ Dzếnh; nhưng thật ra là muốn giúp anh thêm lộ phí trở ra Hànội. Từ ấy, chúng tôi xa nhau.
Sau hiệp định Genève, từ bến Chắc Băng trong rừng U Minh , chúng tôi xuống tàu tập kết ra bắc. Tại Hànội, tôi gặp lại Hồ Dzếnh, sau 9 năm xa cách, biết mấy vui mừng ! Tại đại hội thành lập Hội nhà văn Việtnam( 1957) , trong số phiếu bầu Hồ Dzếnh vào ban chấp hành, có lá phiếu của tôi. Chúng tôi trhường gặp nhau luôn, trao đồi về văn chương, học thuật, lúc này Hồ Dzếnh điềm tĩnh hơn và có ý định gác bút. Anh kể lại, sau ngày từ giã Saigon trước ngày 23 mùa thu năm ấy, Hồ Dzếnh gặp nhiều gian nan vất vả, thay đổi hàng chục lượt phương tiện, lúc đi nhờ xe bò, lúc cuốc bộ hàng chục cây số, suýt nữa gặp nguy ở Quảng Ngãi, cuối cùng thoát nạn cũng về tới Hànội.
Sau ngày Toàn quốc Kháng chiến, anh vào Liên Khu 4, ở đây gặp thiếu tướng Nguyễn Sơn, họa Trần Mộng, nhà thơ Quang Dũng. Nhớ lại, đã từng cùng tôi trên gác ở Hànội năm ấy, anh tâm sự thật cởi mở. Anh cho biết, tứ 1948, ờ Liên Khu 4, anh quen biết một nữ cán bộ công tác ờ Ban Tuyên truyền. Tình yêu nẩy nở, sau tiến tới hôn nhân . Ngày tháng hạnh phúc mau chóng trôi qua, cuộc sống gian khổ trong kháng chiến thiếu thốn đủ bề, không khỏi có lúc, vợ chồng nghệ sĩ này gây buồn phiền cho nhau . Như hòn đá ném xuống ao, tạo nên vòng tròn, tan biến mua chóng, rồi dằn vặt đời thường lại nhen lên làm vẩn tới hạnh phúc lứa đôi. Người vợ của Hồ Dzếnh có tên Nguyễn Thị Huyền , năm 1950 bị bạo bệnh qua đời, để lại một bé trai 4, 5 tuổi, đặt tên Hồ Chính. Trước khi qua đời, vợ anh chỉ kịp viết cho chồng vài hàng chữ nguệch ngoạc, Hồ Dzếnh đọc lại cho tôi nghe :
" Mình ở lại, em đi đây. Mọi chuyện hiểu lầm, em xin lỗi và mong được tha thứ ! Cố gắng nuôi con đừng để con phài khổ .. ."
Mắt đăm đăm nhìn lên trần nhà, như nhìn vào một quá khứ xa xăm, rưng rưng nước mắt, Hồ Dzếnh đọc cho nghe bài thơ. Bài thơ huyết lệ mà anh đọc trước bàn thờ vợ, trong tang lễ :
Tặng em vì biết em yêu
Em còn tin tưởng ít nhiều ở anh
Mùa đời rụng cả lá xanh
Nỗi đau thương cũ nay thành máu thơ
Em ơi, giữa tiệc sông hồ
Hiện lên sống lại mấy giờ bên nhau
Mất còn có nghĩa gì đâu
Trong vui cao cả, trong sầu mênh mông .
Năm 1953, cháu Hồ Chính lên 4, không may, vì quá suy dinh dưỡng, cháu lâm bệnh. Lúc này hồ Dzếnh suy sụp tinh thần , nên tổ chức cho phép anh về Hànội để chữa bệnh cho con trai và an dưỡng.
Trên đường về thành, Hồ Dzếnh tự cho mình là hàng thần lơ láo, và nhớ bạn đời, nên anh ngâm nga lại bài thơ :
Lệ nến đêm qua ứa mấy dòng
Chín hồi chuông nguyện khóc trên không
Nàng đi, im lặng như nàng sống
Tóc vẫn thơm nguyên, má vẫn hồng .
Thủ đô Hànội, từng đoàn xe quân sự chạy khắp phố phường. Có một số văn thám vừa dọa dẫm, vừa mua chuộc, hòng kéo anh về cộng tác . Nhưng anh khôn khéo, khước từ. Gà trống nuôi con , bơ vơ giữa kinh thành tráng lệ, anh sống sao đây, và làm sao để sống ? Anh quyết định vào Saigon tìm n ông anhr uột. Nhưng Saigon còn hỗn loạn hơn Hànội gấp bội! Anh lại quyết định trở ra Hànội.
Chính chuyến đi này , anh đã gặp chị Hồng Nhật, vợ góa một nhà thơ nổi tiếng một thời * . Hai người cùng cảnh ngộ, rổ rá cạp lại thành vợ chồng.
----------------
* thi sĩ Trần Trung Phương, nhà thơ chuyên viết thơ thiếu nhi. Xem thêm trong NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930- 1945 / THẾ PHONG ( Nxb Vàng son, Saigon 1974) (TP).
-------- -----
Có người bạn ra câu đối:
Vợ goá nhà thơ lấy nhà thơ goá vợ.
một vị đối lại:
Con nuôi nước Việt, nhờ nước Việt nuôi
Hồ Dzếnh, đọc theo tiếng Quảng Đông Hồ Dzính , nên có bạn đã đùa : " ...này anh Hồ Dzính, dính hồ, và hồ có khi không dính".
Cũng tại trên gác nhỏ trên phố Julien Blanc ( Phủ Doãn sau này ) hôm ấy, Hồ Dzếnh sáng tác được đôi bài . Tôi bèn đưa cuốn sổ, đề nghị chép lại, anh đáp:
" ... quả thực, lúc này mình có phần dao động trước gió bụi kinh thành, tư duy có phần không trong sáng mấy, chẳng muốn làm gì, kể cà chép thơ đã sáng tác."
Nói vậy, sau , anh vẫn chép cho tôi:
THUỞ NÀO XA ?
Có những đêm ngổn ngang tình kháng chiến
Lạc về một thuở hoa hương
Không dưng sực tỉnh thiên đường
Kẻ du khách nằm mơ đời Lưu Nguyễn
Chính mộng đẹp đã làm ta xao xuyến
Bướm phiền hoa ngùi xém dưới lề đường
Gối nghiêng nức nở đêm trường
Tâm sự cuối năm biết mà khó dập
Tro kỷ niệm thời gian chưa kịp lấp
Còn nồng cay hương vị thuở nào xa ?
HỒ DZẾNH
Anh tiếp lời:
" Cuối năm 1953, đầu 54, có người ở chiến khu ra, tôi đã thức trắng đêm để làm thơ - Bài thơ cuối mùa - bài duy nhất nói lên tâm tư của tôi sống trong lòng Hànội tạm chiếm, để gửi tặng 2 bạn là Trần Mộng và Quang Dũng ."
Năm tháng trôi đi, Hồ Dzếnh không viết nữa, anh gác bút thật sự.
Hồ Dzếnh vào làm ở Nhà máy xe lửa Gia Lâm, anh được bổ sung vào xưởng cơ khí, anh làm thợ cơ khí đúc thép. Đâu đó hơn 10 năm làm công nhân, Hồ Dzếnh là 1 công nhân thực thụ. Lần gặp tôi, anh nói toàn về máy móc, quên hẳn chuyện văn chương. Khi mối quan hệ Việt Trung không tốt đẹp ,( 1979) Trung quốc lùa quân lấn Ải Nam Quan , vào sâu mấy tỉnh phía bắc, thế là nạn Hoa Kiều trở thánh vấn đề. Một số cán bộ lãnh đạo thiển cận soi mói, khiến anh đau lòng, anh trở thành đứa con ngỗ nghịch trước mắt soi mói của cha mẹ. Vợ anh, chị Hồng Nhật không còn làm chủ hiệu sách Bình Minh ở góc phố Trần Quốc Toản + phố Huế nữa, phải lui về Hòa Mã, trrước cửa số nhà 88 mở quầy bán sách báo lẻ, sống lấy lất qua ngày. Đôi khi độc giả bắt gặp một trung niên mặt buồn so , bán hàng thay vợ, hụ hợ qua ngày đoạn tháng.
Khi tôi vào Saigon, nghỉ hưu , tôi và anh Hồ Dzếnh vẫn liên lạc với nhau , qua thư từ. Tâm sự thổ lộ trên thư, anh như chim báo bão, tiên đoán trước sau gì sóng gió Việt + Trung sẽ ngưng thổi, hẳn nạn Hoa Kiều sẽ dễ thở hơn. Hồ Dzếnh bộc lộ:
" .. Hỡi nước Việtnam! Tôi nghiêng lòng xuống người, trên luống cày mà hương thơm còn phảng phất , vì tôi đã từng uống nước, nói tiếng của Người, vì tôi thề, yêu người trên bậc tuyệt vời của tôn giáo. Trên dải đất súc tích những tinh hoa của văn chương, những công trạng lịch sử, tôi còn ghi cả những bóng dáng người xưa mà tôi thương yêu ..."
Hồ Dzếnh yêu thương đất việt, nơi anh được sinh ra. Tình cảm sâu lắng từ thuở ấu thơ, chính là tình cảm hệt tình mẹ và con vậy. Anh đã lớn lên trong lòng mẹ, người mẹ Việtnam cần cù, lam lũ, chất phác, thủy chung. Anh cũng yêu tha thiết Trung Hoa, quê nội. Nào mảnh đất Chiết Giang, Thiểm Tây, Tô Châu, Hoàng Hà .. tuy chứa lần đặt chân tới, nhưng đã làm tâm hồn ANH giàu tình cảm sôi động:
Tô Châu lới lớp phù kiều
Trăng đêm Dương Tử, mây chiều Giang Nam ...
... Trên giường bệnh, Hồ Dzếnh viết gửi tới tôi lá thư đề cập mối quan hệ Việt+ Trung được giao hảo trở al5i, vì anh yêu 2 quê nội, ngoại tha thiết !
Hồ Dzếnh ra đi, lặng lẽ, êm đềm, để lạii thương tiếc cho gia đình, bạn bè quen biết, độc giả mến mộ văn chương anh. (....)
Tôi chép thêm một bài thơ khác , Hồ Dzếnh tặng họa sĩ Trần Mộng và Quang Dũng, tác giả tập thơ TÂY TIẾN .
BÀI THƠ CUỐI MÙA
riêng tặng Trần Mộng & Quang Dũng.
Các bạn ơi !
Hànội phù hoa
Hànội điêu tàn trụy lạc
Hànội đau thương tan tác
Nhưng lòng ta Hànội vẫn chưa nguôi
Mưa đêm sâu dìu đặt nét xa khơi
Ngày sáng chói sẽ điêu tàn ước niệm
Ta viết trang Thơ này
Viết mà giấu kín
Mà xé đi những thương tích phong lưu
Vấn vương ta khi đất nước oán cừu
Có những đứa con nằm gai nếm mật
Áo nâu vải tượng trưng hình của đất
Luống cày hoa vun vút lối Ngày Mai
Chỉ còn ta thắp nến vọng đêm dài
Chỉ còn ta nằm mơ tình đã cũ
Xác chưa buông linh hồn còn ủ
Men càng say càng đượm ý thê lương
Kỷ nguyên mai nữa xe buồn
Lòng mơ phía đó, lòng vương nơi này .
Hànội cuối đông 1953, sáng xuân 1954
thơ QUANG DŨNG
[]
HOÀNG TẤN
-----
nguồn : NGƯỜI XƯA MÌNH NHỚ / HOÀNG TẤN
Nxb Đồng Nai 2001, tr. 117 - 129.
Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012
những khuôn mặt văn nghệ đi qua đời tôi / tạ tỵ
NHỮNG KHUÔN MẶT VĂN NGHỆ ĐÃ ĐI QUA ĐỜI TÔI
hồi ký văn học : tạ tỵ
kỳ 8.
chương BA
những khuôn mặt văn nghệ trong hànội tạm chiếm
- họa sĩ hoàng lập ngôn, bùi xuân phái, nguyễn sáng, kịch sĩ khánh hợi + sỹ tiến, sỹ khánh, nhạc sĩ phạm duy, đỗ thế phiệt, nghiêm phú phi , phạm đình chương, nguyễn văn giệp,đỗ thế phiệt,
, ca sĩ Thái Hằng, Hoài Bắc, Thái Thanh, Hoài Trung, Tâm Vấn, Duy Quang, Duy Trác, Kim Tiêu, Mai Khanh, học giả nguyễn văn vĩnh, phạm quỳnh, nhà văn phạm duy tốn, nguyễn minh lang, thanh nam, thi sĩ nguyễn nhược pháp v. v. ...
Trong những ngày đầu sống tại Hànội, tuy vui với gia đình, nhưng trong lòng tôi nặng chĩu u buồn ! Sau gần 5 năm xa cách , tôi gặp lại Hànội, một Hànội điêu tàn với những căn nhà đổ nát, gạch ngói ngổn ngang. Nhiều căn nhà còn nguyên vẹn, nhưng chủ nhân chưa có mặt, loạn thổ phỉ đã tháo gỡ hết và mang đi tất cả mọi thứ, chỉ còn xác nhà im lìm , cô quạnh. Mắt tôi lại phải nhìn thấy lính Pháp, tụi lính nhẩy dù, đi nghênh ngang, coi người dân hồi cư không còn chút giá trị nào. Có điều may mắn, thời gian tôi trở lại Hà Nội vào tháng 6 - 1950, một phần quyền hành nội trị đã được Pháp giao cho cơ quan Việtnam điều hành, do thủ hiến Nguyễn Hữu Trí cầm đầu. Ngay tình mà nói, dù cho chính phủ Kháng chiến có gọi họ là Việt gian đi nữa, nhưng đó chỉ là sự đối nghịch chính trị; chứ tực tế, ngừoi hồi cư từ 1950 trở đi, được dễ chịu phần nào về thủ tục hành chánh, nhất là vấn đề điều tra lý lịch, cũng nhờ vào sự tích cực đấu tranh của những người thuộc các đảng phái Quốc gia, như đảng Đại Việt dám đứng ra nhận lãnh trách nhiệm để đương đầu với Cộng sản, tức chính phủ Kháng chiến. Nếu không có họ, chắc chắn người hồi cư, dù thực, dù giả, cũng gặp khó khăn, đối với Pháp và các người làm thông dịch viên tha hồ làm mưa làm gió, đối với ai không nói được tiếng Pháp và lại bị nghi ngờ về lý lịch! Công hay tội của đảng Đại Việt tùy theo ý thức chính trị mỗi phe nhóm, theo tôi, thì sự có mặt của họ trong thời điểm này vẫn lợi ích cho Quốc gia nhiều hơn là hại !.
Lúc đó, tôi ch8ảng đi đâu, vì không muốn nhìn thấy sự sinh hoạt của thành phố Hànội khác hẳn cung ách sinh hoạt vùng kháng chiến. Tôi ghet sự trưng diện quá lố của một số thanh niên, thiếu nữ nhởn nhơ vui chơi giữa Hànội điêu tàn; hình như họ quên mất cuộc chiến đang tiếp tục tiếp diễn, không cách họ bao xa- đêm đêm, tiếng đại bác vẫn cầm canh không dứt. Tôi nhìn họ, như nhìn con thú sống trong lồng, tuy no đủ về thân xác; nhưng chỉ quẩn quanh trong một chuvi giới hạn, chứ không rộng rãi, thênh thang như trong vùng kháng chiến ! Nói cho đúng, đây chẳng phải tâm trạng riêng tôi, hầu như, nó là bi phẫn chung của tuổi trẻ. Sống trong vùng kháng chiến, thì không thể chịu được gian khổ lâu dài, hơn nữa, nếu không ở trong tổ chức khó mà sống nổi, vì mỗi sự cai trị của nhà nước Kháng chiến càng để lộ rõ chân tương Cộng
sản; nhưng nó kiêu hãnh được làm người dân tự do, độc lập! Còn về thành, an thân thật đấy, nhưng kiếp cá chậu, chim lồng chỉ quẩn quanh ngần ấy thứ và nhiều cảnh chướng tai, gai mắt xảy ra hàng ngày khiến tâm trí mệt mỏi, chán chường ! Cũng chính vì lý do đơn giản này, có một số trí thức, tuy không ở trong đảng phái nào cũng trùm chăn giấu mặt.
Nhưng thời gian làm con người quen dầnvới hoàn cảnh. Chả lẽ, ngày àno cũng ru rú ngồi nhà, nhìn bốn bưc tường quen thuộc, chẳng khác gì ngồi tù diện bích. Mẹ tôi mua cho chiếc xe đạp Peugeot mới tinh. Anh em, mỗi người một thứ, có mục đích để tôi làm quen với nếp sống Hànội. Đã có xe đạp, thỉnh thoảng tôi đạp đi chơi đây đó. Cái chợ hoa ở đầu hồ Gươm không còn nữa, quang cảnh trông không khác xưa là bao. rặng liễu vẫn phơi tóc vàng xuống mặt hồ xanh biếc, Tháp Rùa mốc thếch vẫn đứng cho vơ trên bãi đất giữa hồ và cây cầu Thê Húc vẫn màu sơn đỏ, tuy nay hơi lợt lạt. Những chuyến xe điện cũ kỹ vẫn chạy lên chạy xướng, đi đi về về, chất đầy kh1ch. Khách quan mà nói, trừ nơi nào có giao tranh đổ nát ra, Hànội vẫn vậy, lại có phần sầm uất hơn trước trhời chiến tranh - sự sầm uất này một phần do những người từ nơi khác đổ về tìm nơi an ninh sinh sống. Mỗi khi tan sở, phố phường chật ních xe đạp, còn xe hơi chẳng có mấy cái. Trong nhiều buổi chiều rảnh rỗi, tôi thường đạp xe ra bờ sông Hồng, nhìn dòng nước chảy lừ đừ dọc theo bờ đê. Nhiều cơn mưa đã đổ từ cao nguyên xuống, dòng sông cứ rộng dần, xóa những bãi cát phơi suốt cả 2 mùa đông, xuân. Cầu Long Biên vẫn cũ kỹ, nặng nề, bắc qua sông Hồng, như không cần biết tới biến chuyển lịch sử. Chính trên bãi sông này đã diễn ra cảnh bắn giết vô cùng hãi hùng giữa Trung đoàn Thủ đô và quân Dù của Pháp. Họ giành chiếm từng thước đất và quân Pháp đã chịu tổn thất nặng nề để đẩy lui lực lượng kháng chiến bảo vệ thủ đô, ở bên kia bờ sông Hồng.
Hôm nay , tôi có mặt trên con đê này, mà có cảm giácx gì đâu, ngoài sự nuối tiếc vẩn vơ khôngcội rễ. Với chiếc xe đạp, có thể đi thăm lại tất cả nơi nào muốn, nhưng dù đi đâu, đến đâu; tôi chỉ thấy chán chường, mệt mỏi ! Bạn bè thân thiết còn ở ngoài Khu hết, tôi sống với nhiều tư tưởng u tối, như kẻ đi
trong đường hầm không ánh sáng. Có một buổi chiếu, tôi đang đạp xe trên đường Gia Long, bỗng có ai đó gọi tên. Quay đầu lại, tưởng ai, té ra Đỗ Thế Phiệt. gặp mừng quá, 2 đứa dựng xe bên đường, trò chuyện rôm rả. Phiệt cho biết, cả gia đình đã dinh tê vào Thành từ năm ngoái , và mai đây, Phiệt sẽ vào Sài Gòn, đi tàu thủy qua Paris học nhạc. Giấy tờ đã lo xong hết rồi. Nghe vậy, tôi mời Phiệt lên mạn Hồ Tây ăn bánh tôm, cà Hànội không đâu có bánh tôm ngon bằng những chiếc gánh bán bên lề đường Cổ Ngư. Nơi đây khi trước, tôi thường lên bơi ờ hồ tắm Nghi Tàm, thể nào cũng phải ghé ăn bánh tôm.
Trong khi đạp xe lên Hồ Tây, Đỗ Thế Phiệt cho biết, qua Paris, sẽ theo học thêm kỹ thuật vĩ cầm và nghề đào tạo nhạc trưởng. Đỗ Thế Phiệt chơi vĩ cầm hay lắm, có thua chỉ thua Nguyễn Văn Giệp thôi. Hai đứa đạp xe tới Cổ Ngư, trời vừa xế bóng. Mùi thơm bánh tôm theo gió đưa tới, khiến chúng tôi thèm rỏ rãi. Không cần suy tính, chọn lựa; chúng tôi vây quanh gánh hàng đầu tiên, ngồi xuống ghế đầu, quay mặt ra phái mặt hồ, ánh mặt trời phàn chiếu trên mặt nước như dát bạc. Bữa đó, tôi mời Phiệt ăn bánh tôm no bụng, coi bữa ăn kỷ niệm, biết đến bao giờ mới gặp lại nhau ?!
Đúng vậy, trên 10 năm sau, tôi mới gặp lại Đỗ Thế Phiệt tại Sài Gòn, khji anh làm giám đốc Trường Quốc gia âm nhạc . Phiệt đã lập gia đình, một nữ nhạc công dương cầm, em ruột nữ xa sĩ Minh Trang ( vợ 2 nhạc sĩ Dương Thiệu Tước ) . Nhưng con đường công danh Phiệt chưa hưởng được bao lâu đã tan, đã mất vì bệnh tim , khi đang lái xe ô tô về nhà .
Một buổi tới, thả bộ lòng vòng từ nhà lên thăm ông bà nhạc, bỗng nghe tiếng dương cầm từ trong căn nhà khá đẹp, khang trang, rèm cửa che bằng ren trắng. Tôi ghé mắt nhìn lên tấm màn, một thanh niên trẻ, thân hình nhỏ thó đang dạo đàn. Thấy hay, tôi đứng nghe. Chắc có sự linh ứng nào đo, tiêng đàn bỗng ngưng, và anh thanh niên kia đứng lên, nhìn ra cửa. Thấy có người ở ngoài, anh đi ra. Nhìn thấy chân anh bước không đều, bởi anh có tật ở chân. Anh đưa tay vén rèm cửa, gặp tôi, anh gật đầu chào, rồi lại quay vào, ngồi lại vào dương cầm dạo tiếp. Sau, một bạn tôi cho biết, đó là Nghiêm Phú Phi, tuiy thích tiếng đàn, nhưng chưa có dịp làm quen. Chúng tôi chỉ trở thành bạn, khi chúng tôi cùng sống ở miền Nam, gặp lại anh trên Đài phát thanh Sài Gòn. Nghiêm Phú Phi, dáng người nhỏ nhắn, trắng trẻo, ăn nói từ tốn, dịu dàng, rất dễ thương. Anh cũng yêu hội họa, có mua bức TRIO, tranh sơn dầu tôi mới vẽ xong. Tôi biết anh có mở một lớp dạy dương cầm tại nhà, rất đông học trò.
Sau khi Đỗ Thế Phiệt qua đời, Nghiêm Phú Phi thay Phiệt làm giám đốc Trường Quốc gia âm nhạc.
Bây giờ Hànội đã vào thu, lá rụng ngập đường phố, lá bay xào xạc, khi tôi đạp xe qua những con phố có nhiều cây to. Mùa thu, mùa thu Cách mạng thành công cách đây 6 năm, nhưng mùa thu hôm nay, cái khí thê năm xưa không còn nữa ! Mọi người như quên hẳn 19- 8- 1945, trừ cơ quan nhà nước, sợ Việt Cộng phá rối trật tự, các biện pháp phòng ngừa thi hành gắt gao, triệt để- xét giấy tờ ở dọc đường, hoặc bắt bớ nơi này, nơi kia khi thấy tình nghi. Sự thực, chẳng có gì xảy ra cả, Hànội vẫn vững như bàn thạch. Đã mấy tháng trôi qua, tôi hàon toàn sống nhờ đại gia đình, không vẽ vời, cũng chẳng làm viêc gì, cứ để mặc thời gian đưa đẩy.
Một hôm, Nguyễn Văn Giệp từ Hải Phòng lên tìm tôi, nhờ vẽ 2 mẫu tranh dùng để đắp bas-relief trang trí cho 1 rạp chiếu bóng ngoài trời, do vợ chồng anh làm chủ. Giệp vẫn vậy, trông bệ vệ, phương phi, béo tốt. Gặp tôi, Giệp nói có ý lên thăm ngay , từ khi mới nghe tin tôi dinh tê; nhưng công việc làm ăn đa đoan quá, nay mới có dịp lên Hànội- nhân tiện nhờ vẽ 2 mẫu tranh trang trí. tôi muốn lấy bao nhiêu cũng được. Đây, cơ sở làm ăn và cũng là rạp chiếu bóng ngoài trời đầu tiên được xây cất ở Hải Phòng . Ở Việtnam chưa thấy rạp chiếu bóng ngoài trời, chứ ngoại quốc có từ lâu rồi, vừa xem xi-nê, vừa ăn, thật tiện ! Sau hơn 1 tiếng trò chuyện, Nguyễn Văn Giệp cáo từ, hỏi tôi, chừng nào xong mẫu vẽ. Trả lời: 1 tháng, Giệp đồng ý, rồi cho biết, khi nào lên lấy mẫu sẽ trả tiền. Đây là công việc đầu tiên kiếm ra tiền bằng nghệ thuật của tôi, và quả Nguyễn văn Giệp hiểu giá trị nghệ thuật, sòng phẳng tiển bạc.
Đúng hẹn, anh mang tiến đến, lấy mẫu đem về Hải Phóng thực hiện. Nhưng có lẽ, cái số vợ chồng Giệp làm ăn chưa gặp vận, rạp chiếu bóng ngoài trời thất bại nặng nề - từ đó, cuộc đời anh chị cứ lận đận mãi ! Tôi không hiểu sao, chứ, nếu anh cứ đi đánh đàn cho các tiệm rượu của Pháp cũng dư dả sống. Sau khi đất nước chia đôi, gia đình anh chị di cư vào Nam; tôi chỉ gặp anh vài lần tại Đài phát thanh, rồi sau đó, bẵng một thời gian - mỗt buổi tới, một bạn quen cho biết : Nguyễn Văn Giệp đã mất trong hoàn cảnh túng thiếu, nợ nần chồng chất ! Định mệnh thật khắt khe !
Với số tiền Nguyễn Văn Giệp trả, tôi đi mua sơn, vải, để vẽ lai - phần nào tâm sự nguôi ngoai, chả lẽ cứ kéo dài buồn nản này tới vô tận ? Mùa đông đã về, với cơn gió bấc đầu mùa. Các cô gái Hànội đã choàng thêm chiếc áo len làm dáng. Nhưng lúc này, tôi đã chán hết, không còn mơ ước gì; kể cả thú vui mà ngày trước ít nhiều gì, tôi rất đam mê !
Ngày nào, tôi cũng ngồi trươc gíá vẽ, làm việc từ sáng tới tối, vẽ hoàn toàn tự do. Kỹ thuật, đi sâu vào họa phái lập thể; nhưng tôi chịu ảnh hưởng của ai hết, dù là Picasso hay Braque . Tôi vẽ theo lối nhìn riêng biệt, có vậy, mới chứng tỏ được nét đặc thù nghệ thuật. Tôi quan niệm, làm theo người, hẳn không bao giờ bằng người, lại còn bị mang tiếng nữa ! Do vậy, tác phẩm của tôi lúc ấy, tuy còn vụng dại thật đấy; nó vẫn là của tôi, chính tôi sáng tạo. Trong khi đang say mê với màu sắc, bỗng nghe tin ca sĩ Kim Tiêu đã bị bắt, giam tai Hỏa Lò từ mấy tháng nay. Kim Tiêu và Mai Khanh , hai ca sĩ rất nổi tiếng của Hànội từ tời tiến-kháng-chiến. Trong đời ca hát Phạm Duy, tay này chỉ nể 2 ca sĩ này. Kim Tiêu về Thành trước tôi nhiều tháng. Sau thời gian sống giữa lòng Hànội, có lẽ, hàng ngày phải đối mặt với kẻ thù; hơn nữa, cái mảnh trời Kháng chiến cao rộng, hào quang quá, nên làm tâm trạng Kim Tiêu bứt rứt. Từ bứt rứt đi đến căm hờn, rồi chống đối, do dó anh bị Pháp bắt, buộc tội Việt Minh. Đã ở trong tù, Kim Tiêu vẫn không sợ, dù bị đánh đập, tra khảo, anh vẫn coi thường. Pháp nhốt anh vào xà-lim (cellule ) , anh vẫn hát, hát bài ca Việt Minh. sáng nào anh cũng nắm chặt tay vào song sắt, hát bài Tiến quân ca để đánh thức tù nhân khác dậy. Từ ngoài Khu, Văn Cao được tin này, cảm động lắm, làm một bài thơ, rồi bí mật cho đem vào Hànội, nhờ tình báo nội thành chuyển tận tay Kim Tiêu đang nằm trong tù Hỏa Lò. Tôi đã đọc toàn bài thơ, lâu ngày, nay chỉ còn nhớ ít câu :
... Người danh ca ấy nằm trong ngục
Hànội nhớ tôi, hát bài ca cũ
Tiếng ca như buổi sớm trong
Tiếng ca vang vang phá phách
Xà lim nổ tung ra
Cả Hỏa Lò vỡ toang thành khối nhạc ... !
Câu chuyện về ca sĩ Kim Tiêu, tôi chỉ biết tới đây; còn sau này Kim Tiêu sống hay chết , hoặc ra sao, tôi không hay. Kim Tiêu có giọng hát tốt, hơi dài, ấm, lại truyền cảm... Ở Hànội, giọng nam, tôi chỉ yêu tiếng hát Kim Tiêu, Mai Khanh và Bùi Công Kỷ. Sau này ở miền Nam, tôi yêu tiếng hát
Duy Trác. Duy Trác cũng khí phách, không kém gì Kim Tiêu; nhưng đó là câu chuyện sau ngày 30 - 4- 1975 .
Vào khoảng gần cưới 1950, có một buổi, họa sĩ Hoàng Lập Ngôn đến thăm tôi. Anh họa sĩ này nổi tiếng , nhờ chiếc XE LĂN MÊ LY nhiều hơn là tài năng. Dáng người thon nhỏ, khuôn mặt xương xương, đeo kính cận, ra trường trước tôi vài năm. Anh có vợ, một cô Tàu lai, có 1 cô con gái, tên HOÀNG MÊ LY. Hoàng Lập Ngôn tính tình phóng khoáng , thích làm cái gì khác người. Sau khi ra trrường, thay vì kiếm 1 chỗ làm, anh lại cho đóng 1 chiếc xe ngựa, có mục đích chở cả gia đình * đi dọc theo con đường xuyên việt, kiếm sống bằng cách vẽ chân dung các ông bà nhà quê, mỗi khi đi qua làng mạc nào. Anh dùng tên con gái đặt tên cho CHIẾC XE NGỰA MÊ LY . Sau khi chiếc xe ngựa hoàn thành , sắp sửa lên đường, chụp ảnh đăng báo rùm beng, với mục đích quảng cáo. Thời kỳ 1940- 1941, ai cũng cho là kỳ quái, riêng Hoàng Lập Ngôn rất thích thú, vì mộng ước đã thành hiện thực. Chiếc
XE LĂN MÊ LY ra đi thật, nhưng chỉ lăn đến Thanh Hóa thì ngưng, phải trở về, vì con đau, vợ ốm, còn con ngựa mỗi ngày gầy ruộc đi, mất sức. Tiền công vẽ chân dung không đủ nuôi sống người và ngựa. Chiêc xe lăn khi ra đi hùng khí bao nhiêu, lúc trổ về tiu ngỉu như mèo bị cắt tai; im hơi lặng tiếng, không một tiếng vang- trư 1 số bạn bè quen biết. Khi cuộc Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, gia đình anh không tản cư, vì người mẹ vợ Tàu lai, nên 2 vợ chồng cùng con gái về nhà ngoại tá túc. Ngoài cửa nhà bên ngoại, treo cờ Tàu to tổ bố, quân Pháp không đụng đến. Trong thời gian ở lại Hànội, vợ anh buôn bán, có tiền, anh dùng 1 phần số tiền của vợ sang Pháp, không phải để học vẽ, mà chỉ đi thăm các Bảo tàng Mỹ thuật và du hí ít lâu.
------
* theo Tạ Tỵ, thì CHIẾC XE LĂN MÊ LY có mục đích chở cả gia đình - nhưng theo Nguyễn Anh Thi , thì:
"... Một con ngựa kéo. một cỗ xe đóng 2 tầng, trên chép đầy thơ và chữ ký lưu niệm của các thi sĩ bè bạn. Xe khởi hành từ bờ hồ Hoàn kiếm với 5 người : họa sĩ Hoàng Lập Ngôn, Song Văn, DƯƠNG BÍCH LIÊN bà vợ của ông Ngôn, và cô con gái, tên Mê Ly. Họ quyết định làm một cuộc phiêu du vào tận Sài Gòn . Hết tiền thì diễn kịch dọc đường, Dương Bích Liên rất ít nói, trầm tính, đã đi theo cái nhà lăn có 1 không 2 ấy, rồi đột ngột từ giã để về theo học Trường Beaux Arts ( Cao đẳng Mỹ thuật ).... "
( Dương Bích Liên như tôi biết" / Nguyễn Anh Thi / nguyệt san Văn hóa, số 1 / tháng 1 / 1994 phát hành tại Hà nội - trang 53 ) (TP chú thích )
------------------
Nhưng dần dần, người hồi cư nhiều, sự làm ăn buôn bán bị chia xẻ; hơn nữa, theo lời anh tâm sự, nhờ vả bên ngoại gặp nhiều phiền toái, anh nộp đơn xin vào làm công chức Nha Thông tin Bắc Việt, do
Nguyễn Trọng Trạc làm giám đốc, cơ sở đặt ngay ạti phủ Thủ hiến. Tay Trạc trước kia có viết báo lăng nhăng, nay trrong đảng Đại Việt được đề bạt lam giám đốc, phần nữa nhờ ăn nói hoạt bát, có tinh thần tích cực chống Việt Minh, và i có tinh thần biết quý trọng hiền tài . Hoàng Lập Ngôn đề cao cách đối xử của giám đốc Trạc, rồi ngỏ ý mời tôi vào làm công chức Nha Thông tin Bắc Việt, vì nơi đây đang cần họa sĩ vẽ tranh tuyên truyền chống Việt Minh - Ngôn cũng mời họa sĩ Nguyễn Tiến Chung, anh này chỉ làm 1 thời gian ngắn xin nghỉ, có lẽ vẽ tranh tuyên truyền không phải sở trường, hoặc lý do nào khác thì tôi không biết. Vẽ tranh tuyên truyền, cổ động, đòi hỏi có kỹ thuật riêng, không phải ai là họa sĩ cũng vẽ được tranh tuyên trruyền. Trong giai đoạn đầu, khi Việt Minh cướp chính quyền xong, tôi có vẽ tranh tuyên truyền, ban đầu gặp khó khăn, rồi vẽ nhiều thành quen, nghề dạy nghề ! Hoàng Lập Ngôn biết rõ điều đó, nên anh mời tôi là vậy. Tôi được mời, nhưng phân vân, tâm trạng vẫn còn in đậm dấu vết hào hùng kháng chiến, nhưng thực tế, chả lẽ cứ sống bám vào đại gia đình ? Trả lời Hoàng Lập Ngôn, hãy thư thư cho mấy bữa nữa để suy nghĩ cái đã. Ngôn đồng ý, sau đó, xin được xem những tác phẩm mới của tôi. gật gù tấm tắc khen, tranh tôi đẹp và lạ. Nhân tiện, cho tôi biết, hiện anh đang nghiên cứu lối vẽ Tướng Tinh Họa . Anh giải thích, Tướng Tinh Họa là một hinh thức vẽ chân dung, không chỉ nhằm vẽ giống, mà còn lột tả được tinh, tướng mỗi người in dấu trên nét mặt. Sự thực, lối này chỉ là vẽ hoạt họa, theo cách nhìn riêng của Hoàng Lập Ngôn - tuy nhiên cũng có cái hay riêng. Hoàng Lập Ngôn vẽ tranh nghệ thuật rất tầm thường , không có gì đặc biệt, đại loại chỉ có khuôn mặt đàn bà, nằm, hoặc ngồi bên lọ hoa, bên vách tường; nghĩa là không cò gì là sáng tạo. Tranh là người, nếu đúng vậy, quả tính tình anh cũng hiền hòa, dễ thương, nói năng khóng ác ý; nhưng tình cảm lại bê bối, gặp ai mê nấy, hay là cái nòi nghệ sĩ ắt vậy chăng ?
Chuyện về Hoàng Lập Ngôn mời tôi làm công chức tại Nha Thông tin, tôi có nói cho gia đình nghe. Cả nhà khuyên tôi nên nhận lời, nhất là mẹ và vợ tôi, vì dù muốn, dù không, mình có mặt ở Hànội, tức là đã chông lại Kháng chiến, thời thế đổi thay , sẽ không được tha đâu ! Suy ngẫm ra, có lý, khi Hoàng Lập Ngôn tới thăm lần 2, tôi nhận lời. Hôm sau, Ngôn đưa tôi gặp Nguyễn Trọng Trạc, Giám đốc Trạc lịch sự lắm, tiếp tôi như tiếp bạn thân quen từ lâu. Anh nói, nếu được tôi hợp tác, là sự hãnh diện chẳng riêng anh mà cho những người Quốc gia nữa. Thế là cuộc đới, sớm vác ô đi, tới vác về của tôi bắt đầu từ đấy. Tôi làm việc theo khế ước, 3000 Vn đồng / tháng. Làm được vài tháng, tôi đã có 1 số tiền, mẹ tôi
bàn :
- Nhà mình chật chội quá , không có chỗ nào cho con về nghỉ ngơi thong thả, vậy con nên thuê 1 căn phòng nào gần chỗ làm nghỉ ngơi , cơm nước đã có mẹ lo .
Vơ tôi cũng đồng ý vậy, nhân dịp có người anh em cột chèo dư 1 phòng dưới nhà, tôi bèn thuê lại, ở phố Laveran, sát cạnh nhà nữ ca sĩ Tâm Vấn . Khi tôi đến ở, thì ca sĩ tâm vấn chưa là ca sĩ thực thụ, hãy còn đi học, nhưng tâm vấn mê hát từ nhỏ, do đó, từ bên àny, tiêng hát Tâm Vấn cứ vọng sang, khiến đôi lúc trôi phải ngưng viết để lắng nghe. Thuở con gái, Tâm Vấn xinh lắm, cả cô em cũng vậy, nên chiều chiều, cácchàng trai đạp xe lượn lờ, huýt gió cua gái, lám ồn ào, gây khó chịu không ít ! Chỉ 1 nhà văn Nguyễn Minh Lang có may mắn làm người tình đầu tiên Tâm Vấn. Nguyễn Minh Lang người nhỏ nhắn, thời gian yêu Tâm Vấn, anh còn là học sinh, cũng viết lách được đôi ba cuốn tiểu thuyết, tài năng chưa tới mức, chưa mấy nổi tiếng- ngoài số bạn bè thân thiết, trong đó có Thanh Nam. Lúc này, tôi chưa quen cả hai bạn, dù có nghe nói đến tên một đôi lần.
Làm ở Nha thông tin được ít tháng , tôi đuộc tin Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương dinh tê, rồi
Bùi Xuân Phái, Sao Mai, , Hoàng Công Khanh và Thượng Sỹ. Tôi đến thăm từng người , Đinh Hùng không còn độc thân, có thêm cô vợ trẻ, người nhỏ thó đã mang bầu. Vào Thành, đời sống Đinh Hùng chưa khá hơn xưa, vẫn phải nhờ vả lòng tốt các Mạnh Thường Quân, kể cả Vũ Hoàng Chương cũng vậy. Bấy giờ, các xóm ca nhi không còn hoạt động, nếu còn, chắc cũng mất đi nhiều không khí xưa, vì đời sống kinh tế, chính trị đã đổi khác. Chẳng cứ gì Đinh Hùng đã có vợ mà Bùi Xuân Phái, Sao Mai cũng vậy. Riêng Thượng Sỹ gặp lại người tình cũ ở Hànội, tuy nàng đã cò chồng, con; nhưng vì lý do nào đó đã bỏ nhau- nên Thượng Sỹ bèn đem về làm của riêng, vì anh ta còn mê mệt nàng. Hoàng Công Khanh còn độc thân. Từ đó, tôi lại có bạn bè trò chuyện cho khuây khỏa, mỗi khi có thời giờ rảnh rang. Chúng tôi thường nhắc lại kỷ niệm thời kháng chiến, có người nói, họ dinh tê một phần vì gia đình, - có bạn còn cho tôi được Kháng chiến cưng chiều, sao bỏ về, thì lý do nào khiến họ phải ở lại kia chứ ?! Chắc họ nghĩ, tôi được anh Khuất Duy Tiến cho tiền, được báo CỨU QUỐC THỦ ĐÔ mướn làm việc, , đượ cử đi tham quan mặt trận Đông Xuân, được lãnh tiền đi kiếm tư liệu, được ăn uống ở cơ quan Bình dân học vụ khỏi trả tiền, được cấp Chứng minh thư, đến đâu Ủy ban hành kháng địa phương lo nơi ăn, chốn ở v. v. ... lại được các em bé địa phương gọi là chú; thế mà con dinh tê, vì làm văn nghệ trong kháng chiến không nuôi nổi vợ con- hơn nữa, gặp vài bất mãn trrong cách đối xử, nên chán, bỏ về thành, như trường hợp tôi vậy. Còn Bùi Xuân Phái nói với tôi, sống một mình buồn quá, lấy vợ, ai ngờ lấy vợ xong xuôi thì vỡ lẽ mình phải có trách nhiệm với người đàn bà mình yêu. Đời sống mỗi ngày một khó khăn, mặt trận cứ lan rộng dần, cơ quan rút đi hết, theo họ đi không nổi, chỉ còn một cách dinh tê thôi, đằng nào cũng một lần cho xong ! Bùi Xuân Phái trông vẫn vậy, dù không cạo râu, anh có bộ râu mọc lởm chởm đầy khuôn mặt, cặp mắt thì vẫn sáng long lanh chất chứa thông minh và bàn tay thanh thoát mỗi khi cầm cọ vẽ vời.
Dự ước của tôi đã thành sự thực,tôi đã vẽ được khoảng 50 tác phẩm. Vào khoảng cuối 1951, tôi làm triển lãm tại ngay trụ sở Nha thông tin Bắc Việt, nơi vẫn dùng để triển lãm tranh tuyên truyền , có khi cũng trưng bầy ảnh mỹ thuật của nhiếp ảnh gia tiếng tămnhư Lê Đình Chữ chẳng hạn. Nha thông tin Bắc Việt giúp đỡ tôi, bằng cách in catologue các tranh trưng bầy , cung cấp vải, sơn vẽ biểu ngữ, cùng cổ động trên báo chí về Triển lãm Tranh Ta Tỵ trưng bầy trong vòng 2 tuần lễ. Hia tuấn ấy, tôi vừa làm việc, vừa trông coi triển lãm cá nhân, ngườyi êu mỹ thuật, người xem hiếu kỳ xem đông nghẹt - vì đây là lần đầu tiên triển lãm tranh thuộc trường họa lập thể . Không bao giờ tôi có thể ngờ được, có nhiều người đến xem tranh đến vậy ! Gầu như ngày nào cũng có một số đông đảo người đứng chờ ở ngoài , trước giờ mở cửa. Tỷ lệ người biết thưởng thức tranh chẳng bao nhiêu, phần đông tò mò, muốn nhìn những bức tranh mà chưa bao giờ được thấy. Phòng triển lãm được mang tên TIỀN TIẾN ( Avant- Garde) . Số tranh bán được tới 90 %, sự thực thỉ chưa có phòng triển lãm nào thâu đạt kết quả khả quan như vậy. Các cây bút phê bình mỹ thuật viết nhiều kỳ liên tiếp bàn về phòng tranh, trong đó có bài Nguyễn Giang,. tay viết báo này là thứ nam của nhà báo kỳ cựu nổi danh Nguyễn Văn Vĩnh .
Ở Hànội xưa tuy nhiều gia đình có thế lực, chỉ vài gia đình nổi tiếng về văn học, như gia đình Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, và gia đình họ Dương .
Nguyễn Giang hoc ở Paris, đẫu Cử nhân văn chương Pháp, anh biết vẽ đôi chút, lại cả làm thơ. Tập thơ TRỜI XANH THẲM làm từ hồi học ở Paris, in ra không bán, chỉ tặng bạn bè đọc chơi. Nói cho đúng, thơ anh sao bằng được thơ cậu em ruột Nguyễn Nhược Pháp , và các thi nhân chuyên nghiệp đương thời. Nguyễn Giang người cao lớn, vạm vỡ, dáng dấp rất trí thức. Vầng trán rông, cao, khuôn mặt phương phi, trang nghiêm, tưởng như chẳng bao giờ biết nói đùa. Nhưng không, sau 1 thời gian quen biết, mới thấy con người anh rất hồn nhiên, cới mở. Nói đuà dí dỏm nữa. Anh mời tôi lại nhà ở phố Bovet ( nay Yết Kiêu) để xem tranh anh vẽ. Tranh anh vẽ, theo ý riêng tôi, thì chẳng khác gì thơ,' xêm xêm' như nhau, vậy là cả hai môn đều không có khả năng. Chắc tự biết, nên làm thơ chỉ để tặng và vẽ tranh để chơi thôi. Thơ và tranh đều được vẽ, viết ngay rừ thời anh học ở Paris. Tuy vẽ chẳng giá trị, thơ chẳng hay, lại am hiểu niêm luật thơ, cách cấu tạo tác phẩm các trường họa tây phương khá rành rẽ. Điều này minh chứng, khi anh vừa xem tranh vừa học từ sách vở mà có. Nguyễn Giang rất tham vọng chính trị, mặt này tuy không đạt được kết quả mong muốn. Đường lối chinh trị đi ngược lại đường lối văn hoá người cha, học giả Nguyễn Văn Vĩnh. Thân phụ anh dịch sách pháp ra tiếng việt, còn Nguyễn Giang chuyển dịch việt ngữ sang pháp văn, trong đó có cả Truyện Kiều. Nhờ mở phòng triển lãm tranh, tôi quen thêm nhiều bạn văn nghệ, qua những câu chuyện về nghệ thuật. Trong khi tôi gặt hái thành quả như vậy, thì Phạm Duy, Văn Cao, Nguyễn Sáng không có mặt chung vui với tôi, ngoài Hoàng Lập Ngôn, Bùi Xuân Phái, Phạm Khanh, tay họa sĩ này rất kiêu ngạo, chỉ tin vào sự hiểu biết của mình thông qua sách vở.
Phạm Duy dinh tê sau tôi đúng 1 năm. Tôi hồi cư tháng 6 - 1950, Phạm Duy và Thái Hằng và cả gia đình bên vợ hồi cư tháng 6 - 1951. Phạm Duy có con trai đầu lòng ( sau này là ca sĩ Duy Quang) , quả thực, tôi không ngờ Duy có thể dinh tê. Trong kháng chiến, Phạm Duy đi đến đâu cũng được tiếp đón ân cần, được trao tặng Huân chương Kháng Chiến, và đã được đảng lao Động vuốt ve, được tướng Nguyễn Sơn, tư lệnh Khu 4 đứng al2m chủ hôn; thê mà Duy vẫn dinh tê; chắc phải có lý do sâu sắc lắm ! Chúng trôi gặp nhau vài lần, Phạm Duy cho biết sắp vào Saigon sống, ở đây khôeng tện, và Duy đang tổ chức một ban hợp ca lấy tên THĂNG LONG, để nhớ lại cái quán phở ở chợ Đại, nơi Duy và Thái Hằng gặp, yêu nhau, sau kết nghĩa vợ chồng. Tôi hỏi, ban hợp ca gồm những ai ? Duy đáp, toàn anh chị em trong gia đình cả: Thái Hằng, Hoài Trung ( Phạm Đình Viêm) , Hoài Bắc ( Phạm Đình Chương) và Thái Thanh. Nghe đến tên Thái Thanh, tôi chợt hồi tưởng tới cô bé kẹp tóc buổi nào từng bưng phở cho khách ở chợ Đại. Tôi nhìn Phạm Duy, tỏ ý nghi ngờ, Duy hiểu ý, đáp ngay:
- Cậu đừng có nghĩ Thái Thanh là cô bé nữa nhé! Nàng đã lớn lắm rồi, có giọng ca tuyệt vời ! cậu đã được nghe Thái Thanh hát, chắc mê luôn ! Tôi đang chuẩn bị ráo riết , tập hát bè, đồng thời lo làm thủ tục vô Nam. Cái số tôi phải sống ở miền Nam, cậu ạ, Vô trong đó sẽ tránh được nhiều thứ lắm, nào là tránh được phiền hà về chính trrị, về đới sống v. v. ... Dù sao, trong Nam, họ cởi mở hơn, nhất là họ yêu ca nhạc lắm. Chắc chắn gia đình tôi sẽ sống phong lưu, chứ ở lại Hànội là bà Cả Đọi ngay !
Cái phong cách nói chuyện của Duy như vây, Duy sáng tác lại là con người khác. Về đời sống, lại là một con người khác nữa ! Tôi mới vợ chồng Duy ăn một bữa cơm Tàu, ở trên gác một nhà hàng trông thẳng ra Hồ Gươm. Chúng tôi vừa ăn, vừa nhắc tới kỷ niệm kháng chiến. Phạm Duy như tôi, đều cho rằng đi kháng chiến là tự nguyện, là yêu nước, muốn thấy quốc gia được hoàn toàn độc lập, ngửng đầu nhìn thẳng vào mặt trrời, chứ không muốn cúi đầu làm kiếp nô lệ mãi mãi. Nhưng, chính cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc đã bị ...lợi dụng, dùng dân việt như một phương tiện để củng cố xây dựng ý thức hệ cộng sản sau àny. Chúng tôi, người nhật cảm, thấy ngay sự việc, nên nhất đinh chia tay. Tuy buồn đấy, còn hơn đến lúc hối không kịp ! Từ sau bữa cơm đó, tôi và Phạm Duy không gặp lại, cho tới khi chúng tôi cùng ở miền Nam sau này.
Hànội tuy là thủ đô miền bắc, thành phố ấy nhỏ, đường phố chật chội, quanh quẩn chỉ vài nơi quen thuộc, qua lại mãi cũng chán. Một buổi, Sỹ Tiến bất ngờ lại thăm. Tôi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng gặp lại nhau. Bây giờ Sỹ Tiên gầy, đen nhẹm. Nói chuyện với anh, tôi vẫn phải nói to hơn thường lệ. Anh cho biết, mới dinh tê được trên 1 tháng, giấy tờ chưa xong, chả dám đi đâu. Gánh hát của anh ở chợ Đại đã tan rã từ lâu, vì tình hình quân sự; gia đình anh đã liên lạc nhiều nơi, nhưng không nơi nào dung thân được, đành dinh tê vậy.
Đời sống gặp đầy gian nan , trở ngại. Anh suýt bị chết mấy lần, vì máy bay oanh tạc, trời còn thương nên thoát nạn. Tôi kéo Sỹ Tiến ra quán ngồi nói chuyện, Sỹ Tiến có vẻ bi quan- nhưng anh nói, sẽ cố gắng dựng lại ban hát - mỗt phần để kiếm sống, một phần cho quên đi ngày, tháng buồn tẻ. Trong khi chưa lập được gánh hát, anh soạn tuồng bán để sống đã. Tôi hỏi Khanh Hợi, và hết sức ca tụng nữ nghệ sĩ trong vai Lã Bố mà tôi đã được xem ở chợ Đại, Sỹ Tiến còn cho biết, có người em trai, tên
Sỹ Khánh , đóng tuồng cũng hya lắm! Từ đó, thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau. dần dà, Sỹ Tiến lấy lại phong độ, không còn mấy bi quan nữa, vì ánh đèn sân khấu hằng đêm đã phục hồi tinh thần anh, qua vai tuồng tích mà anh đóng, cộng những vở tuồng mà anh soạn . []
TẠ TỴ
( CÒN TIẾP )
nguồn : NHỮNG KHUÔN MẶT VĂN NGHỆ ĐÃ ĐI QUA ĐỜI TÔI / TẠ TỴ -
( Nxb Thằng Mõ, San Jose, USA 1990 - tr. 109 - 122 )
Thứ Hai, 27 tháng 8, 2012
dịch " DỮ VƯƠNG-THÔNG THƯ " của NGUYỄN TRÃI
bài báo cũ trên đặc san ĐẠI HỌC VĂN KHOA
( Saigon 1957- 1958) .
DỮ VƯƠNG THÔNG THƯ / NGUYỄN TRÃI *
THẨM QUỲNH dịch
Tiểu dẫn - Nguyễn Trãi người làng Nhị Khê, huyện Thường Phúc, nay là phủ Thường Tín, Hà Đông ( Bắc phần ) , thi đỗ về đời Nhụy Hồ. Cha là Nguyễn Trãi , bị quân Minh bắt, đem giải về Yên Kinh. Ông đi theo lên đến ải Nam Quan ; lúc từ biệt, bùi ngùi thương khóc. Phi Khanh dặn con :
- Con cứ về , cố mưu báo thù cho cha, ấy là đắc híếu .
Ông trở về, vào Thanh Hóa, theo vua Lê Thái Tổ ( Lê Lợi ) trong 10 năm, đánh bại nhà Minh, bình định thiên hạ.
Đã đành rằng, không gặp Lê Thái Tổ, sao trổ được tài năng - và, nếu Lê Thái Tổ, không có ông, một người văn võ toàn tài, sao dựng được cơ nghiệp ? Cả nước duyên ưa, rồng mây gặp hội; hơn 20 năm bị lệ thuộc, mà tự nhiên thoát ra khỏi vòng nô lệ, vẻ vang xiết bao !
Lá thư này chép trong cuốn ' Quân trung từ lịnh' do Nguyễn Trãi thảo, gửi cho Vương Thông - nhằm lúc quân ta ở thế mạnh, thông báo cho địch, đừng quất rối nữa, khiến trăm họ phải lầm than . Như thế, cũng là một nước cờ rất cao trong thời chiến vậy.
DỊCH ÂM DỮ VƯƠNG THÔNG THƯ
Thanh Hóa phủ, tri phủ Lê ... thư Phụng Tổng binh, Thành Sơn hầu, tri đạo:
Bộc văn sở quý hồ tuấn kiệt giả, tại hồ thẩm thời thế nhi dĩ. Ngã tại khả cái chi nhật, địa bất quá nhất thành, binh bất quá nhất lữ, mỗi vi Mã Kỳ, Chu Kiệt sở bức. Ngã hựu độn ư Lão Qua, Chí Linh sơn chi địa, đãi thời nhi phát. Thực, bất câu nhị phạn, y bất câu hạ, đông, binh bất quá sổ thiên; khí giới không như dã.
Thân thích , tử đệ, sư hữu, phân tán tha hương, bất phục hoàn tụ; nhi Phương Chính, Mã Kỳ, Vương Thành, Phúng Quý đẳng, hựu liên tuế tiến binh. Ngã chi binh, đán tịch hoàn giáp, vô nhứt thời thiểu tức. Nhiên xứ khốn nhi hanh, lũ chiến, lũ thắng, sở qua vô bất đồi chiết, khởi phi thiên y hồ ?
Kim giả , thiên vận tuần hoàn, vô vãng bất phục. Tích giả, thực, bất câu nhị phạn; kim nhân lương trừ, hữu tam niên chi thực. Tích giả, binh, bất quá sổ thiên ; kim Thanh Hoa phụ tử chi binh, bất hạ nhị vạn. Diễn Châu, Tân Bình, Giao Châu đẳng lộ, đồng tâm đồng lực chi sĩ, bất hạ thập vạn. Kỳ dư, chiến sĩ, bất hạ tam thập vạn. Tích chi thân thích, sư hữu phân tán; kim giả trí mưu, tài thức chi sĩ, lâm lập, chất tỷ. Tích chi khí giới không không ; kim giả, chiến thuyền liên vân, khải giáp diệu nhật, súng tiễn đôi tích, hỏa dược sung thương, dĩ kim hiệu tích, cương nhược khả tri.
Huống , nhĩ quốc vương liên niên tử tang, cốt nhục tương tàn; bắc khấu xâm lăng, đại thần bất phụ. Gia chi dĩ hung niên tồn trăn, thổ mộc lũ hưng, chính lịnh phiền hà. Tự Hồng vũ chí kim, cùng binh, độc vũ, quốc trung hư hao, nhân dân bì tệ. Thiên chi dáng trung, chính tại thử thời, nhĩ thượng bất đạt thời, thẩm thế, phản thính Phương, Mã, chi ngôn, do vi cố thủ chi kế. Bỉ nhược thiện ư công thủ, hà bất công ư khả cái vị nhược chi thời, nhi phản cưu trương khoa đại ư kim nhật hồ ? Hà bất tư chi thậm dã ?
Huống hựu , đồ nhân nhĩ mục, thiết từ cuống chúng, thanh ngôn viện binh tương chí, Trương Phụ phục lai, nhĩ hà bất tư kim nhật tuy hữu viện binh thập vạn, cảm quá quan hồ ? Nhược kỳ khuynh quốc nhi lai, hoặc tam tứ thập vạn; nhĩ hà bất liệu nghĩ quốc kim nhật, quả vô sự hồ ? ức tiêu tường chi nội, do hữu sự hồ ? Trương Phụ đẳng nhất thời kiêu hãnh thành công, dĩ thị thời Hồ thị thóan đạt, nhất quốc chi nhân thị nhược cừu địch, chúng bạn, thân ly ; Trương Phụ thừa hấn, toại năng thành công. Nhĩ , ha bất tư, ngã binh tượng chi đa, tâm lực chi tề; túng hữu Trương Phụ bách bối, kỳ như ngã hà ? Trương Phu lĩnh tam tứ thập vạn binh xuất cảnh, nhĩ triều khẳng phóng tâm hồ ?
Kim vi công kế , bất nhược Thái đô đốc ban sư hồi kinh khứ chi vi dụ dã. Bất nhiên, ngã kỳ nhất chỉ, ngã cổ nhất minh, công đẳng hối tương hà cập. Dịch viết : ( Cùng tắc biến, biến tắc thông ). Công đẳng hạp tư thử. Ngô khủng nhĩ chi sĩ tốt, nhật dạ tư quy chi thiết ; Kế dĩ chiên, trúc bất bảo, tật bịnh tương nhung; tuy công thả thủ, thùy kỳ dữ chi . Ngạn vân : ( Nhất triêu vô thực, phụ tử tương ly ). Thả Phương, Mã đẳng, sở vị bại binh chi tướng, bất khả ngữ dũng ; Công đẳng kỳ thục tư chi .
DỊCH NGHĨA :
thư NGUYỄN TRÃI GỬI VƯƠNG THÔNG,
THỐNG CHẾ QUÂN NHÀ MINH
Quan tri phủ phủ Thanh Hóa, họ Lê ... gửi thư cho quan Thành Sơn hậu lĩnh chức tổng binh biết rằng :
Ta nghe nói những bực tuấn kiệt, quý hồ phải xét kỹ thời thế mà thôi. Lúc, ta ở khả cái, đất, chẳng qua có một thành ( Mỗi thành, 10 rậm vuông ); lính, chẳng qua có một lữ ( một lữ 500 người ) , thường bị Mã Kỳ, Chu Kiệt bức bách đến luôn. Ta phải trốn ở núi Chí Linh, đất Lão Qua để đợi thời, ăn không đủ hai bữa cơ, áo mặc không đủ mùa nực, mùa rét, binh lính không quá vài ngàn người, khí giới không có gì cả. Họ hàng, con em, thầy, bạn, phân tán đi tha phương, không được đoàn tụ ; mà lũ tên Phương Chính, Mã Kỳ, Vương Thành, Phùng Quý lại hàng năm tiến quân. Quân lính của ta, sớm tối luôn luôn phải mặc áo giáp, không bao giờ được nghỉ ngơi. Nhưng mà gặp lúc cùng khốn lại hoá ra hanh thông, hễ đánh al được, qua nơi nào cũng phá tan cả, há chẳng phải là lòng Trời ư ?
Ngày nay , vậnt rời tuần hoàn, qua rồi lại lại. Xưa kia, ăn không đủ hai bữa, giờ thì lương thực trừ bị, được đến ba năm. Xưa kia, binh lính không qúa vài ngàn; giờ thì quân Thanh Hoa một lòng như cha con không kém hai vạn. Lính ở Diễn Châu, Tân Bình, Thuận Hóa vẫn có tiếng là tinh duệ, dũng cảm, không dưới vài vạn; cùng với binh sĩ ở vùng Giao Châu, đồng lực, đồng tâm, không kém 10 vạn. Lại còn các chiến sĩ đằng khác, bực trí mưu, tài lược, nhiều như rừng rậm như răng lược bi liền nhau. Xưa kia khí giới không có gì; giờ thì chí chiến thuyền liền với mây, áo giáp rực rỡ; súng, tên, thuốc súng, chất lại đầy kho. Lấy bây giờ so với ngày xưa thế mạnh hay yếu, tự nhiên khắc rõ.
Huống chi, quốc vương nhà ngươi, năm, năm, có trùng tang, cốt nhục tương tàn; phương bắc có giặc lại muốn xâm lăng, các quan đại thần không quy phụ. Gia chi dĩ, trời mất mùa luôn, lại hay xây cất nhà cửa, chính lịnh rất phiền hà. Từ niên hiệu Hồng Vũ ( đời Minh Thái Tổ ) đến nay, khi nhàm việc binh đao trong nước hao mòn, nhân dân mỏi mệt lòng Trời muốn xoay lại, chính ở lúc bây giờ.
Nhà ngươi chẳng biết thời thế, lại nghe lời nói của Trương Phụ, Mã Kỳ, còn dùng mưu cố thủ. Họ, nếu giỏi về tài đánh trác, sao không đánh ngay lúc ở khả cái, thế ta còn yếu, mà ngày nay lại dám khoa trrương à . Sao không chịu nghĩ thế ? Vả lại, bịt cả tai mắt người ta, đặt điều dả dối, nói phao rằngviện binh sắp tới, Trương Phụ lại sang. Nhà người sao không nghĩ, ngày nay dẫu có viện binh đến 10 vạn, có dám qua cửa ải không ? Nếu mà mang hết quân trong nước sang đây, nhà ngươi sao không tính trước, ngày nay trong nước quả đã vô sự chưa ? Hay là trong triều đình còn đang hữu sự . Lũ Trương Phụ kiêu hãnh một lúc mà thành công, là vì bấy giờ họ Hồ cướp ngôi, người trong nước coi như cừu địch, dân chúng phản lại , thân thuộc lìa tan ; Trương Phụ thừa cơ mới làm nên công trạng. Nhà ngươi sao không nghĩ, ta bây giờ binh và voi rất nhiều, cùng lòng, cùng sức, túng sử có mỗt trăm người như Trương Phụ, có làm nổi ta đâu ? Trương Phụ lĩnh ba, bốn mưoi vạn quân ra khỏi biên cảnh, triều đình bên nước nhà ngươi, có chịu phóng tâm như thế không ?
Nay vì nhà ngươi tính toán, không có gì bằng đô đốc họ Thái thu quân về là hơn ( Thái tức là Thái Phúc) . Không thế thì ta phất một lá cờ , dánh một tiếng trống, lũ nhà ngươi hới cũng không kịp đâu. Kinh Dịch có câu: ( Cùng thì phải biến, tất được hanh thông ) , lũ nhà ngươi sao không nghĩ thế . Ta sợ rằng : binh lính của nhà ngươi, ngày đêm chỉ mong về xứ sở; lại thêm cơm cháo chẳng no, đeo luôn bịnh tật ai cũng giữ thế thủ thế công . Ngạn ngữ có nói : ( Một buổi sớm không có ăn, cha con cũng phải ly tán ) . Vả lại, lũ Phương Chinh, Mã Kỳ đều là bại tướng, còn nói gì đến sự dũng cảm nữa . Lũ nhà ngươi nên nghĩ cho chín mới được .
[]
THẨM QUỲNH .
------
* nguyên bản bài báo đính kèm bản Hán văn.
( Biên tập chú thích )
nguồn: đặc san ĐẠI HỌC VĂN KHOA SAIGON -
1957 1958.
( Faculté de Lettres de Saigon /
Doyen: Nguyễn Huy Bảo - p. 86- 91 )
( Saigon 1957- 1958) .
DỮ VƯƠNG THÔNG THƯ / NGUYỄN TRÃI *
THẨM QUỲNH dịch
Tiểu dẫn - Nguyễn Trãi người làng Nhị Khê, huyện Thường Phúc, nay là phủ Thường Tín, Hà Đông ( Bắc phần ) , thi đỗ về đời Nhụy Hồ. Cha là Nguyễn Trãi , bị quân Minh bắt, đem giải về Yên Kinh. Ông đi theo lên đến ải Nam Quan ; lúc từ biệt, bùi ngùi thương khóc. Phi Khanh dặn con :
- Con cứ về , cố mưu báo thù cho cha, ấy là đắc híếu .
Ông trở về, vào Thanh Hóa, theo vua Lê Thái Tổ ( Lê Lợi ) trong 10 năm, đánh bại nhà Minh, bình định thiên hạ.
Đã đành rằng, không gặp Lê Thái Tổ, sao trổ được tài năng - và, nếu Lê Thái Tổ, không có ông, một người văn võ toàn tài, sao dựng được cơ nghiệp ? Cả nước duyên ưa, rồng mây gặp hội; hơn 20 năm bị lệ thuộc, mà tự nhiên thoát ra khỏi vòng nô lệ, vẻ vang xiết bao !
Lá thư này chép trong cuốn ' Quân trung từ lịnh' do Nguyễn Trãi thảo, gửi cho Vương Thông - nhằm lúc quân ta ở thế mạnh, thông báo cho địch, đừng quất rối nữa, khiến trăm họ phải lầm than . Như thế, cũng là một nước cờ rất cao trong thời chiến vậy.
DỊCH ÂM DỮ VƯƠNG THÔNG THƯ
Thanh Hóa phủ, tri phủ Lê ... thư Phụng Tổng binh, Thành Sơn hầu, tri đạo:
Bộc văn sở quý hồ tuấn kiệt giả, tại hồ thẩm thời thế nhi dĩ. Ngã tại khả cái chi nhật, địa bất quá nhất thành, binh bất quá nhất lữ, mỗi vi Mã Kỳ, Chu Kiệt sở bức. Ngã hựu độn ư Lão Qua, Chí Linh sơn chi địa, đãi thời nhi phát. Thực, bất câu nhị phạn, y bất câu hạ, đông, binh bất quá sổ thiên; khí giới không như dã.
Thân thích , tử đệ, sư hữu, phân tán tha hương, bất phục hoàn tụ; nhi Phương Chính, Mã Kỳ, Vương Thành, Phúng Quý đẳng, hựu liên tuế tiến binh. Ngã chi binh, đán tịch hoàn giáp, vô nhứt thời thiểu tức. Nhiên xứ khốn nhi hanh, lũ chiến, lũ thắng, sở qua vô bất đồi chiết, khởi phi thiên y hồ ?
Kim giả , thiên vận tuần hoàn, vô vãng bất phục. Tích giả, thực, bất câu nhị phạn; kim nhân lương trừ, hữu tam niên chi thực. Tích giả, binh, bất quá sổ thiên ; kim Thanh Hoa phụ tử chi binh, bất hạ nhị vạn. Diễn Châu, Tân Bình, Giao Châu đẳng lộ, đồng tâm đồng lực chi sĩ, bất hạ thập vạn. Kỳ dư, chiến sĩ, bất hạ tam thập vạn. Tích chi thân thích, sư hữu phân tán; kim giả trí mưu, tài thức chi sĩ, lâm lập, chất tỷ. Tích chi khí giới không không ; kim giả, chiến thuyền liên vân, khải giáp diệu nhật, súng tiễn đôi tích, hỏa dược sung thương, dĩ kim hiệu tích, cương nhược khả tri.
Huống , nhĩ quốc vương liên niên tử tang, cốt nhục tương tàn; bắc khấu xâm lăng, đại thần bất phụ. Gia chi dĩ hung niên tồn trăn, thổ mộc lũ hưng, chính lịnh phiền hà. Tự Hồng vũ chí kim, cùng binh, độc vũ, quốc trung hư hao, nhân dân bì tệ. Thiên chi dáng trung, chính tại thử thời, nhĩ thượng bất đạt thời, thẩm thế, phản thính Phương, Mã, chi ngôn, do vi cố thủ chi kế. Bỉ nhược thiện ư công thủ, hà bất công ư khả cái vị nhược chi thời, nhi phản cưu trương khoa đại ư kim nhật hồ ? Hà bất tư chi thậm dã ?
Huống hựu , đồ nhân nhĩ mục, thiết từ cuống chúng, thanh ngôn viện binh tương chí, Trương Phụ phục lai, nhĩ hà bất tư kim nhật tuy hữu viện binh thập vạn, cảm quá quan hồ ? Nhược kỳ khuynh quốc nhi lai, hoặc tam tứ thập vạn; nhĩ hà bất liệu nghĩ quốc kim nhật, quả vô sự hồ ? ức tiêu tường chi nội, do hữu sự hồ ? Trương Phụ đẳng nhất thời kiêu hãnh thành công, dĩ thị thời Hồ thị thóan đạt, nhất quốc chi nhân thị nhược cừu địch, chúng bạn, thân ly ; Trương Phụ thừa hấn, toại năng thành công. Nhĩ , ha bất tư, ngã binh tượng chi đa, tâm lực chi tề; túng hữu Trương Phụ bách bối, kỳ như ngã hà ? Trương Phu lĩnh tam tứ thập vạn binh xuất cảnh, nhĩ triều khẳng phóng tâm hồ ?
Kim vi công kế , bất nhược Thái đô đốc ban sư hồi kinh khứ chi vi dụ dã. Bất nhiên, ngã kỳ nhất chỉ, ngã cổ nhất minh, công đẳng hối tương hà cập. Dịch viết : ( Cùng tắc biến, biến tắc thông ). Công đẳng hạp tư thử. Ngô khủng nhĩ chi sĩ tốt, nhật dạ tư quy chi thiết ; Kế dĩ chiên, trúc bất bảo, tật bịnh tương nhung; tuy công thả thủ, thùy kỳ dữ chi . Ngạn vân : ( Nhất triêu vô thực, phụ tử tương ly ). Thả Phương, Mã đẳng, sở vị bại binh chi tướng, bất khả ngữ dũng ; Công đẳng kỳ thục tư chi .
DỊCH NGHĨA :
thư NGUYỄN TRÃI GỬI VƯƠNG THÔNG,
THỐNG CHẾ QUÂN NHÀ MINH
Quan tri phủ phủ Thanh Hóa, họ Lê ... gửi thư cho quan Thành Sơn hậu lĩnh chức tổng binh biết rằng :
Ta nghe nói những bực tuấn kiệt, quý hồ phải xét kỹ thời thế mà thôi. Lúc, ta ở khả cái, đất, chẳng qua có một thành ( Mỗi thành, 10 rậm vuông ); lính, chẳng qua có một lữ ( một lữ 500 người ) , thường bị Mã Kỳ, Chu Kiệt bức bách đến luôn. Ta phải trốn ở núi Chí Linh, đất Lão Qua để đợi thời, ăn không đủ hai bữa cơ, áo mặc không đủ mùa nực, mùa rét, binh lính không quá vài ngàn người, khí giới không có gì cả. Họ hàng, con em, thầy, bạn, phân tán đi tha phương, không được đoàn tụ ; mà lũ tên Phương Chính, Mã Kỳ, Vương Thành, Phùng Quý lại hàng năm tiến quân. Quân lính của ta, sớm tối luôn luôn phải mặc áo giáp, không bao giờ được nghỉ ngơi. Nhưng mà gặp lúc cùng khốn lại hoá ra hanh thông, hễ đánh al được, qua nơi nào cũng phá tan cả, há chẳng phải là lòng Trời ư ?
Ngày nay , vậnt rời tuần hoàn, qua rồi lại lại. Xưa kia, ăn không đủ hai bữa, giờ thì lương thực trừ bị, được đến ba năm. Xưa kia, binh lính không qúa vài ngàn; giờ thì quân Thanh Hoa một lòng như cha con không kém hai vạn. Lính ở Diễn Châu, Tân Bình, Thuận Hóa vẫn có tiếng là tinh duệ, dũng cảm, không dưới vài vạn; cùng với binh sĩ ở vùng Giao Châu, đồng lực, đồng tâm, không kém 10 vạn. Lại còn các chiến sĩ đằng khác, bực trí mưu, tài lược, nhiều như rừng rậm như răng lược bi liền nhau. Xưa kia khí giới không có gì; giờ thì chí chiến thuyền liền với mây, áo giáp rực rỡ; súng, tên, thuốc súng, chất lại đầy kho. Lấy bây giờ so với ngày xưa thế mạnh hay yếu, tự nhiên khắc rõ.
Huống chi, quốc vương nhà ngươi, năm, năm, có trùng tang, cốt nhục tương tàn; phương bắc có giặc lại muốn xâm lăng, các quan đại thần không quy phụ. Gia chi dĩ, trời mất mùa luôn, lại hay xây cất nhà cửa, chính lịnh rất phiền hà. Từ niên hiệu Hồng Vũ ( đời Minh Thái Tổ ) đến nay, khi nhàm việc binh đao trong nước hao mòn, nhân dân mỏi mệt lòng Trời muốn xoay lại, chính ở lúc bây giờ.
Nhà ngươi chẳng biết thời thế, lại nghe lời nói của Trương Phụ, Mã Kỳ, còn dùng mưu cố thủ. Họ, nếu giỏi về tài đánh trác, sao không đánh ngay lúc ở khả cái, thế ta còn yếu, mà ngày nay lại dám khoa trrương à . Sao không chịu nghĩ thế ? Vả lại, bịt cả tai mắt người ta, đặt điều dả dối, nói phao rằngviện binh sắp tới, Trương Phụ lại sang. Nhà người sao không nghĩ, ngày nay dẫu có viện binh đến 10 vạn, có dám qua cửa ải không ? Nếu mà mang hết quân trong nước sang đây, nhà ngươi sao không tính trước, ngày nay trong nước quả đã vô sự chưa ? Hay là trong triều đình còn đang hữu sự . Lũ Trương Phụ kiêu hãnh một lúc mà thành công, là vì bấy giờ họ Hồ cướp ngôi, người trong nước coi như cừu địch, dân chúng phản lại , thân thuộc lìa tan ; Trương Phụ thừa cơ mới làm nên công trạng. Nhà ngươi sao không nghĩ, ta bây giờ binh và voi rất nhiều, cùng lòng, cùng sức, túng sử có mỗt trăm người như Trương Phụ, có làm nổi ta đâu ? Trương Phụ lĩnh ba, bốn mưoi vạn quân ra khỏi biên cảnh, triều đình bên nước nhà ngươi, có chịu phóng tâm như thế không ?
Nay vì nhà ngươi tính toán, không có gì bằng đô đốc họ Thái thu quân về là hơn ( Thái tức là Thái Phúc) . Không thế thì ta phất một lá cờ , dánh một tiếng trống, lũ nhà ngươi hới cũng không kịp đâu. Kinh Dịch có câu: ( Cùng thì phải biến, tất được hanh thông ) , lũ nhà ngươi sao không nghĩ thế . Ta sợ rằng : binh lính của nhà ngươi, ngày đêm chỉ mong về xứ sở; lại thêm cơm cháo chẳng no, đeo luôn bịnh tật ai cũng giữ thế thủ thế công . Ngạn ngữ có nói : ( Một buổi sớm không có ăn, cha con cũng phải ly tán ) . Vả lại, lũ Phương Chinh, Mã Kỳ đều là bại tướng, còn nói gì đến sự dũng cảm nữa . Lũ nhà ngươi nên nghĩ cho chín mới được .
[]
THẨM QUỲNH .
------
* nguyên bản bài báo đính kèm bản Hán văn.
( Biên tập chú thích )
nguồn: đặc san ĐẠI HỌC VĂN KHOA SAIGON -
1957 1958.
( Faculté de Lettres de Saigon /
Doyen: Nguyễn Huy Bảo - p. 86- 91 )
Thứ Bảy, 25 tháng 8, 2012
những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi / tạ tỵ
NHỮNG KHUÔN MẶT VĂN NGHỆ ĐÃ ĐI QUA ĐỜI TÔI ...
hồi ký văn học : tạ tỵ
kỳ 7.
-... kịch sĩ Sỹ Tiến+ Khánh Hợi, nhạc sĩ Tô Vũ, Đỗ Thế Phiệt, Lương Ngọc Châu, Phạm Duy, thi sĩ Huyền Kiêu, Đoàn Văn Cừ, họa sĩ Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái , Lương Xuân Nhị, kịch sĩ Ngọc Đĩnh ...
-... nhạc sĩ Tô Vũ vốn là nhà tu...
-...họa sĩ Nguyễn Sáng chuyên vẽ giấy ... , có số đào... một cô Tàu lai chỉ ... đã theo Sáng về ...
-... họa sĩ Tạ Tỵ được Văn Cao dạy hát, hát hoài, mà ...
-... thi sĩ Đoàn Văn Cừ trông quê mùa, nhưng ...
- thi sĩ Quang Dũng râu mép thật dày... nhìn bề ngoài giống như lính Nhật ...
Có thời gian , tôi dạy vẽ tại một lớp huấn luyện dành cho các cán bộ ngành Thông tin tuyên truyền mới được tuyển mộ. Lớp huấn luyện này cho Chi bộ văn nghệ Liên khu 3 tổ chức. Lớp có nhiều bộ môn, thời gian huấn luyện 3 tháng. Do vậy, mỗi tuần 2 lần, tôi phải đi từ quê đến làng Phù Lưu Tranh, cách nơi tôi ở khoảng 10 cây số. Vấn đề đi bộ trong thời gian kháng chiến, chuyện rất thường, mỗi ngày có khi đi cả vài chục cây số như không. Một buổi sáng, như thường lệ, tôi đeo xà-cột lên đường đi dạy học. Sau khi băng qua những cánh đồng rộng, tôi theo con đường đê làng Đặng đi xuôi tới Phù Lưu Tranh. Tôi cắm cúi đi, hai ống quần đã bám đầy cỏ may, cũng chả buồn cúi xuống nhặt như mọi lần. Bỗng phia trrước tôi, có anh bộ đội đang ngửa mặt nhin trời, chiếc ba-lô to kềnh đặt nghiêng bên lề cỏ. Khi tôi bước tới gần đến nơi, anh ta nghe tiếng chân, quay mặt nhìn, nheo mắt cười. Tôi chợt kêu:
- Ủa Quang Dũng ! sao lại ngồi đây ?
Quang Dũng đưa tay kéo tôi ngồi bệt xuống cỏ. Quang Dũng lúc ấy chưa nổi tiếng bao nhiêu, dù cho tập thơ TÂY TIẾN đã ra đời, nhưng trong hoàn cảnh kháng chiến, sự phổ biến quả tình hạn hẹp. Quang Dũng, quê ở Bất Bạt , Sơn Tây, người to lớn, có hàng râu mép thật dày, nhìn bề ngoài, anh giống như lính Nhật Bản. Trông tướng dữ dằn như vậy, nhưng tính tình lại hiền hậu, nói năng nhỏ nhẹ, kín đáo. Chúng tôi biết nhau từ Hànội, tuy không thân bao nhiêu, có lẽ, lúc ấy anh chưa dấn thân trọn vẹn cho thi ca. Sau cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, anh theo Trung đoàn thủ đô chiến đấu chống Pháp giữa lòng Hànội, rồi rút khỏi Hànội trước áp lực quân sự của Pháp. Ra hậu phương, anh gia nhập hẳn vào bộ đội, Trung đoàn thủ đô huấn luyện lại, bổ sung quân số trở thành Trung đoàn Tây Tiến, vượt qua biên giới chiếm đóng Thượng Lào .
Sau một hồi tâm sự , Quang Dũng lấy ở trong ba-lô ra, tặng tôi tập thơ TÂY TIẾN, bìa in màu xanh, màu của núi rừng. Tôi quý tập thơ đó lắm, vì qua nó, tôi hiểu và yêu thơ Quang Dũng hơn. Trò chuyện chưa được bao lâu, tôi phải giã từ, vì sợ nhỡ giờ dạy học. Quang Dũng cho biết, được nghỉ phép cả tháng, nên về đồng bằng chơi. Tôi mời Dũng đến quê tôi, Dũng từ chối, vì tuy gọi nghỉ phép, sự thực còn phải làm nhiều công tác cho đơn vị, hẹn lần sau. Nhưng, không bao giờ có lần sau cả, chúng tôi chỉ gặp nhau có ít giây phút đó thôi. Cho tới bây giờ, Quang Dũng đã :
... Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông mã gầm lên khúc độc hành
( thơ Quang Dũng)
Thế là , một lần gặp, một lân vĩnh biệt, chẳng bao giờ còn thấy nhau trên cõi đời này nữa !
Khi đến lớp huấn luyện, đã trễ giớ, các bạn học viên đứng tụ tập ngoài sân chờ thầy. Sau 2 giờ dạy, được nghỉ 15 phút giải lao; một học viên cho tôi biết, sáng nay, hồi 10 giờ, sẽ có cuộc xử bắn 2 tên Việt gian ở khu đất trống gần chân núi .
- ... thầy có đi coi không ?
Tôi trả lời dứt khoát :
- ... không .
Nói cho đúng, tôi vốn không thích canh chém giết,, nhất là tội Việt gian ! Cái tội này nó mơ hồ lắm. nếu xét trong người có chiếc gương soi mặt nhỏ, bị ghép ngay vào tội dùng gương làm ám hiệu cho phi cơ thả bom ! Nếu ai mặc áo sơ-mi may bằng vải pô-pơ-lin trắng , mép vải cò lằn xanh, đỏ, cũng có thể là Việt gian, vì mang mầu cờ của Pháp. Còn nhiều nữa, bất cứ thứ gì, anh du kích xã thấy lạ mắt, đều là các vật liệu dùng để liên lạc, do thám cho địch !
Giờ giải lao vừa xong, các học viên vào chỗ ngồi, tôi chưa kịp giảng bài, bỗng có những tiếng súng vọng lại. Thế là có 2 mạng người đi sang thế giới khác. Kể từ giây phút đó, tư tưởng bị phân tán, tôi nói loạn xạ, mong chóng hết giờ để về nhà.
Con đê làng Đặng chiều hôm đó sao dài thế, tôi cũng không còn nhớ nơi Quang Dũng ngồi buổi sáng, tôi cúi đầu đi với nỗi bực trong lòng. tập thơ TÂY TIẾN vẫn ngủ yên trong xà-cột.
Sau khi dạy , không vẽ, làm thơ mãi cũng chán, tôi lại đi chợ Đại xem tuồng do gánh hát của Sỹ Tiến và Khánh Hợi diễn. Sỹ Tiến, chuyên viên thày tuồng, tính tình rất tốt, rất hào hiệp, chỉ phải tội, tai hơi nghễnh ngãng. Còn Khánh Hợi, vợ Sỹ Tiến, đóng vai Lã Bố thật tuyệt ! Nhưng công phu nhất, có lẽ là vai Chu Du do Sỹ Tiến đóng. Tuồng TAM KHÍ CHU DU khi trình diễn , bao giờ rạp cũng đông nghẹt. Sỹ Tiến tâm sự với tôi, phải nhịn ăn 3 ngày, trong 3 ngày đó phải uống chu-sa và thuốc, để khi trình diễn , làm sao hộc máu đung 3 lần, thì tuồng mới có kêt quả tốt! Mỗi tối có mặt tôi cùng vài ba anh em nữa, bao giờ vợ chồng Sỹ Tiến cũng dành riêng những chiếc ghế đặc biệt ở gần sân khấu. Chúng tôi từ chối thế nào cũng không được . Sỹ Tiến , Khánh Hợi đúng là cặp vợ chồng nghệ sĩ. Nhưng nay Sỹ Tiến đã vĩnh viễn ra đi; như vậy bạn bè của tôi cứ vắng dần cho đến ngày nào chính tôi cũng khuất mặt !
Trong khi tôi đang nuôi dần những ngày dài sau lũy tre, một hôm, bất ngờ Nguyễn Sáng đeo ba-lô đến nhà chơi. Lâu quá, đã mấy năm, kể từ trước khi máu lửa đẩy chúng tôi ra khiỏi Hànội, bây giờ tôi và Nguyễn Sáng mới gặp lại. Hai đứa ôm choàng lấy nhau như vừa tìm thấy vật quý, tưởng như đã mất. Nguyễn Sáng trông vẫn vậy, vầng trán cao với mái tóc hất ngược ra phía sau, trông rất nghệ sĩ ! Thân hình vẫn nở nang cân đối, dù đã mấy năm Sáng sống trong hang hốc của dãy Hoàng Liên Sơn. Sau 1 hồi trỏ chuyện, Sáng cho biết sẽ ở lại với tôi tróng tháng, đã mang theo thật nhiều tiền để tiêu; tôi không phải lo gì hết, vì ở trong rừng , lương tháng có tiêu pha gì đâu; cơm nước đã có cơ quan lo, do vậy Sáng mang tièn xuống để 2 đứa cùng tiêu. Nguyễn Sáng vẫn làm cho cơ quan tài chánh chính phủ Kháng chiến, nghĩa là vẫn chuyên vẽ giấy bạc. Có Nguyễn sáng, đời tôi vui hẳn lân, không phải vì sáng có tiền, thực má nói, có bạn thân tình để trò chuyện. Tính tình sáng rất nóng nảy, không chịu khuất phục ai, có gì không ứng ý, nói ngay, không để bụng. Trong suốt thời gian Nguyễn Sáng sống ở quê tôi, Sáng không để tôi cho dù chỉ là 1 đồng. Và gần như ngày nào chúng tôi cũng đi, khi Vân Đình, khi chợ Đại, khi ống Thần, ăn uống thả giàn, hút thuốc lá Cotab , bất kể mấy bao một ngày. Hôm nào trời mưa không đi được, Nguyễn Sáng vẽ chân dung tôi cũng như Bùi Xuân Phái vậy. Nguyễn Sáng vẽ hay lắm, nét bút rất mạnh, như dao khắc trên gỗ, mầu sắc điểu hợp, khéo vô cùng ! như phần đầu, tôi đã nói, chỉ có Nguyễn Sáng và Bùi Xuân Phái, là 2 người bạn luôn luôn khuyến khích tôi vẽ tranh mô- đéc , họ nhìn rõ khả năng của tôi từ ngày còn đang học.
Một buổi, , chúng tôi đang nằm hútt huốc vặt, bỗng nghe tiếng chó sủa vang. Tôi nhỏm dậy chạy ra, thấy nhạc sĩ Tô Vũ và một cô gái đang hỏi thăm nhà, qua 1 bà già. Nhìn thấy tôi, Tô Vũ mừng quá` và không ngờ có cả Nguyễn Sáng ở đây . Nhạc sĩ Tô Vũ vốn nhà tu xuất, dáng người manh mảnh, đeo kính cận dầy cộm. Anh là 1 trong những nhạc sĩ nổi tiếng giửa thời kháng chiến, nhưng nói đúng, tăm tiếng anh còn thua xa Văn Cao, Phạm Duy. Nhạc Tô Vũ , lời nhạc trữ tình, tuy anh rất giỏi nhạc lý; nhưng không phải vậy, mà anh được mọi giới hoan nghênh. Tính tình Tô Vũ rất dễ thương, có nụ cười cởi mở, khoan nhã. Sau khi giới thiệu cô gái đi cùng là em ruột, tôi mới 2 anh em Tô Vũ vào nhà gặp Nguyễn Sáng. Trong lúc chúng tôi nói chuyện, cô gái nhìn Nguyễn Sáng chăm chú (....) * :
- ...sao cô gái nhìn cậu dữ vậy ?
Nguyễn Sáng trả lời, nửa đùa, nửa thật :
-Thời buổi này, có mê nhau nên vào rừng, xong chuyện ai đi đường nấy !
Nguyễn Sáng cũng có số đào hoa, chỉ lên Vân Đình chơi vài lần, thế mà một cô Tàu lai cứ bám sát theo Sáng về nhà ! Có lẽ về vấn đề này, Nguyễn Sáng có thua, thì chỉ thua Phạm Duy thôi !
Nguyễn Sáng sống với tôi đung1 tháng, rồi lại đeo ba-lô ngược Việt Bắc trở về cơ quan. Đường đi mất khoảng 15 ngày. căn nhà tôi ở, lại rộng rinh . Nguyễn Sáng đi, nhưng để lại những bức vẽ chì, trong đó có chân dung tôi; nhìn chúng, tôi có cảm tưởng vẫn còn Nguyễn Sáng ở bên cạnh. Rồi định mệnh đẩy đưa, ít lâu sau, tôi gặp lại gia đình Văn Cao tại làng Kẹo. Tôi và Bùi Xuân Phái đến thăm Văn Cao, chị Văn Cao giữ 2 đứa chúng tôi lại ăn cơm, vì đã lâu không gặp. Văn Cao vừa sáng tác xong ca khúc NĂM CỬA Ô, rồi dạy tôi và Phái hát bài đó. Tôi hát dở lắm, Văn Cao dạy hát đi, hát lại hoài mà tôi vẫn chưa thể hát đúng; Phạm Duy cũng đã dạy tôi hát bài BÊN CẦU BIÊN GIỚI, thế mà hát hoài không được ! Phạm Duy chán quá, bảo:
-... cậu có đói , thì nên vẽ để kiếm sống và nhớ là chớ nên bao giờ theo nghề hát, nghe chưa ?
Trong lúc chúng tôi đang tập hát, chị Văn Cao đi chợ về, chị vừa đi vào nhà, vừa mút ngón tay chùn chụt, miệng nói:
- Các anh ơi, hôm nay tôi đi chợ mua được chai nước mắm ngon quá !
Không hiểu sao, cái hình ảnh ấy cứ luẩn quẩn trong đầu tôi suốt mấy chục năm trường. Bữa cơm hôn ấy chỉ co đĩa rau muống luộc chấm nước mắm, thứ nước mắm mặn chát lưỡi mà chị Văn Cao vừa khen là ngon quá !
Từ khi có Văn Cao ở gần , chúng tôi mỗi lần gặp nhau (...)* là bàn triển lãm tranh; vì từ ngày kháng chiến, thì ở Liên khu 3 chưa có phòng tranh triển lãm nào. Chúng tôi giao việc liên lạc với chính
--------------------
(... ) mất 3,4 dòng không để đọc được- bản COPY từ tiệm Phocopy in mờ. ( BT chú thích).
---------------------
quyền cho Văn Cao lo; còn tranh, có bức nào bày bức đó. Ít ngày sau, Văn Cao cho biết, sẽ mượn được một phòng trong 1 ngôi trường làng để làm Triển lãm. Vấn đề trang trí do địa phương giúp đỡ. Chúng tôi ấn định ngày mở cửa triển lãm và thời gian là 1 tuần.
Quanh quẩn rồi cũng đến ngày Phòng triển lãm mở cửa. Văn Cao bày 2 tác phẩm :
CÂY ĐÀN ĐỎ và DƯƠNG CẦM. Tôi có 2 bức : LÌA PHỐ và CHIẾN TRANH. cả 4 bức là sơn d6àu, còn toàn là tốc họa, bút chì vẽ trên giấy . Tuy vậy, Phòng triển lãm cũng đông người xem lắm, nhiều buổi phải chen lấn nhau làm chúng tôi lên tinh thần; tuy sự trình bày này hoàn toàn có tính cách biểu dương, chứ không bán. Có bán chắc chẳng ai mua ! Sau khi Phòng triển lãm bế mạc, Văn Cao gửi tôi giữ giùm 2 tác phẩm trên , lý do, Văn Cao không ở đây lâu; nhưng sau khi tôi đã dinh tê, đến năm 1951, quân Pháp đánh vào quê tôi, lấy đi tất cả !
Sau khi tổ chức Phòng tranh, chúng tôi coi như đã làm xong một bổn phận, tuy nặng nhọc, nhưng có kết quả. Trong khi đó, một số anh em khác ráo riết tập vở kịch BÃO LOẠN do anh Lê ở cơ quan Bình dân học vụ sáng tác. Vở kịch được dự định tổ chức tại ngôi đình làng kẹo. Tôi được trao trách nhiệm làm đề-co. Ngôi đình rất lớn, trống tuếch, trống toác, chỉ toàn cột là cột, cột to vứa người ôm; có gì đâu, để có thể bấu víu vào mà trang trí Tôi đề nghị với cơ quan Bình dân học vụ mượn dân làng những tấm phản gỗ kê làm sân khấu và mượn vải của cơ quan hậu cần gần đó làm phông màn. Họ nghe theo. vài bữa sau, cả mấy chục xúc vải màu xám nhạt được giao cho tôi để tùy ý trang trí. Chỉ có 2 hôm, sân khấu đã hoàn thành. cũng có tiền thưởng, cũng có hậu trường, nơi hóa trang dành riêng cho các kịch sĩ. Lẽ dĩ nhiên nh chàng Ngọc Đĩnh cũng được đóng một vai trong vở kịch. Đây là vở bị kịch 3 màn, mang nội dung xung đột, đấu tranh giữa tình yêu với chiến tranh, giữa quyền lợi gia đình với cách mạng. Vở kịch viết khá hay, các diễn viên chơi xuất sắc, nên buổi trình diễn coi như thành công. Từ ngày kháng chiến, đây lần thứ 1, có diễn kịch tại địa phương, nên sự đông đảo khán giả, một phần cũng do óc tò mò của dân chúng địa phương. Người xem kịch thì đông, ghế ngồi không có, ngoài mấy hàng ghế đầu dànhr iêng cho các tay tổ trong Ủy ban hành kháng Liên khu 3; còn khán giả đứng suốt 3 tiếng đồng hồ để thưởng thức. Cũng may , nhờ vở kịch hay, khán giả say mê, quên cả mệt nhọc.
Buổi chiều trước khi trình diễn, các nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiếu, Đỗ Thế Phiệt, Lương Ngọc Châu và tuấn chuyên chơi sáo , đội mưa đạp xe từ Đống Năm lên hòa tấu, vì ban tổ chức mượn được chiếc dương cầm, phải nhờ tay nhạc công Nguyễn Văn Hiếu đi kèm với tiếng vĩ cầm của Đỗ Thế Phiệt. Ánh sángtrong và ngoài sân khấu được thắp bằng những ngọn đèn dầu hỏa thật to. Khi nào kịch mở màn, những người có bổn phận bên ngoài sân khấu phải vặn nhò thật nhỏ để hạ thấp ánh sáng.
Hôm sau, tôi ra ngôi đình nhìn lại công trình của mình lần chót, trước khi cho lệnh anh em địa phương tháo gỡ. Chính tôi không ngờ, chỉ có những miếng vải àm tôi có thể tạo nên cái sân khấu trông bề thế đến vậy ! Để lại thì không được, gỡ ra thì tiếc; nhưng tôi chợt nghĩ, trong thời chinh chiến, có gì là bền vững đâu; chỉ ân hận một điều, không có chiếc máy hình thu lại cảnh trí` ấy, giữ làm kỷ niệm .
Lâu rồi, tôi không gặp Phạm Duy, vì Duy đã cùng gia đình Thái Hằng đi Khu 4 lập nghiệp tại Cầu Bố. Quán phở Thăng Long đã dẹp. Trong thời gian kháng chiến, Phạm Duy đi rất nhiều nơi, coi như khắp nước. Do vậy, đối với tôi, sự găp Duy hay không, cũng coi như chuyện bình thường. Từ ngày rời khỏi vùng Nga Mi, Ấm Thượng , tôi trở về Liên khu 3, ở liền đó không qua Liên khu khác. Sau những công tác có tính cách tạm thời, tôi lại vẽ, làm thơ để giết ngày dài. Tôi vẽ thêm được bức tranh mang tựa đề MƯA NÚI , vẫn theo kỹ thuật lập thể.
Một buổi chiều, tôi nhận được giấy mời tham dự buổi họp của Chi bộ văn nghệ Liên khu . Nội dung cho biết, ban tổ chức muốn tôi đem theo tác phẩm để trưng bày, giới thiệu với anh em trong Chi bộ và dân chúng địa phương. Trước đề nghị này, tôi cảm thấy khó từ chối, do vậy, tôi quyết định mang theo tác phẩm mới nhất MƯA NÚI. Nội dung tác phẩm chỉ vẽ cảnh núi rừng đang cơn mưa ; nhưng các hình khối và màu sắc của tác phẩm khó làm cho người xem cảm nhận, nếu chưa có kiến thức về hội họa mới. Đúng ngày, tôi mang tranh đến một ngôi làng sát chân núi, bên kia sông Đặng. Đến nơi, đã có nhiều anh em, tuy vậy, tôi quen rất ít, chỉ có Bùi Xuân Phái, Huyền Kiêu, Lương Xuân Nhị là bạn. Tại đây, tôi gặp Đoàn Văn Cừ, nhà thơ, mỗi năm làm 1 bài thơ tết đăng trong báo NGÀY NAY của nhóm Tự lực văn đoàn , Đoàn Văn Cừ trông quê mùa , hiền lành; nhỉn bề ngoài không có gì đặc biệt, nhưng anh có tài, dù rằng, tài năng chỉ giới hạn trong ít bài thơ tết; vì không có thi nhân nào tả chợ tết miền quê hay như anh; do vậy anh nổi tiếng.
Sau vài giờ thảo luận sinh hoạt về chiều hướng sáng tác phục vụ kháng chiến, anh trưởng ban tổu cức ( tôi không nhớ tên) đặt tác phẩm MƯA NÚI của tôi trên chiếc gia bằng tre, xong, mời anh em phát biểu ý kiến về átc phẩm. Mỗi người nói một cách, tôi lại phải trực tiếp giải thích, bào chữa cho tác phẩm mình có nội dung cách mạng. Chắc đã được xếp đặt trước, anh trưởng ban tổ chức cho mời một số ông bà già, con nít chăn trâu, đến trước bức tranh, hỏi, mỗi người về cảm tưởng của họ. Thật khốn đốn cho tôi, khi phải chống đỡ với những lời phát biểu vô cùng thật thà, vì không hiểu gì về hội họa của những người dân quê mùa chất phác và các em bé chăn trâu, cắt cỏ. Trước cảnh huống đó, tôi như muốn phát điên lên, nhưng cố nén giận, giữ vẻ mặt bình tĩnh tới phút chót.
Sau cuộc phê phán khốn khổ kia, tôi dự đoán được tổ chức Chi bộ văn nghệ muốn đối xử với tôi ra sao rồi ! Bùi Xuân Phái và Huyền Kiêu thông cảm, nhưng đứng về phía tiểu số, cũng chẳng đỡ đòn gì được, đành làm ngơ. Cuộc họp chỉ có 1 ngày, đáng lẽ sau khi họp xong; tôi phải ở lại vui chơi với anh em, nhưng tối hôm đó, tôi về ngay, nại cớ phải đi gặp trưởng cơ quan Bình dân học vụ để nhận công tác. Cũng kể từ đó, trong tôi đã dứt khoát, nếu có dịp thuận tiện là dinh tê, chứ ở lâu không xong !.
Nhưng không phải cứ muốn là được. Tâm trạng tôi lúc ấy, tuy lòng nghĩ vậy, nhưng lý trí lại ngăn cản, vì sẽ bị mang tiếng với anh em và thực tình, tôi cũng không ưa Pháp, nếu dinh tê lại sông thêm một đoạn đời nô lệ.
Tôi vẫn ở quê nhà , sống những ngày buồn tẻ. Rương quần áo bán gần hết, nên không còn tiền đi đây đó giải trí. Tôi cũng không vẽ tranh nữa, chỉ làm thơ cho khuây khỏa, bằng hữu chẳng mấy khi gặp, do vậy cũng buồn !
Sau mùa xuân 1950, mùa xuân thứ 5 của trường kỳ kháng chiến, vào khoảng tháng 3, cánh đồng lúa chiêm xanh rờn từ làng nọ tiếp nới làng kia. Trời bắt đầu nắng, những cơn mưa gió bấc đã lánh xa. Những con lộ đã khô ráo, chứ không còn lầy lội, trơn trợt như mùa đông. Trong những buổi chiều đẹp trời, tôi hay đi lang thang trên ácc bờ ruộng , nghe tiếng lá lúa lao xao theo cơn gió. Vùng tôi ở cứ thu hẹp dần sự an ninh. Đêm đêm nghe tiếng đại bác đã gần bên tai. Trên con đê Đặng, xe tăng Pháp chạy ầm ì suốt ngày. Vân Đình đã tản cư, Cống Thần, chợ Đại cũng vậy. Phần lớn đi vào Khu 4 Thanh Hóa, một số ít dinh tê, còn lại đều lánh sâu vào chân núi. Vấn đề vào núi chỉ tạm thời, vì lấy gì sống để trường kỳ, dù cho trường kỳ gian khổ đi nữa.
Một buổi sáng, tôi vừa thức dậy, có một bà nhà quê đến tìm. sau khi hỏi đúng tên, bà ta bước thẳng vào nhà, con chó cứ chạy theo sủa vang, tôi phải đá vào mõm , nó mới chịu chui vào bụi tre. vào trong nhà, bà nói nhỏ:
- Cụ bảo tôi về đón cậu ra Hànội, cả nhà đang mong cậu. Mặt trận nặng lắm rồi, nếu cậu bằng lòng , đi ngay bây giờ mới kịp.
Tôi chưa trả lời ra sao, bà ta móc ở cạp quần đưa tôi chiếc nhẫn vàng, nặng chừng 2 chỉ, bà nói tiếp:
- Cụ bảo tôi đưa cậu cái nhẫn này để chi tiêu, nếu đi đường có chuyện gi xẩy đến mà không ra được Hànội. Thôi cậu thu xếp nhanh lên kẻo lỡ chuyến.
Quả thực, tôi rất phân vân, chưa biết nên đi hay ở. Mẹ tôi vì lòng thương nhớ con, đã thuê người về đón; nếu không đi, phụ lòng Mẹ. Hơn nữa, tôi cũng nhớ thương vợ con đã mấy năm trời xa cách. nay cũng mong gặp lại. Trước khi quyết định, tôi có nói với chị dâu và đưa cho chị tất cả số tiền còn lại, vì bà ta cho biết,. tôi khỏi lo gì cả, tiến cụ Hồ không cần nữa. Vì chiến trận ở quá gần, nên lúc nào chiêc ba-lô của tôi cũng sẵn sàng quần áo, cả những thứ cần dùng đặt ở góc nhà. Tôi định đeo ba-lô lên vai, bà ta ngăn:
- ... cậu chỉ nên đi chân tay không, như người đi chơi. Cậu có bộ đồ nâu nào không ?
Tôi mở ba-lô lấy ra bộ đồ nâu còn mới, bà ta chê, bắt tôi phải ra ao lấy bùn bôi lên, vò nhầu lại giống như đờ đã mặc. Sau khi thay đồ xong, tôi chào chị dâu rồi theo bà ta ra đi. Trong lòng tôi rất hồi hộp, chẳng biết tâm sự với ai? Người đàn bà đội chiếc nón rách đi trước tôi chừng 10 bước chân. Sau khi đi qua những cánh đồng bát ngát, bỗng bà dừng bước, chờ tôi đến gẩn:
- .. cậu để ý cái làng ở xa kia, làng Tề đấy ! Từ đó, cậu nên cẩn thận, ai hỏi cũng đừng nói, mọi chuyện cậu để tôi lo, vì cụ đã đưa tiền rồi. Nếu gặp quân Pháp đi càn. tôi sẽ đưa cậu vào nhà quen, họ sẽ nhận cậu là cháu. Cậu đừng sợ gì cả !
-Cảm ơn bà nhiều lắm, nhưng tôi chưa muốn về Hànội, bà làm ơn nói với mẹ tôi, vợ con tôi : khi nào kháng chiến thành công, tôi sẽ về.
Bà ta ngẩn mặt vì bất ngờ , nhưng sau bà nhỏ nhẹ:
- Tùy cậu, đây là ý muốn của cụ; nêu tôi ra không có cậu, chắc cụ và mợ ( vợ tôi) buồn lắm !
Dùng dằng một lúc giữa cánh đồng, xong, tôi quay lại, bà đi thẳng tới phía làng Tề phía trước.
Buổi trưa về đến quê, chị dâu tôi rất đỗi ngạc nhiên; nhưng chiị ui vẻ xuống bếp nấu cơm. cho ăn. Từ bữa đó, tôi luôn luôn bị dày vò, hối tiếc, sao lại quay về và không biết mẹ tôi còn thuê người về đón tôi ra Hànội nữa không ?
Nhưng tôi cũng chẳng phải chờ đợi lâu, chừng 3 tháng, bà ta lại đến. lần này, bà nói:
- Cụ cương quyết bắt cậu phải ra Hànội. Mọi giấy tờ cụ đã lo đủ rồi, cậu không sợ bị Pháp bắt đâu ? Cụ bảo tôi nói với cậu đúng như cụ dặn.
Tôi không còn do dự nữa, cơ hội này nếu bỏ lỡ, có lẽ chẳng còn cơ may nào đến với tôi nữa. Nếu mặt trận xảy ra đúng nơi tôi ở, bắt buộc tôi phải di tản; lúc ấy mẹ tôi muốn tìm cũng không được ! Sau khi chào chị dâu, tôi đi, chị chúc tôi gặp may mắn và đưa tôi chiếc nón lá cũ ngụy trang.
Tôi cắm cúi đi tgheo bà. Mùa lúa tháng 5 có nơi đã chín vàng, có nhiều cánh đồng bắt đầu gặt. Vì đã quyết đi, nên tâm tư tôi không còn gi vướng mắc. Đi từ sớm đến khoảng 10 giờ sáng, bà ta chậm bước chờ tôi, nói nhỏ vừa đủ nghe:
-... bắt đầu từ đây, cậu phải đi thật nhanh, làm sao đến cái làng trước mặt trước buổi trưa. Đây là vòng đai trắng, Tây nó thường bắn đại bác, ném bom. Cậu thấy không, nơi này có ai dám cầy cấy gì đâu ?
Nói xong, bà đi nhanh như chạy, tôi rảo bước đuổi theo miết, mồ hôi ướt đẫm áo, dù gió đồng thổi đều. Chúng tôi đến làng Tề thứ 1 trước buổi trưa. Khi qua cổng làng, bà dặn:
_ Từ đây cậu có thể đi từ từ thôi, nếu không có gì xảy ra thì tốt, nếu có, cậu cứ để tôi lo liệu. May mắn thay, chúng tôi đi qua một dãy làng Tề, không gặp điều gì đáng tiếc cả. Đến làng nào, bà cũng dẫn vào nhà quen để hỏi thăm, nói dăm ba câu, đưa tiền xong, là đi tiếp . Đó là những trạm thông tin liên lạc.
Đi đến chiều, bà dẫn đường cho biết, đã gần tới Phủ Lý, bà chỉ tay về phía trước mặt, nói nhỏ :
- Con đường số 1 kia rồi !
Đúng lúc ấy , môt chiếc ô-tô chạy qua, tôi ngạc nhiên, vì mấy năm nay, tôi đâu có nhìn thấy nó.
Buổi tối hôm ấy , tôi ngủ tại nhà ga Phủ Lý. Bà dẫn đường đã lo hết giấy tờ rồi, tôi vào quán nước uống 1 chai limonade có nước đá sao ngon vậy ! Sau đó, ăn tiếp một cây bánh mì cặp giò chả. Và sáng ngày hôm sau , tầu hỏa chạy qua Phủ Lý đưa tôi đến ga Hànội.
Bà dẫn đường kêu xe kéo đưa tôi và bả về nhà. Nhìn thấy tôi, cả nhà chạy ra đón, mừng khôn xiết! Mẹ tôi, sau khi cảm ơn bà dẫn đường, ôm tôi vào lòng, khóc ngất. Vợ tôi ở bên nhà ông bà nhạc, nghe tin tôi về, bế con chạy xuống, níu chặt lấy tay tôi như sợ buông ra, sẽ vuột mất ! Chỉ riêng 2 đứa con xa bố lâu ngày, chưa nhận ra, nên chúng lắc đầu không theo bố. Chúng gầy tong teo, cà hai vừa đau mới khỏi .
[]
TẠ TỴ
nguồn: NHỮNG KHUÔN MẶT ĐI QUA ĐỜI TÔI / TẠ TỴ -
( Nxb Thằng Mõ, San Jose, USA - tr. 88 - 105 )
kỳ 8 :
chương 3 : NHỮNG KHUÔN MẶT VĂN NGHỆ TRONG HÀNỘI TẠM CHIẾM.