Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013
thi nhân - thi ca & cảm nhận ; vũ- đức -sao- biển / lê ngọc trác - 16
vũ -đức-sao-biển : thu hát cho người
bài viết : lê ngọc trác
Vũ Hợi sinh ngày 12 tháng 02 năm 1948 tại Tam Kỳ, Quảng Nam. Khi bước vào con đường sáng tác văn học nghệ thuật, Vũ Hợi là người hạnh phúc khi được chính thân phụ , một người am hiểu Hán học và say mê âm nhạc dặt cho con bút danh Vũ-Đức-Sao-Biển - với kỳ vọng con trai sáng như vì sao giữa biển trời mênh mông. Quả đúng như kỳ vọng người cha - bút danh Vũ- Đức- Sao-Biển đã nổi tiếng, trở nên thân
thuộc với nhiều người yêu thơ văn, âm nhạc trong và ngoài nước,
Vũ-Đức-Sao-Biển viết nhiều lĩnh vực: sáng tác ca khúc, viết tiểu thuyết, biên khảo, phóng sự, bút ký , kể cả tiểu phẩm tráo phúng. ( với bút danh Đồ Bì ). Hơn 40 năm cầm bút, tính đến 2007, ông đã xuất ban:
- về nhạc : gồm các ca tuyển tập ca khúc: Thu hát cho người ( 1998) - Điệu buồn phương Nam
( 2002) - 50 ca khúc tiêu biểu của Vũ-Đức-Sao-Biển ( 2008) - 3 ca khúc ca nhạc: Thu hát cho người ( 2000) - Tình ca phương Nam ( 2002) - Hoài niệm Trường giang ( 2003).
- về tiểu thuyết: Hoa trên cát ( 1989) - Ảo ảnh sương khói ( 1991) - Kiếm hoàng hoa ( 1995).
- về tiểu phẩm trào phúng : Bản báo cáo biết bay ( 1983) - Vạn tuế đàn ông (1980) - Vĩnh biệt thốt nốt ( 1996) - Thỏ thẻ cùng hoa hậu ( 1998) - Ba đời ham vui ( 1999).
- về biên khảo : Kim Dung giữa đời tôi ( 4 tập) - Nhân vật Kim Dung qua lăng kính pháp luật
( 2002) - Những vụ án kinh điển trong tiểu thuyết Kim Dung.
- về hồi ký : Úi chao, 60 năm ( 2007).
Ngoài ra, Vũ-Đức-Sao-Biển còn dịch tiểu thuyết võ hiệp Tiếu ngạo giang hồ / Kim Dung.
Qua tác phẩm, ông nổi lên như một nhạc sĩ chuyên viết ca khúc trữ tình, mang âm hưởng dân ca. Những ca khúc : Thu hát cho người - Đêm Gành hào nghe điệu Hoài lang - Bài thơ quê lụa - Điệu buồn phương Nam - Hoài niệm Trường giang ... đã làm say mê những người yêu âm nhạc.
Ca khúc Thu hát cho người ra đời đến nay đã hơn 40 năm vẫn còn được nhiều người yêu thích và sống mãi với thời gian.
Tác phẩm này đã được 72 giọng hát khác nhau thể hiện: Lệ Thu, Cẩm Vân, Quang Minh, Thanh Long bass... trình bày nhạc phẩm Thu hát cho người đã [ làm] lay động biết bao người !
Riêng chúng tôi, ông còn là nhà thơ. Từ thập niên 60 , 70 của thế kỷ XX , đã xuất hiện thơ Vũ-Đức-Sao-Biển * trên các tạp chí văn học xuất bản ở miền Nam. ca khúc Thu hát cho người chính là một bài thơ tình hay. Lời thơ đẹp, giai điệu nhẹ nhàng với những hình ảnh đầy thơ mộng trong nỗi niềm chia xa :
Dòng sông nào đưa người tình đi biền biệt
Mùa thu nào đưa người về thăm bến xưa
Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ
Về đồi sim, ta nhớ người vô bờ.
Ta vẫn chờ em dưới gốc sim già đó
Để hái dâng người một đóa đẫm tương tư
Đêm nguyệt cầm ta gọi em trong gió
Sáng linh lan hồn ta khóc bao giờ .
Ta vẫn chờ em trên bao la đồi nương
Trong mênh mông chiều sương
Giữa thu vàng, bên đồi sim trái chín
Một mình ta ngồi khóc tuổi thơ bay.
Thời gian nào trôi bềnh bồng trên phận người
Biệt ly nào không buồn phiền trên dấu môi
Mùa vàng lên, biêng biếc bóng chiều rơi
Nhạc hoài mong, ta hát vì xa người ..
.VŨ-ĐỨC-SAO-BIỂN
Năm 20 tuổi Vũ- Đức-Sao-Biển viết Thu hát cho người. Những hoài mong vô vọng trong cuộc tình đầu tiên đã ghi dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Để rồi, 20 năm sau, khi trở về chốn xưa, miền nhớ, ông viết thêm bài thơ Lên Mỹ Sơn, với cùng một tâm trạng của ngày xưa, ngồi hát trên rừng thu tịch mịch. Ngồi hát giữa mùa thu Quảng Nam tím màu hoa sim thương nhớ. ( có ai bảo nhà thơ chúng ta không si tình và chung tình ).
Ôm cây đàn, leo lên tháp Mỹ Sơn
Nhìn xuống thấy sim chạy dài theo núi
Với cỏ xanh mùa thu dịu dàng
Nghe lòng ta dạt dào nhớ lại.
Rằng: hôm qua, ta mới đôi mươi
Hồn nhẹ như mây khói tuyệt vời
Lên tháp chờ em, em không tới
Mênh mang mênh mang sương chiều rơi.
Ngàn trượng non cao, ngắm dặm ngàn
Người Tây Nguyên gọi ấy Mang Giang
Hoa sim lớp lớp đầu thu nở
Nghe tiếng chim ca, phụng tiếc hoàng
QUA ĐÈO MANG GIANG / VŨ-ĐỨC-SAO-BIỂN
Thơ ông viết về tình yêu đều mang nỗi buồn chia xa, ly biệt. Thơ ông là tiếng lòng bật lên từ nỗi nhớ thương. Giữa trởi thu nhuộm màu hoa sim tím, Vũ-Đức-Sao-Biển hát cho mình vá hát cho người
. Và, đã nhận được sự đồng cảm, yêu mến của những người yêu thơ .[]
HẾT
lê ngọc trác
( Sđd : 132 - 138 )
------
* nói thêm về tác giả Vũ-Đức-Sao-Biển.
- trước 1975, một nhà báo viết văn làm thơ ký SAO BIỂN, bạn văn chương, báo chí của Dương Hùng Cường, Nguyễn thụy Long, Duyên Anh... nhà ở 85? Lý trần Quán, Tân Định, Saigon 1.
- sau Mậu thân ( 1968) , Quân lực VNCH tổng động viên, cả việc gọi tái ngũ một số quân nhân và bắt lính gay gắt những ai trong tuổi gọi nhập ngũ - và kẻ trốn lính - nhà báo
Sao Biển A ( tạm gọi vậy ) không muốn ra chiến trường, xin đồng hóa vào lính, rồi làm báo ờ Quân đoàn III , đồn trú ở Biên hòa.
- thời kỳ này bút danh Sao Biển A xuất hiện rất nhiều trên báo chí miền Nam.
- vào khoảng 1990 , anh xuất cảnh sang Mỹ làm cho nhật báo Thời báo ở San Jose - thì lúc này tôi mới nghe bút danh Sao Biển B ( tạm gọi vậy ) nhiều hơn trên sách. báo ở Saigon .
- tác giả Đặng thần Miễn - trước 75 , tác giả bài thơ Chant de louange pour la peau
d' Ebène ( Lê văn Hảo chuyễn ngữ tiếng pháp ) in trong Le Crépuscule de la violence / Trình bày xuất bản 197?) - có quen biết ông Vũ Hợi, tức nhạc sĩ Sao Biển B - ông ta tốt nghiệp Sư phạm, hiện công tác tại Phòng giáo dục huyện Nhà bè, sáng tác nhạc, viết văn, làm báo.
- sau 1990, nhà báo Sao Biển A xuất cảnh - tôi thấy bút danh Sao Biển (B) - lúc này thêm 2 chữ Vũ Đức thành Vũ- Đức-Sao-Biển xuất hiện đều đặn trên báo chí , nhạc, sách xuất bản ở miền Nam .
( BT chú thích).
tài liệu tham khảo :
- Úi chao, 60 năm ( hồi ký / Vũ -Đức- Sao- Biển)
-Vũ- Đức- Sao -Biển ( Trần Hiếu )
-Vũ -Đức-Sao -Biển ( Bách khoa toàn thư mở WIKIPEDIA)
Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013
ai xây vạn lý trường thành / các hiểu âm / hoàng hạc phỏng dịch
ai xây vạn lý trường thành ?
tác giả : các hiểu âm
hoàng hạc phỏng dịch
Vạn lý trường thành là loại kiến trúc cổ đại nhất của trung quốc. Căn cứ vào lịch sử từ thời chiến quốc . Căn cứ vào lịch sử từ thời chiến quốc đến nay có đến 20 triều đại, chư hầu quốc gia vương triều phong kiến xây dựng nên Vạn lý trường thành. Trong đó, Tần , Hán, Minh tu trúc khoảng 1 vạn dặm
( một dặm bằng 360 bước lúc bấy giờ ) và các thời đại sau này tiếp tục xây dựng khoảng trên 10 vạn dặm.,
Trường thành bắt đầu xây dựng từ 7 thế kỷ trước công nguyên . Trường thành xuất hiện đầu tiên từ nước Sở ( có thuyết nói từ nước Tề ) , Trường thành được xây từ Phục Ngưu sơn gọi là Phương thành. nay thuộc huyện Trúc sơn ( Bắc kinh ) vòng xuống phía đông Bắc Kinh gồm huyện Lỗ sơn, Hiệp huyện qua phía nam vượt sông Sa hà, đến huyện Bí dương, dài khoảng 1.000 dặm, vùng này thuộc phía đông bắc nước Sở, vì nằm ở trung nguyên , nên phải xây trường thành để đề phòng các quốc gia khác xâm phạm. Cho nên trường thành nước Sở cấu tạo thành những tiểu thành có tính cách phòng ngự, gồm những đồn binh để canh giới tại địa phương. Giữa thành và thành còn có núi sông hiểm trở nối liền nhau, nên không xây tường. Trường thành nước Tề bắt đầu xây từ thời chiến quốc 500 năm trước công nguyên. Nay thuộc phía bắc huyện Bình âm tỉnh Sơn đông chạy dài tới Thái san, Đông kinh đến Lan Gia Đài bắc. Sau cùng đến phía Nam giao huyện, đến đại châu Sơn đông , nhập vào biển.
Trường thành nước Ngụy gồm có 2 đạo: Hà tây trường thành và Hà nam trường thành :
a.- Hà tây trường thành xây trước công nguyên 361 - 351 nhằm mục đích chế ngự quân Tần và dân tộc thiểu số phía tây xâm phạm, dài trên 1.000 dặm. Hiện nay di chỉ còn hiện hữu trong tỉnh Hiệp tây.
b.- Hà nam trường thành xây trước công nguyên 355 năm, dài khoảng 600 dặm. Nước Yên có trường thành sông Dịch thủy và trường thánh phía bắc. Trường thành Dịch thủy xây trước công nguyên 311 năm.
Tại biên giới phía nam nước Yên, tương đương tây Nam Dịch huyện của tỉnh Hà bắc ngày nay, đến đông nam huyện Văn an dài trên 500 dặm. Phía bắc trường thành bắt đầu từ Trương gia khẩu đến Đông kinh, Hà bắc, khoảng cách giữa thị trấn Triêu dương dài trên 2.400 dặm. Trường thành phải dài như vậy, vì Yên quốc phải chịu sự uy hiếp của bọn giặc từ Đông Hồ sơn. Đến phải dùng một vị đại tướng lừng danh như Tần Khai để lảm con tin cho giặc Đông Hồ, để tạm thời được mang quân đánh tan giặc Đông hồ. Quân Hồ phải lui binh hơn ngành dặm. Yên bèn xây Bắc trường thành để đề phòng quân Đông Hồ quất nhiễu. Trường thành này xây vào khoảng 254 trước công nguyên. Đây là trường thành xây sau cùng của thời chiến quốc.
Trường thành nước Triệu cũng có 2 đường : phía nam gọi là Chương phủ trường thành xây trước công nguyên 333 năm. Chủ yếu phòng quân Ngụy và quân Tần. Phía Bắc trường thành xây vào khoảng 306 năm trước công nguyên, đông thuộc vùng Hà bắc, Tuyên hóa vượt qua tây Bắc bộ Kim sơn, phía tây bắc uốn cong theo Âm sơn, nay thuộc vùng Mã hiệp sơn ợ nội Mông và vùng lan sơn dài độ 1.300 dặm. Khi Tần thủy hoàng xây Vạn lý trường thành lợi dụng đoạn ở nước Triệu làm cơ sở.
Ngoài tường thành của 6 nước ra, tần và Trung sơn quốc đều có tường thành. Những trường thành này đều xây dọc theo Trường giang trong một lưu vực rộng lớn. Danh xứng Vạn lý trường thành là danh xưng từ đời Tần thủy hoàng 155 - 2012 trước công nguyên. Trước công nguyên 213 năm, Tần thủy hoàng phái đại tướng Mông Điềm đánh giặc Hung nô. Khi tần thủy hòng chết, vu kế vị nhà Tần sắc phong Mông Điềm là Phò Lệ tử, 21o trước công nguyên, tính chung 5 năm thời gian xây thành.
Theo sử tịch chép sau, sau khi nhà Tần gom thâu 6 nước , Tần thủy hoàng phái Mông Điềm đánh đuổi Hung nô. Sau khi Mông Điềm đánh đuổi Hung nô xong, lấy 44 huyện dọc phía nam bờ sông Hoàng hà xây trường thành ngăn theo bờ sông Hoàng hà và Âm sơn, Phía bắc và đông, lợi dụng trường thành nước Yên, Triệu, phía nam lợi dụng trường thành do Tần Chiêu vương đã xây, xây liên tiếp đến phía tây sông Lâm thao ( nay là tình Cam túc, phía nam bờ sông Thao ), cho đến phía đông dài trên vạn dặm. Phương pháp xây tường lúc này bằng đất sét nung, theo di chỉ tồn tại ở Lâm thao có thể tìm hiểu, tầng dưới xây bằng lọai sanh thổ, tầng trên đắp bằng hoàng thổ và đất dẻo trộn với đá vụn. Lối kiến tạo này là một sáng kiến mới đối với nhân loại lúc bấy giờ và là một kỳ tích trong lịch sử kiến trúc.
Tần thủy hoàng xây Vạn lý trường thành nhằm mục đích ngăn Hung nô nhiễu loạn, giữ yên 12 quận, bảo vệ sự phát triển kinh tế và văn hóa vùng trung nguyên . Lúc bấy giờ nhân khẩu toàn quốc độ 20 triệu, trai tráng trên dưới 500 vạn ( 5 triệu), xây lăng Tần thủy hoàng, xây A phong cung độ 150 vạn, các tạp dịch khác 300 vạn người, chiếm trên một nửa nhân lực trai tráng tron g nước. Nhân dân không thể chịu nổi, cuối cùng phải tạo phản. Sau khi Tần thủy hoàng chết, Trần Thắng và Ngô Quang khởi nghĩa. Triều đại
Tần thủy hoàng chưa đầy 20 năm đã phải diệt vong.
Về đời nhà Hán, dân Hung nô thường xuyên quấy nhiễu. Kể từ Hán Văn đế đến Hán Cảnh đế đều kế tục xây đắp trưởng thành. Thời Hán Võ đế quân dội rất mạnh, những trận đánh nhau với Hung nô đều thắng. Trước đó, vào năm 121 xây lại trường thành Hà tây. Trong 1 năm Phiêu Kỵ tướng quân vào Lủng tây công phá Hung nô.
Vua Hung nô lúc bấy giờ là Hữu Chư đem 4 vạn quân ra hàng. Võ Đế lấy 2 vùng đất Hà tây làm 2 quận Võ oai và Tử tuyền, xây Hà tây trường thành, trước sau chứ đến 10 năm đã xây xong , dải độ 2 ngàn dặm gọi là Hà tây trường thành. Từ Đôn hoàng đến Liêu đông dài trên 1 vạn 1 ngàn 5 trăm dặm. Hán Võ đế sửa đổi bố cục cửa trường thành, tại các khoảng cách, chọn những địa hình hiểm yếu, xây các chướng thành ( thành gây trở ngại ). liên lạc nhau bằng cách đốt lửa, mỗi khi có giặc.
Sau Võ Đế là Chiêu Đế, Tuyên Đế đều tiếp tục xây thành, di chỉ ngày nay thuộc vùng Tân cương, nội Mông thẳng đến bắc ngạn sông Hắc long giang dài 2 vạn dặm làm thành một phòng tuyến tương liên kiên cố. Trong thời gian xây trường thành, nhà Hán xây dựng đồn điền tạo nện chính sách di dân đến trường thành để khai khẩn đất hoang, làm thủy lợi tại Tây vức (Tân cương) làm thành đê điều, đồng thời cũng là trường thành. Từ Nam , Bắc triều đến đời Nguyên, khoảng giữa các triều đại này, đều xây đắp trường thành còn qui mô hơn đời Tần, Hán.
Từ nhà Minh về sau các quý tộc đều trở về Mông Cổ. Miền Nam hạ thường bị trộm cướp quấy nhiễu. Miền đông bắc có họ Nữ Chân nổi loạn, vì nhà Minh coi trọng việc phòng thủ miền bắc. Lúc bấy giờ Châu nguyên Chương nổi lên đánh phá, thu nạp Châu Thăng, xây tường cao, chứa lương thực, nhưng chưa xưng vương mà chỉ lo kiến thiết, ra công xây dựng thành trì. Các châu, phủ, huyện xây thành đều dùng gạch nung và đá chồng chất lên rất kiên cố. Triều nhà Minh trong 200 năm không bao giờ đình chỉ việc tu bổ trường thành để phòng ngự. Châu nguyên Chương trong năm đầu 1368 đã sai đại tướng Từ Viễn tu sửa mặt phía bắc Bắc Kinh như Cư dung quan v.v...
Hồng Võ năm thứ 14 ( 1381) lại tu trúc trường thành vùng Sơn hải quan. Từ đây về sau công phu tu sửa trường thành trên 18 lần, đến năm Hoàng trị thứ 13 ( 1500) về cơ bàn coi như hoàn thành, chiều dài tất cả 12, 700 dặm. Phía đông bắt đầu từ sông Áp lục, phía tây qua đến ải Gia dục, vỉ 2 quan ải này đông tây đổi nhau, nên một số người ngộ nhận cho là Vạn lý trường thành - đông từ Sơn hải quan, tây đến Gia dục quan. Trường thành nhà Minh có đặc điểm là : có quan ải trọng yếu tại địa phương là Cư dung quan, Sơn hải quan, Nhạn môn quan - nên được tu trúc trường thành rất vững chắc. Trường thành từ nam đến bắc xây những bảo thành ( phong hỏa đài) để trông xa tình hình và truyền tin cảnh báo. Chính sách nhà Thanh là để lung lạc dân thiểu số phương bắc, vì thế, nên tính cách phòng ngự không còn ý nghĩa nữa - cho nên sự tu trúc đại qui mô từ đây cũng bị đình chỉ.
vài truyền thuyết và thi ca .
Trong thời Tần thủy hoàng xây Vạn lý trường thành, trong dân gian lưu truyền một loạt ca khú`c , nói lên sự bất mãn. Ví dụ:
Sanh nam thân vật cử
Sanh nữ bộ dụng bô
Bất kiến trường thành hạ
Thi hài tương chi trụ.
TẠM DỊCH
Con trai nuôi dưỡng làm chi
Con gái nuôi dưỡng có khi được nhờ
Chân Trường thành đó trơ trơ
Thay ai làm trụ dật dờ hồn oan
HOÀNG HẠC tạm dịch
theo truyền thuyết về trường thành :
Trong Trinh nữ từ / Trương Đống, nàng Mạnh khương con nhà họ Hứa, người ở Đông quan, Hiệp tây. Chồng là Phạm kỷ Lương bị Tần thủy Hoàng bắt đi xây ở vùng Bắc trường thành . Đến mùa rét, Khương thị dệt áo lạnh mang đến cho chồng. Đường xa muộn dặm gian khổ, đến khi tìm được nơi chồng ở, thì chồng đã qua đời, xác vùi chôn trong thành. Theo thi ca và truyền thuyết trên , minh chứng lòng căm thù bất mãn của dân chúng lên tột độ. Điều này cho thấy, trường thành xây nên, do sức lao động đại đa số dân chúng, thây người được chộn lẫn với đất sét [ làm thành ] . []
tác giả : các hiểu âm
hoàng hạc phỏng dịch
qua bài Trường thành giản sử in trong sách Trung quốc danh thắng dữ lịch sử ( tr. 54- 61)
( Bắc kinh đại học xuất bản xã, 2001)
( trích CỤM HOA TÌNH YÊU XIV do Hội thơ tài tử Việtnam hải ngoại xuất bản , USA 2012 -
Hội trưởng Như Hoa - Lê quang Sinh ký tặng: " bản quý tặng Nhà thơ Thế Phong & Phu nhân "
- Garland / Noel 2012. ( 469 - 366 - 667 )
Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2013
t.t.kh. nàng là ai? / thế phong - 3
t.t.kh. nàng là ai ?
thế phong
CHƯƠNG 3
t.t.kh. nàng là ai?
Ở phần Dẫn nhập & Nghi án văn học, chúng tôi đã trích dẫn nhiều giả thuyết về 4 từ : T.T.KH. - riêng Thanh Châu đặt câu hỏi : Khánh, Khê, Khuê, Khải Khương ...? rồi ông tự trả lời : đúng là không phải vậy, vì đó chỉ là 1 động- tác - giả. Cả T.T.KH. là THÂM-TÂM-KHÁNH ghép lại - đó là tên của Thâm Tâm + Khánh cũng chỉ là giả thuyết: chưa ai dám khẳng định , vì chưa một người nào đưa ra tên thật của T.T.KH. với bằng chứng để tin đó là thực.
Muốn phá tan được nghiu án văn chương nay, điều cần thiết là phải có 2 người trong cuộc chơi ở ngoài đời và trong cuộc-tinh-thơ. Về phía T.T.KH, không ai biết bà còn sống hay là không còn sống nữa - nói như Thanh Châu, thì :
"... muốn kết thúc cái chuyện cũ càng mờ mịt này bằng cách công bố thêm một điều là : thủ phạm của sự nhiễu này , khiến thiên hạ đoán phỏng đoán mò - chỉ tại Nguyễn Bính đã đăng một bài Cô gái vườn Thanh vào 1940 * chỉ riệng tặng T.T.KH. mà thôi "
----
* xem chú thích 2, bài đã dẫn ( bđd)
Nhà văn tự buộc mình. đóng vai kịch sĩ đại tài Thanh Châu, hỉ trong cuộc-tình-thơ T.T.KH. càng làm nhiễu hơn ai hết. Ông ta thắt nút, rồi cởi, lại cởi cởi, thắt thắt... khiến màn kịch thơ T.T.KH. càng mờ nịt như đêm tối 30 ; lại còn trưng thêm tư liệu của những nhà văn, thơ trong giai đạon 1930 - 1945 - dẫn chứng Tô Hoài đã từng than thở:
" Hôm nay cũng có bạn có thể kể lại rành rẽ được, hay là cứ để mờ mờ ảo ảo như thế".
Đến đây chưa phải là hết, Thanh Châu còn nại thêm cớ, đưa thêm một nhà thơ khác nữa để rồi hỏi ông này có còn nhớ nhiều không ? :
" ...Buồn thay , lớp người 1930- 1945 trong văn học đã theo nhau đi gần hết. Còn sót lại có
Lưu trọng Lư... Nửa đêm sực tỉnh * , anh lại còn nhớ nhiều không với sức nhớ của người trên
70 rồi .."
------
* hồi ký Lưu trọng Lư, Nxb Thuận hóa 1989.
Khi Thanh Châu viết những dòng trên, Lưu trọng Lư còn sống và tác giả con nai vàng ngơ ngác cũng bặt tin : không nghe, không biết, tất nhiên chẳng lên tiếng trả lời. Thanh Châu thêm một bằng chứng không chứng cớ - một nhà báo, tên Giang Tử nào đó, ở miền Nam trước 1975, cho biết cùng đi một chuyến xe đò về Quảng Ngãi, biết được Tế Hanh kể " T.T.KH là em gái đồng tông với ông" . Câu chuyện xảy ra từ trước năm 1945. Do đó, ông Hoài Việt muốn kiểm chứng tin này có xác thực không, đã phải lặn lội đi dò hỏi - tác giả Nghẹn ngào lắc đầu đó là tin vu vơ . Cái tài thắt nút cho vở kịch-tình-thơ T.T.KH. của Thanh Châu đẩy người đọc muốn hiểu về bà T.T..KH thì cuối cùng chi dẫn đến
cái -gọi-là labyrinthe t.t.kh + thanh châu mà thôi.
Ngày tháng trôi đi, cuộc-tình-thơ t.t.kh+ thâm tâm hoặc t.t.kh + nguyễn bính - thật ra chẳng ai biết ai là vai chính trong vở kịch này? Cuốn sách mới nhất của Hoài Việt : THÂM TÂM &T.T.KH xuất bản 1991 vẫn buộc mọi người chấp nhận giả thuyết này là đúng. Trước 1975 ở miền Nam rất nhiều người viết phê bình, khi bàn đến T.T.KH * thì chí biết là có kép Thâm Tâm là vai độc của đào nương T.T.KH. mà thôi - kể cả tôi trong ấy .**
------
* có thể kể : Thi ca VN hiện đại 1880- 1965 / Trần tuấn Kiệt ( Saigon, 1967) - Thơ Việt hiện đại / Uyên Thao
( S. 1960) - Kỷ niệm văn thi sĩ tiền chiến / Nguyễn Vỹ ( S. 1971) - Nhà văn tiền chiến 1930- 1945 / tập 1 / Lược sử văn nghệ VN / Thế Phong ( S. 1974) - Thi nhân tiền chiến / Phan Canh & Nguyễn tấn Long ( S. 1969) - 40 năm nói láo / Vũ Bằng ( bản tái bản, S. 1993 ) - Thâm Tâm & T.T.KH / Hoài Việt ( Hội nhà văn Hànội, 1991) - Những dòng thơ hoa / thơ Thư Linh + Nghiêm Phái ( Nxb Văn hóa - thông tin, 1994 ) và nhiều bài báo riêng lẻ.
** Nhà văn tiến chiến 1930- 1945, / Thế Phong ( Nxb Vàng son, Saigon 1974 ).
Nhưng sự kiện được gọi là nghi án T.T.KH. + THÂM TÂM đã khác đi, là khi tôi nhận được bức thư tay của bạn-thơ-vong-niên, bà Đặng thị Lạc ( cho tôi mạnh dạn được viết tên thật bà Thư Linh) sinh 1924 ở Bắc Ninh, hiện đang sống tại quận tp. HCM.
Tác giả của nhiều bài thơ lẻ đăng báo từ thời tiền chiến , rồi hậu chiến , từng lam thư ký tòa soạn nhật báo Thân dân / Nguyễn thế Truyền tái xuất bản ở Saigon sau 1954. Bà còn là người mẫu ảnh bìa báo Đàn bà số xuân 1940. ( Thụy An chủ nhiệm , lúc này chủ nhiệm chưa ghép Thụy An - Hoàng Dân làm bút hiệu chính thức . Thụy An-Hoàng Dân sinh năm 1916 và qua đời ở tp. HCM năm 1981. ) .
bức thư tay của Thư Linh gửi tôi :
Saigon 1- 7- 1994
Thân gửi anh Thế Phong
" (...) Anh đọc qua bài thơ ' Hoa tim' , coi tôi viết vậy có đủ ý chưa ? Tôi viết [ trong] đêm thứ 5 đó, vì thấy ý anh muốn vậy; nên viết cho anh vui lòng. Có điều, anh đừng cho ai rõ T.T.KH. là ai hộ tôi, để tôi giữ [ trọn] lời hứa với chị ấy [ Vân Nương ] ..."
đặng thị lạc
Thế là rõ lắm rồi, bà ta vui lòng kể cho nghe bí ẩn đời riêng T.T.KH., trước khi bà ta xuất cảnh sang Pháp. Qua nhiều buổi, có 1 lần, hình như tôi khuyên bà ta nên viết thành một bài thơ để cho đời biết được nghi án này trở thành hiện tượng văn học có thực. Bà ta đồng ý , và bài thơ " viết đêm thứ 5 đó - HOA TIM - T.T.KH. PHƯƠNG XA "* hé mở canh cửa, đủ để rọi sáng những mờ ảo xưa kìa về thân thế T.T.KH.
-----
* tiết lộ về một điều nữa, hình như ít người biết ai là người yêu thi sĩ Nguyễn nhược Pháp , tác giả bài thơ Đi chơi chùa Hương là Đỗ thị Binh cô chính là nguồn cảm hứng để tác giả làm được bài thơ 5 chữ tuyệt vời kia , và đã tạo nên sự nghiệp văn chương lẫy lừng của Nguyễn nhược Pháp.
bà Đặng thị Lạc đã viết ra , có tựa Mùa thu vàng hoa Mimosa ( đã in trong Những dòng thơ hoa ) về chuyện tình Pháp + Bính. Sau, NNPháp mắc bệnh lao nặng biết là chết nện tự tuyệt tình bới nàng Bính áo đen.
- bởi, cô nàng Đỗ thị Bính chỉ vận áo màu đen cho đến lúc qua đời.
- gia đình bên chồng bà Lạc, ông Nghiêm Phái rất thân quen với đại gia đình ông Nguyễn Giang ( vai anh Nguyễn nhược Pháp ) - và phu nhân ông Nguyễn Giang ( trưởng nam học giả Nguyễn văn Vĩnh) là cô ruột ông Nghiêm Phái
( khi ông Phái lâm bệnh nặng, người vợ cảm kích, cố ghép tên chồng trên tác phẩm bà sáng tác : Nghiêm Phái + Thư Linh .
( ông Nghiêm Phái phái qua đời cuối 1994 ở quận 10, tp. HCM )
- khi đám cưới cô Đỗ thị Bính kết duyên với cậu Bùi tường Viên - cô phù dâu chính là Thư Linh- Đặng thị Lạc.
Khi tôi đề nghị bà ta nên viết, trước hết để công bố hiện tượng T.T.KH. là có thật- bà ta từ chối thẳng
thừng - bời, đã hứa với T.T.KH sẽ không nói với bất cứ ai vể buổi tâm tình vào chiều mưa, có một không hai tại nhà bà ta vào năm trước.
Trần thị Vân Chung tiết lộ tên người yêu của T.T.KH. rồi - vì ai - mà đã làm 3 bài thơ : Hai sắc hoa ti -gôn, Bài thơ thứ nhất & Bài thơ cuối cùng.
Bà T.T.KH. ( hậu chiến ) - thực ra cả 2 chỉ lả T.T.KH. mà thôi. bà ta chỉ đồng ý cho bà Lạc viết ra, một khi bà ta không còn sống trên cõi đời này nữ. Nếu khi T.T.KH. ( hậu chiến) còn tại thế, e sợ điều ra tiếng vào trong gia đình nhà chồng - mặc dầu chồng bà đã qua đời.
Và tôi đây , người toan tính viết tác phẩm này ở phút đầu - đã suy nghĩ nhiều - rồi đi tới kết luận: không thể làm vừa lòng bà Đặng thị Lạc - cứ công bố về T.T.KH. + hình ảnh + tiểu sử + tên thật người yêu T.T.KH mà từ lâu nay mọi người chưa hay biết.
Điều cần biết trước tiên là công bố chuyện xảy ra vào một chiều mùa thu năm 1976 ở Sài Gòn, người được mệnh danh là người yêu của T.T.KH. từ năm 1934 tới nay chưa gặp lại T.T.KH. - bây giờ cả hai đã gặp lại nhau , một pha hấp dẫn hơn cả trong tiểu thuyết : nghẹn ngào , nước mắt rưng rưng, nói không thành lời.
Khi tôi báo tin cho bà Lạc :
" Chị có thể giữ lời hứa với T.T.KH. cần phải giữ trọn chữ tín, nhưng với tôi, tôi chỉ biết , không quen , không hứa hẹn điều gì\ như bà Đặng thị Lạc. Thêm nữa, đây là cuộc trả giá đới với tôi, bởi cũng từng thừa nhận THÂM TÂM & T.T.KH là một - bây giờ đây- đưa ra ánh sáng ai là người tình thật , đó là tôi đã tự tha thứ cho sự lầm lẫn xưa kia.
Nên, nếu đấy được dư luận chấp nhận về hiện tượng văn học T.T.KH là xác thực, thì lời khen tặng ấy, nếu có , phải dành cho bà Đặng thị Lạc mới công bằng. Nhưng, nếu viết sai, dư luận thì trách cứ tôi thiếu khả năng phố kiểm, đánh giá tư liệu khi công bố T.T.KH. là xác thực, trả đúng vị trí của bà trong văn học sử.
Thanh Châu đã không nỡ giấu giếm về T.T.KH. , khi viết:
"... Người ta muốn biết T.T.KH. LÀ AI - đã vì ai, cho ai? mà có thơ ? Và, người yêu T.T.KH. có đích thực là Thâm Tâm, hay Nguyễn Bính hay là ai đi nữa ..."
Như tôi đã nói tới ở xác nhận lấp lửng đã vì ai , cho ai mà ó thơ ?' - nhưng cực lực bác bỏ huyền thoại Thâm Tâm, Nguyễn Bính liên hệ, gián tiếp hướng về mục tiêu khác, không ai khác là tác giả truyện ngắn Hoa ti- gôn ? ( lấp lửng : có thể đúng hoặc không ).
Theo tôi, đường sự không thể nhận huỵch toẹt, dầu đú là vậy - dường như muốn chúng tôi trở thành cái gạch nối nói rõ ra điều bí ẩn đó - mà cả T.T.KH. + Thanh Châu không thể nói ra,, khi họ còn tại thế.
Đến đây, tôi chắc T.T.KH hậu chiến, nếu không cảm ơn bà Thư Linh thì thôi, còn trách móc nỗi gì ? ! Về phần tôi, chắc bà Thư Linh cũng nên rộng lòng tha thứ - riêng tôi - càm ơn bà đã làm bài thơ
Hoa tim- T.T.KH PHƯƠNG XA là thật : cho khắp người đời thóc mách xem mà không là giết đời nhau đấy biết không ? Vì điều này: nếu tìm ra được tác giả của một tác phẩm nổi tiếng thì dù đắn đo đến đâu rồi [ sau] cũng phải công bố' như nhà văn Hoàng Tiến ( 1933- ) đồng ý : nên ghi nhận như vậy mới là phải.
tác phẩm T.T.KH chỉ có 3 bài ( có người cho là 4 ) đủ nói lên tâm sự bi thương của mối tình thơ hoa tim vỡ T.T.KH đủ làm rung động tâm hồn người đọc bao thế hệ - khi người ta còn yêu , còn gặp ngang
trái , còn đau khổ, thì chẳng cứ gì 50 năm sau, mà còn hơn thế nữa. Hẳn bạn đọc chưa quên Thanh Châu cũng cảm nhận được rằng:" ... có hay lắm thì người đọc chỉ đọc qua một lần rồi quên đi... thi sĩ ... họ có cái thứ tiếng riêng của thiên thần thì phải chiếm lòng người hơn chứ ..."
còn đối với Thư Linh, tác giả bài Hoa tim - .T.T.KH. phương xa, hẳn không giống bài thơ Các anh hãy uống thật say / Thâm Tâm; hoặc bài thơ Cô gái vườn Thanh / Nguyễn Bính ( dầu T.T.KH. quê ở Thanh Hóa) thì ở trên kia, tôi tạm gọi là huyền thoại văn chương T.T.KH.- bởi lẽ, tác giả Hoa tim ...T.T.KH. phương xa tả tâm sự T.T.KH. ( hậu chiến ) mà tuyệt nhiên không ăn bám sự nổi tiếng với thơ T.T.KH. được người ta truyền tụng.
T.T.KH. yêu chàng, khi chàng ở gần, chàng vuốt tóc nàng; thì tác giả Hoa tim- T.T .KH. phương xa viết :
Thi sĩ ví như tim vỡ nát
Tình yêu tan tác giống đời hoa
THƯ LINH
Xưa, trong Hai sắc hoa ti-gôn, T.T.KH. từng ghi lại buổi đầu gặp gỡ: chàng yêu thì tôi đã hiểu gì / chàng thở dài trong lúc thấy tôi vui :
chàng : " Bảo tằng hoa giống như tim vỡ
anh sợ tình ta cũng vỡ thôi.
nàng : Cho nên cười đáp' màu hoa trắng'
là chút lòng trong chẳng biến suy
Hoa tim- T.T.KH. phương xa / Thư Linh còn cho người đọc biết thêm lý do; bài thơ trên tác giả
ký tắt , não nùng ấy để che đậy tâm sự ngàn trùng xa cách; tình xưa ẩn náu, yêu người không lấy được người, lấy chồng người khác- có thể, chỉ vì gia đình không môn đăng hộ đối hoặc vì giữ gia phong :
Bài thơ ký tắt não nùng
bao dòng tâm sự ngàn trùng quan san
Tình xưa ẩn náu thời gian
người người thương cảm bàng hoàng hỏi ai?
Lòng câm náu tháng năm dài
cầu danh chồng há dám phơi chữ đồng
Hoa ti-gôn vỡ tim hồng ...
THƯ LINH
Chuyện kể lại rằng : có một viên tri huyện tây học còn trẻ tuổi về thị xã Thanh Hóa thăm gia đình. Quan thuê chiếc xe tay keo về nhà, dọc đường phố xá, quan nhìn thấy tấm ảnh một nàng thiếu nữ khuê các mượt mà, bắt mắt - tấm ảnh nàng được phóng lớn trưng bày trong tủ kiếng một ảnh viện. Quan ra lệnh cho người kéo xe tay dừng lại ; không nói ly do, quan bước xuống xe tiến thẳng vào hiệu ảnh, đứng lặng ngắm hồi lâu. Rồi quan được trả lời, tấm ảnh đó là một thiếu nữ có tên Trần thị Vân Chung, con một gia đình nổi tiếng trong vùng. Quan không về nhà nình ngay , ra lệnh cho người kéo xe tay đến thẳng gia đình cha mẹ cô nàng thiếu nữ khuê các kia. Cú phút * tình yêu làm nổ tung trai tim hồng quan huyện trẻ. Chẳng bao lâu, quan nhờ mai mối ... - Trần thị Vân Chung ngổi trong phòng khách kể lại cho Thư Linh, tác gỉả Hoa tim -T.T.KH. phương xa :
----
* coup de foudre .
... Mối mai cha mẹ bận lòng
Vâng lời vẹn hiếu áo hồng ủ vai
Bắc, Trung điểm giột u hoài
Pháo hồng điểm giột u hoài
Pháo hồng thắm sắc đẹp ngời vinh sang
Duyên lành ủ trái tim tan
Nước mây thương khách tân toan nghẹn lời ...
THƯ LINH
Chồng Trần thị Vân Chung , một quan huyện trẻ tuổi , dáng dấp uy nghiêm, giàu có, đấy quyền lực. Cô thiếu nữ đài trang, khuê các, quan tắt nửa ngày, một bước trở thành mệnh phụ - nhưng vẫn không thể quên người tình cũ. Chàng ấy học hết ban trung học ở Vinh, được gia đình lo lắng cho con ra Hànội theo học ban tú tài. Chàng cũng mong rằng, sau khi đỗ đạt, có địa vị, sẽ trở về quê nhà mai mối, tính chuyện trăm năm cùng người yêu. Nhưng, liệu nàng còn nhớ hay đã quên rồi ...?
cũng vẫn tác giả bài thơ Hoa tim- T.T.KH. phương xa tả lại tâm sự :
. .. Nhớ quên... ôi cũng đành thôi
Chung tình sẻ nửa bên người bên ta
Tình đâu đẹp nhất tuổi hoa
Thời gian trôi mãi vẫn là nhớ thương ...
Lắng nghe tiếng vạc chiều sương
Buồn nghiêng trưng gấm sầu vướng mái lầu
Không gian bàng bạc tình đầu
Ai bàng hoàng nhớ ? Ai rầu rĩ thương?
Hoa tim rụng trắng trong vườn
Hoa tan tác mộng nghẽn đường gió bay .
THƯ LINH
Năm 1934, Trần thị Vân Chung thành hôn với quan huyện trẻ. Chồng hơn tuổi vợ, cuộc sống gia đình hạnh phúc bề ngoài, vợ chung tình sẻ nửa bên người bên ta thấm thía màn bi kịch nội tâm. Người tình cũ ở Hànội xa tít phương trời, biết tin, bỏ dở học tú tài,. bắt đầu viết văn, làm thơ . Truyện ngắn đầu tiên
Hoa ti-gôn in trên tờ Tiểu thuyết thứ bảy ở Hà thành , nàng tìm đọc, khiến nức nở tâm hồn, thúc đẩy nội tâm thơ từ Hoa ti-gôn thành Hai sắc hoa ti-gôn, Bài thơ thứ nhất, Bài thơ cuối cùng cùng một năm 1937, đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy - giám đốc kiêm quản nhiệm Vũ đình Long - ông này xuất thân nhà giáo, sau viết kịch, làm chủ báo .
Cuộc tình chia ly cách xa từ 1934 cho đến 1954, tính ra 20 mùa xuân cách biệt. Chàng , người tình cũ, núp trong vai họa sĩ Lê, cũng :
" Một mùa thu cũ , tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay và vò nát chúng đi, trước một giàn hoa . Đó là thời tôi ốm dậy, buổi chiều thường đi thơ thẩn trong sân. Nhưng thức bấy giờ tôi chẳng có cái tâm địa của một Baudelaire ốm yếu , khi thấy cảnh khoẻ mạnh của hoa tươi lá tốt mà bực mình đến đập vào hoa cho tơi tả để báo thù tạo hóa, như trong những câu thơ đau đớn thực tình này :
Quelque fois dans un beau jardin
Òu je trainais mon agonie
J' ai senti comme une ironie,
Le soleil déchirer mon sein ,
Et le printemps et la verdure,
Ont tant humilié mon coeur
Que j'ai puni sur une fleur
L' insolence de la nature
CHARLES BAUDELAIRE
Sự tàn ác vô tình vô tình ấy đem lại cho nhà văn một tài liệu quý để viết nên trang tiểu thuyết đầy nước mắt....
***
Cũng nên lưu ý : câu chuyện này, tác giả viết vào 1939 đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy vào năm 1939- Thanh Châu đặt câu thơ của T.T.KH. trên đầu trang : Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ ...- dưới, mới trích câu văn Khái Hưng làm đề từ :"... Hoa leo' ti-gôn' sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng, năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở. Nó chẳng giống lòng bất trắc của con người ..". - mà trước đó 2 năm, đó là năm 1937 - ở truyện Hoa ti-gôn, tác giả Thanh Châu cũng trích câu văn trên của Khái Hưng trên đầu truyện. Chàng đã mượn câu văn của tác giả Gánh hàng hoa làm đề từ cho truyện ngắn để trách móc người tình về lòng bất trắc của người tình cũ . Có đúng vậy chăng ?
Trần thị Vân Chung vẫn làm thơ - T.T.KH. cũng hiểu được rằng câu thơ trong Hai sắc hoa ti-gôn
( 1937 ) bắt đầu :
... Một mùa ' thu trước' hoàng hôn
T.T.KH.
và :
... Một mùa 'thu cũ ' tôi đã ngắt ...
THANH CHÂU
Nàng ( Trần thị Vân Chung) nhớ một mùa thu trước mỗi hoàng hôn / Nhặt cánh hoa trôi chẳng thấy buồn.
Chàng ( Thanh Châu ) cũng nhớ, vào 2 năm sau : Một mùa thu cũ tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay và vò nát chúng nó ... sự khắc biệt là vậy và những bông hoa ấy trong tay đối với chàng để trách lòng bất trắc con người ...( người tình cũ đi lấy chồng).
kể ra, kịch-tác-gia Thanh Châu đạo diễn màn kịch-thơ-câm T.T.KH. thật thâm thúy, cao siêu!
còn nàng :
...Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người ...
... Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai ...
Năm 1954, hiệp định Genève chia đôi Bắc Nam , chàng trở về Hànội, thì, nàng đã cúng gia đình di cư vào Nam. Chàng đã có cơ may dò hỏi và biết đượcc hồng nàng hiện giữ chức vụ quan trọng trong guồng máy chính quyền miền Nam. Tác giả Hoa ti-gôn , nhân vật họa sĩ Lê Chất ( 1937) và Những cánh hoa tim vẫn lại là họa sĩ Lê (1939). Nhân vật ở truyện sau: Lê không lấy vợ, lại chỉ ngâm thơ - thất- tình T.T.KH. nhiều lần , qua nhiều đoạn thơ khác nhau, ghi lại sự sống, cảm nghĩ khác nhau của T.T.KH. Nhân vật họa sĩ Lê chỉ ngâm thơ Charles Baudelaire một lần , chỉ một đoạn duy nhất trong Khu vườn tuyệt đẹp, nơi này chàng kéo dài cơn đau hấp hối ... cũng chỉ vì trách hoa ti-gôn một mùa tàn, một mùa nở - để trách lòng bất trắc của con người xưa mãi mãi đó thôi.
Cái đó là lẽ thường tình.
***
Sự công bố hiện tượng văn học T.T.KH. là có thật tiếp :
T.T.KH. có tên khai sinh, thẻ căn cước ( Carte d' identité ) là Trần thị Vân Chung ( tên thường gọi là Trần thị Vân Chung *). Sinh ngày 25 tháng 8 năm 1919 ở thị xã Thanh Hoá ( chính quán cũng là Thanh Hóa ) trong 1 gia đình danh giá. Bố mẹ Vân Chung có 5 người con, 3 gái, 2 trai. Vân Chung có người anh trai cả, bà là trưởng nữ, kế đến , 2 em gái , một trai út. Năm 1934, qua mai mối, 2 gia đình đã thỏa thuận gả chồng, cưới vợ,. Chồng, Lê ngọc Chấn, đậu cử nhân luật, tri huyện, sau 1950, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền Quốc gia . Trước 1963, tổng trưởng Bộ quốc phòng , sau vì bất đồng chính kiến, bị đưa đi an trí trong 3 năm ở Côn đảo . Năm 1964 được trả tự do. Sau khi chế độ Đệ 1 Cộng hòa Ngô đình Diệm sụp đổ, ông được bổ nhiệm đại sứ Việtnam ở Anh quốc. Ông bà Lê ngọc Chấn có 4 con, 2 trai, 2 gái.
---
* trong tập sách này , tôi dùng tên thường gọi : Trần thị Vân Chung.
Bà Lê ngọc Chấn, nhũ danh Trần thị Vân Chung ( có thể gọi là T.T.KH hậu chiến ) . Bà ký nhiều bút hiệu: Lê Đông phương, Tam Nương , Vân Nương ... tham gia trong nhóm Quỳnh Dao * .
trước 1975, bà viết bút ký, làm thơ đăng trên nhật báo Ngôn luận ( Saigon) .
năm 1986, ông Lê ngọc Chấn qua đời ở Saigon. Sau đó, bà cùng các con xuất cảnh sang Pháp, từ đó bà đăng thơ, bút ký trên các tạp chí Pháp Duyên ( Mỹ), Pháp Âm ( Nally), Làng Văn ( Canada), Hiện diện
( Toulouse, Pháp) , Văn Hóa ( Paris, Pháp ) v.v...
hiện bà sống ở Sarlat-la-Canéda ( Pháp), nơi này có nhiều phong cảnh hữu tình, khách sạn và nhà xây từ thời trung cổ, Phục hưng hiện còn tồn tại.
-----
* nhóm thơ Quỳnh Dao được thành lập vào 1961 ở Saigon . Gồm một số đông người nữ lam thơ quây tụ lại với nhau, đủ thành phần , các bà được gọi là mệnh phụ phu nhân; hoặc, có địa vị, tiền tài làm thơ xướng, họa, thù tạc. Nào mừng sinh nhật, sinh con, đẻ cái, cưới, hỏi , hôn quan tang tế, khánh thọ , xướng họa, gieo vận ( đặc biệt nhóm này không gieo cú thơ nói lái như thường có ở nhóm khác ) . Theo như nữ sĩ Như Hiên ( hội viên) thì, Quỳnh Dao chỉ có nữ, số người lên tới hàng trăm (?) - thực tế, con số này khoảng trên dưới 30 là xác thực- theo nữ sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương. Nhóm Quỳnh Dao sáng lập, ban đầu có bà Cao ngọc Anh; Vân Nương, Mai Oanh, Tuệ Nga, Đinh thị Việt Liên . Niên trưởng ( hội trưởng) bà Cao ngọc Anh, tác giả Khuê sầu thi thảo, đứng vào vị trí số 1, đệ nhị niên trưởng , bà Đào vân Khanh, tác giả Nhàn khanh thi tập - hiện nay - đệ tam niên trưởng là nữ sĩ Mộng Tuyết ( Thái thị Út ). Phu quân hội viên là rể, vì lẻ, vợ là dâu Quỳnh Dao. Kỷ niệm lần thứ nhất, nhân dịp năm thứ 12 nhóm Quỳnh Dao có mặt trên cõi thơ này , nhật báo Tiền tuyến ( quân đội Saigon) có bài tường thuật , bởi, trung tá Phạm xuân Ninh là phu quân bà Trần thị Anh Minh ( em gái thứ 2 Vân Nương ) từng chủ nhiệm tuần báo Đời và cho nhà văn Chu Tử và ê -kíp thuê, khai thác .
một đôi dòng viết thêm về chồng bà Anh Minh, PXNinh có bút danh Hà thượng Nhân, ký dưới những bài thơ trào phúng, hoặc , hoặc Hoàng Trinh đề trên đầu tập thơ in rô-nê-ô ( gồm 100 cuốn vào 1961, nhân đi phó hội thơ ở nước ngoài) .
trở lại nhóm Quỳnh Dao, trước 1975, cũng có một số khuôn mặt người nữ làm thơ xứng danh là thi sĩ : Tôn Nữ Hỷ Khương, Tuệ Mai, nữ văn sĩ Quỳ Hương v.v...
sau 1975, nhóm Quỳnh Dao kết nạp thêm 3 khuôn mặt nữ: Việt Nữ ( cùng cha, khác mẹ vời nữ sĩ Tương Phố) Trinh Thục ( qua đời) và Cao Mỵ Nhân ( định cư ở Hoa Kỳ). Những người làm thơ này thường xướng họa, thù tạc, không hẳn là poète -né - với Quỳnh Dao là poétesse-née) .
trong nền văn chương Pháp, có người bàn tới écrivain occasionel ( chữ Emile Henriot thuộc viện Hàm lân Pháp) , thì écrivain occasionel có mặt, khi gặp cơ hội thuận tiện, để sau đó làm 1 bài thơ, viết một truyện ngăn ngắn liên hệ mật thiết tới vốn sống một thời, nên tạm gọi họ là văn thi sĩ ngẫu nhiên.
nội dung sáng tác là xướng hoa, thù tạc, cảm khái , tức cảnh sinh tình, nên thường ra, rất ít bài được truyển tụng lâu dài, bởi , sáo rỗng, công thức, gò bó... ít thâm thúy, cao siêu - tuyệt nhiên hiếm hoi có bài sống theo thời gian l6u dài.
( TP chú thích, 1994).
1975 ... trong số những tướng tá, công chức cao cấp của chính quyền VNCH được tập trung đi học tập cải tạo - có ông Lê ngọc Chấn, cựu công chức cao cấp tmrong guồng máy cai trị Ngô đình Diệm. .
Trần thị Vân Chung ở Sài Gòn buôn bán vặt vãnh, chạy vạy tần tảo nuôi con. Bà vẫn dùng bút danh : Vân Nương. Lê Đông Phương, Vân Nương... ký dưới các bài thơ, bút ký của mình, chủ nhà cho ở nhờ là nữ sĩ Mộng Tuyết, số 328 đường Nguyễn minh Chiếu, xã Tân sơn Nhì, tỉnh Gia định.( nay : đường Nguyễn trọng Tuyển, quận Tân Bình).
1976 ... có một trung niên lặn lội từ Hànội vào Sài Gòn.. Đặt chân đến Hòn Ngọc Viễn Đông, người đông như kiến, đường sá rộng thênh thang, xe hơi bây giờ rất hiếm ( trừ quân xa ) - phương tiện di chuyển ngoài xe đạp, thì xe buýt đóng vai trò quan trọng. Người người đi xe buýt, xe chật chội như nêm cối. hảnh khách chen chúc nhau ở bến, trạm xe; lên xe được phải coi như là một may mắn.
Chàng trung niên ngơ ngáo như chú Mán về tỉnh, phải mất rất nhiều thời gian mới leo lên được chiếc xe buýt, người có ghế ngồi cũng khổ, kẻ đứng càng khổ hơn, bị người khác chen chân để nắm cho được cái khoen trên cây i-nốc chạy dọc hai bên ghế để tránh bị ngã khi xe thắng nhồi . Đôi mắt chàng ta dáo dác như tìm ai, đó là người tình xa cách, tác giả Hai sắc hoa ti-gôn 42 năm xưa. Có nghĩa là , từ 1934, nàng lập gia đình ở Thanh Hóa tới nay, 1976, chàng đặt nhiều hy vọng gặp lại ở Sài Gòn. Bữa nay, trên tuyến xe buýt này, chàng vẫn chưa gặp nàng; có thể bữa mai, cũng trên một tuyến xe buýt khác, chàng hy vọng gặp. Niềm hy vọng khiến chàng kiên nhẫn hơn, vững niềm tin, đặt nhiều hy vọng. Đã nhiều ngày như thế, đêm về, chàng ngả lưng, chỉ chợp mặt một tí lại thức dậy, chờ sáng mai chóng tới, chàng lại lên đường ngồi trên một chiếc xe buýt nào đó. Chàng đưa mắt nhìn khách ngồi, khách đứng; rồi khách đứng lại ngồi- chỉ mong tìm được dáng nàng mà thôi. Chàng vừa liếc mắt nhìn, vừa dò hỏi tin tức ở người có thể hỏi thăm được tin tức, phải là người đồng hương xứ Thanh - chẳng nay thì mai - chàng hy vọng gặp được hỏi ra tung tích nàng. Có một người quê ở Thanh Hóa cho chàng tin bà Lê ngọc Chấn có một người em gái, tên bà Minh, vợ một sĩ quan đi học tập học tập cải tạo . Năn ni, người ấy cho biết thêm, hẻm 333 / 14/ ... đường Trương minh Ký, Gia định, nhớ là đầu hẻm bán giò chả rất ngon , cứ hỏi lần lần thì tìm được thôi. .
Mắt chàng lóe sáng khi nhìn thấy bàng số nhà mầu xanh mang số 333/ 14/... , đưa tay lên gõ. Cổng sắt , tường cao, không chuông, nhưng vẫn có người ra mở. Nhìn thấy khách lạ, hỏi:
"... bác muốn gặp ai ?"
" ... tôi ở Hànội vào, xin cho tôi gặp bà Minh, vợ ông Phạm xuân Ninh?"
" ...vậy ông là ai ?, xin cho biết quý danh?"
" ... tôi là người đồng hương xứ Thanh, quê Thanh Hóa, xin được gặp bà Minh. Đúng là tôi mới ở Hanoi vào đây được mấy hôm..."
Đó là những câu hỏi đáp giữa khách trung niên và người nhà bà em Vân Nương vừa trao đổi được báo lại cho bà Minh.
Bà Minh đành ra gặp người khách lạ kia. Ông khách trung niên tự giới thiệu tên, đi thẳng vào vấn đề:
" tôi xin được gặp bà Vân Nương T.T.KH. "
" ... ở đây không có ai là bà T.T.KH ., đây là nhà ông Phạm xuân Ninh, quê Thanh Hóa. Nhưng nhà tôi mới đi trình diện học tập cải tạo ..."
"... vậy bà làm ơn cho tôi gặp bà Trần thị Vân Chung , tôi rất muốn gặp bà và xin lỗi, tôi chỉ đi khỏi đây, khi gặp được bà ấy .."
'.. thôi thì... mời ông vào chơi ..."
Bà Trần thị Anh Minh nhăn trán, suy nghĩ, đành phải mời ông khách lạ kỳ khôi ngồi chờ để tìm bà chị Vân Chung .
Em gái bà Vân Nương nhắc đúng lời người khách kia nói : sẽ không rời khỏi nơi này, nếu chưa gặp được bà ấy .
Bà không thể tiếp chàng ở nhà được. . Chồng mới đi học tập, các con đã trưởng thánh, có đứa ở xa, có đứa vẫn ở cạnh bên bà sớm hôm. Bà khổ tâm vô cùng, chẳng lẽ lại không đi gặp người ấy , cô em gái vẫn đợi, dáng vẻ tần ngần...
Thôi thì đã liều thì ba, bẩy cũng liều, bà nhận lời em gái. Ngày xa xưa ấy, cũng vào một chiều thu, bà đã khóc mối tình của chính mình :
... Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp ' màu hoa trắng'
Là chút lòng trong chẳng biến suy ...
Ra khỏi cổng nhà, bà giẫm phải cánh hoa ti-gôn mọc bên ven tường, hoa một mùa rụng? một mùa
nở ? ,... nhiều cánh đủ màu mọc bên tường rụng trên mặt đường, bà hẳn không quên :
.Trách ai mang cánh ti-gôn ấy
Mà viết tình em được ích gì ?
đến bây giờ vẫn còn đúng với tâm trạng :
... Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn giấu ác xơ
Tóc úa giết dần người thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chẳng nên chờ ...
hai chị em đã đi hết con đường Nguyễn minh Chiếu, qua Thoại ngọc Hầu, đến ngã 4 thì rẽ trái sang Trương minh Ký. Bữa nay cũng là một chiều thu Sài Gòn, lòng tê tái lòng gặp chàng - như lòng từng tê tái vào một chiều thu xưa., gió cũng lạnh lẽo, khi nhớ đến người ấy... đứng ngóng đò :
... Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa rụng lại chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mấy trắng
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò ...
giờ này đây, người khách năm xưa ngóng đò đang nóng lòng đây, vì muốn gặp, bà biết rất rõ, cả chàng cũng biết rất rõ :
... Nếu biết rằng tôi đã có chồng
Trời ơi ! người ấy có buồn không ?
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai tựa má hồng ...
bắt đầu rẽ vào hẻm 333 Trương minh Ký rồi đây, tim đập liên hồi; nhớ đến chồng lên đường trình diện học tập cải tạo. Bà cũng nhớ đến những ngày phu quân mê mệt một nữ thư ký ở văn phòng luật sư, nơi làm việc của chồng * , bà đau khổ về chuyện này không ít ; song, không ta thán, không buông nửa lời trách móc. Chỉ nhớ tới :
-----
* luật sư Chấn mở văn phòng luật ở 33 D Nguyễn trung Trực, Saigon 1.
... Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người
bà sợ phải nhìn thấy con đường này, con đường mang tên Trương minh Ký, đầu hẻm 333 có một hàng bán giò chả rất ngon... Bà rất mong được gặp người nầy, rồi lại có một ý tướng khác nổi lên chống đối không nên gặp - nhưng chẳng hiểu sao, ý tướng nghĩ thì nghĩ vậy;còn bước chân vẫn bước tới... Lại không thể quên nội dung 1 đoạn văn ở Hoa ti-gôn:
"... Họa sĩ được tin, đem những dây hoa ti-gôn, thứ hoa giống hình quả tim vỡ mà trước kia nàng hái ở vườn nhà ..."
chinh Hoa ti-gôn đã khiến bà buồn khổ, cả khi còn ở vườn Thanh : buồn quá hôm nay xem tiểu
thuyết - khóc chính bằng dòng lệ nóng chảy trên gò má; khóc nhớ tới quyết định đặt bút hiệu T.T.KH. ký dưới bài thơ được gửi đi đăng báo. Bài thơ thứ nhất, Hai sắc hoa ti-gôn, rồi Bài thơ cuối cùng , chuyện tính đời ...T.T.KH. ngày xưa.. Chao ôi ! biết bao tài tử văn nhân dệt thảo thành chuyện huyền thoại, nào THÂM TÂM ... KHÁNH , lại đánh lạc hướng qua những phương danh THÁI THỊ KHƯƠNG, TÀO THỊ KHUÊ, TRẦN THỊ KHÁNH ... hoặc si- tình- thơ như chàng Nguyễn Bính viết bài thơ Cô gái vườn Thanh. Không một ai biết được bút hiệu T.T.KH. khi hình thành, kể cả chàng; mà chỉ biết sau khi bài thơ có bút hiệu ấy, ký dưới những bài- thơ - thất- tình. Bà hình dung tới những giây phút tại sao lại đặt bút hiệu T.T.KH. ?
- T : chữ thứ nhất là TRẦN
- T : chữ thứ 2 là THANH
- T : chữ sau cùng: KHÓC
T.T.KH. cả 2 cùng khóc cho mối- tình -chân * ngoài đời- mối -tình- thơ nuốt trong- dòng- lệ.
- ... sắp tới rồi chị ...
iếng cô em nhắc sắp đến nhà cô ta; nghĩa là sắp được gặp chàng, bỗng dưng nghe tiếng trống liên hồi dồn dập đập trong trái tim hồng- như cách đây 40 mươi năm ngoài. Lại không thể quên những câu thơ từ xa xưa :
----
* tựa một tiểu thuyết Nhất Linh.
... Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa, than ôi !!!
Biết đâu, tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tưởi rồi !!!
- cọc.., cọc ... cọc tiếng gõ ở ngoài cổng ... rồi tiếng cô em: ' mở cửa, mẹ đây ..."
c ổng sắt mở nửa cánh. Phòng khách ở phía trước , phải đi qua một sân xi-măng. Trên ghế sa-lông bày
một cách tùy tiện- một khách trung niên, người dỏng cao, m dáng mảnh khảnh, lưng hơi gù tôm, mắt sáng, quần áo khá tươm tất ...
vậy thì bây giờ... thế giới này chỉ còn 2 người.
chàng : vội chạy tới giơ 2 tay vái chào.
nàng : xúc động, thân người run lên, mi mắt trùng xuống...
thế là nước mắt bỗng tuôn rơi ...
lời thơ hoa ti-gôn , bài thơ Hoa tím T.T.KH.- phương xa / Thư Linh như đến thật gần :
... Tái phùng, trúc cỗi, mai gầy
Lệ thu dàn dụa hương gây mủi lòng
Bài thơ ký tắt não nùng
Bao dòng tâm sự ngàn trùng quan san ...
THƯ LINH
sau đó, khách trung niên nói rất nhỏ với cố nhân :
"... khi về Hànội, biết rõ chồng em có chức vụ quan trọng như thế, lại đầy quyền uy như thế; anh biết là mất...em... thực rồi !!!
khách trung niên ấy, chính là tác giả truyện ngắn Hoa ti-gôn / Thanh Châu ngày trước.
1986. ông Lê ngọc Chấn * đi học tập cải tạo trở về nhà rồi, gia đình đang chuẩn bĩ giấy tờ xuất cảnh sang Pháp. Riêng ông Chấn lâm bệnh nặng, chạy chữa thuốc men hết cỡ, vẫn không qua được thông lệ thường tình rong cuộc đời mà không một ai thoát ? - thân xác ông đành nằm lại vĩnh viễn ở Saigon . Chỉ một T.T.KH. đem theo mình vả một khối tình thơ nặng trĩu: Bài thơ thứ nhất + Hai sắc hoa ti-gôn + Bài thơ cuối cùng năm xưa - + thi tập Tơ sương in ở Saigon thập niên 70 cùng di tản sang Pháp, đến định cư ở vùng Sarlat-la-Canéda ( France) - nơi ở mới này ,cây sồi mọc trùng trùng điệp điệp, nho trên đồi man mác, trái mận, trái pom ... + cảnh thiên nhiên hữu tình , thơ mộng. Bà sống trong một làng nhỏ, cũng gọi village, nơi đây, nhà không có số giống như nhiều thôn ấp, làng xã ở quê nhà Việtnam.
-----
* Lê ngọc Chấn ( 1910 - Saigon 1986 ) có làm thơ xướng họa thù tạc, đâu đó khoảng 1, 2 bài. Chuyện được kể lại , bài đầu tiên, ông làm váo 1934, khi chú rể huyện quan cưới Trần thị Vân Chung ( chắc chưa biết là T.T.KH ) có MỘT BÀI THƠ LẤY VỢ.
tham dự buồi tổ chức sinh nhật lần thứ 83 của nhà văn Tam Lang- Vũ đình Chí ( 1900- 1983) nổi tiếng thời tiền chiến, tác giả Tôi kéo xe, Lọng cụt cán... tồ chức ở quận 4 tp. HCM , ông Lê ngọc Chấn có bài thơ :
XIN HỎI BÁC TAM LANG
thơ LÊ NGỌC CHẤN
Bác đã tám ba năm mộng
Sắp tỉnh rồi, lộ ánh bình minh
Hỏi rằng mộng Thế, mộng Tình?
Mộng nào bác thấy đắm mình thiết tha ?
Cuộc nhân thế, giờ tà huy điểm
Tám ba năm, một chuyến đi dài
Hỏi rằng bao cuộc tỉnh say
Cuộc nào bác tỉnh, bác say cuộc nào ?
Giữa tiệc thọ nâng cao chén cúc
Xin chân thành chúc bác an khang
Cuộc chơi còn lắm rộn ràng
Bốn phương bè bạn, hành trang ân tình !
L.N.C.
09- 04- 1983
một bài thơ không thể không khen hay được !
trích nguyên văn thơ Thư Linh.
hoa tim ( antigone) - t.t.kh. phương xa
thơ thư linh
Giây leo mỏng mảnh hết chùm hoa
Nho nhỏ xinh xinh dáng dịu hòa
Mấy cánh hồng hình tim khắng khít
Bao tua xanh sắc lá nhạt pha
Gió lên lồng lộng bông rơi rụng
Nắng thoáng mờ phai dạ xót xa
Thi sĩ ví như tim vỡ nát
Tình yêu tan tác giống đời hoa
T.T.KH. Phương Xa
Có còn nhớ đến loài HOA TIM này ?
Tuổi hồng vương mộng tỉnh say
Đường tơ dở khúc, lòng day dứt buồn
Vườn Thanh xưa, cánh hoa vương
Tóc mây phơ phất ai thường vuốt ve ?
Tài hoa cát bụi trần che
Non sông giục bước, lòng se sắt lòng
Một chiều thu nắng qua song
Bên nhau NGƯỜI ẤY mắt trông ánh buồn
Rõi theo bóng hạc mờ sương
Vin cành hoa trắng ngắm phương trời chiều
Tay ngà nâng cánh hoa yêu
Thở dài NGƯỜI ẤY đăm chiêu nhủ rằng
Hoa như tim vỡ thấy chăng ?
Sợ tình tan vỡ ... Nàng rằng : Không đâu
Sắc hoa trắng mối tình sâu
Chúng ta hát khúc bạc đầu trăm năm
Hoàng hôn nhạt nét chiêu đăm
Mây trôi lãng đãng, núi nằm cheo leo
Gió lên hoa trắng bay vèo
Duyên thiêng tỉnh mộng, tình treo chỉ mành
Trời xui sóng rộn biển xanh
Hôn hoàng nhuộm tím mối tình đấu tiên
HOA TIM vỡ nát hương nguyền
Lòng thơ lạnh khóc duyên thiêng nửa vời
Người đi ngày một xa xôi
Ngàn dòng tâm sự, một trời nhớ thương
Vườn Thanh hoa cỏ se buồn
Đêm ngày dệt mối tơ vương ngậm sầu
Giải đường xa bóng ai đâu ?
Tiếng thương hoa vỡ nát màu chia ly
Không gian bặt tiếng người đi
Môi hồng lợt sắc, hồn thì thấm sâu
Tháng năm chờ trĩu lòng đau
Áo Trang Sinh có gợn màu Hương Quan ?
Vườn Thanh hoa nát, canh tàn
Ghi thơ thương nhớ, nhấn đàn chờ trông
Mối mai cha mẹ bận lòng
Vâng lời hẹn hiếu áo hồng ủ vai
Bắc, Trung điểm giọt u hoài
Pháo hồng thắm sắc đẹp ngời vinh sang
Duyên lành ủ trái tim tan
Nước mây thương khách đa đoan nghẹn lời
Nhớ, quên ... ôi cũng đành thôi
Chung tình sẻ nửa bên người bên ta
Tình đâu đẹp nhất tuổi hoa
Thời gian trôi mãi vẫn là nhớ thương
Lắng nghe tiếng vạc chiều sương
Buồng nghiêng trướng gấm sầu vương mái lầu
Không gian bàng bạc tình đầu
Ai bâng khuâng nhớ ? Ai rầu rĩ thương ?
HOA TIM rụng trắng trong vườn
Hoa tan tác mộng nghẽn đường gió bay
Tái phùng trúc cỗi , mai gầy
Lệ thu dàn dụa hương ngây mủi lòng
Bài thơ ký tắt não nùng
Bao dòng tâm sự ngàn trùng quan san
Tình xưa ẩn náu thời gian
Người người thương cảm bàng hoàng hỏi : AI?
Lặng câm náu tháng năm dài
Giữ danh chồng há dám phai chữ đồng
HOA TIGÔN vỡ tim hồng
Cung thương lỡ dở tơ lòng đứt dây
Tình yêu man mác trời mây
Vì yêu chịu khổ đọa đầy dở dang
Mối tình đẹp giữa trần gian
Là Hoa Tim vỡ, mộng tàn kiếp thơ
XIN KÍNH GỬI NGƯỜI CHỊ THƠ XA XÔI
MÀ TÔI ĐÃ DÀNH NHIỀU YÊU MẾN
NHỮNG DÒNG THƠ HOA / NGHIÊM PHÁI+ THƯ LINH *
T.L
( kỳ sau: thơ t.t.kh hậu chiến hay là vân nương qua tơ sương )
----
* nhà xuất bản Văn hóa- thông tin tái bản, Hànội 2001.
( trích T.T.KH. NÀNG LÀ AI / THẾ PHONG ( THẾ NHẬT) -
nxb văn hóa thông ti tái bản , hànội 2001 - tr. 30 - 50 )