Thi ca & Thi nhân:
C U N G T R Ầ M T Ư Ở N G
bài viết: CAO THẾ DUNG.
Tên thực : Cung thúc Cần, sinh năm 1932 tại Hà Nội.
Sĩ quan Không Quân, từng du học tại Pháp.
Ông là một trong mấy nhà thơ thuộc lớp tiền đạo của phong trào
vận động văn học nghệ mới 1956 .
Đã cộng tác với: tạp chí Sáng Tạo, Nghệ Thuật, Khởi Hành..
Đã xuất bản : ' Tình ca ' ( thơ Cung trầm Tưởng, nhạc Phạm Duy,
họa Ngy Cao Uyên - 1959).....
Dù đã bao năm qua , người ta vẫn còn nhớ cái từ điệu mênh mang và hàm dưỡng trong khúc Tình Ca của Cung trầm Tưởng. Ông là một trong số rất ít những nhà thơ, bằng cung bậc của hồn, bằng tiếng nói của tim. Cung trầm Tưởng có một giọng đài các lạ thường, bi hoài như một Bà huyện Thanh Quan. Ông lại có cái phiêu du của Lưu trọng Lư. Thơ ông là thơ tình ái, nhưng thứ tình ái vân du trong khắp ngả tâm linh vời vợi, lên cao vời tìm thân phận, cùng vơi sự nổ trôi về dĩ vãng xa xưa nao ! Lời thơ Cung trầm Tưởng bao giờ cũng trân trọng, ý thơ đài trang, và hình ảnh, là những hình ảnh tuyệt đẹp. Ta hãy lắng nghe :
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế !
Trời mùa đông Paris
Suốt đời lam chia ly
Tiễn em về xứ mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách
Ga Lyon đèn vàng
Tuyết rơi buồn mênh mang
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng
Hôn nhau phút này
Rồi chia ly tức khắc
Khóc đi em, khóc đi em
Để luồn qua tóc rối
Những vì sao rụng ướt vai mềm
Khóc đi em, khóc đi em
Hỡi người yêu xóm nhỏ
Để sương thấm bờ đêm
Đường anh đi tràn ngập lệ buồn em.
( Chưa bao giờ buồn thế ! - Tình ca ).
Ta thấy rằng tiếng thơ Cung trầm Tưởng bát ngát thương yêu qua hình ảnh, qua từ điệu. Thật là một bài thơ xinh xắn, mang cái yêu dấu của Xuân Diệu, mang cái chất thanh cao trong tiếng thơ tình Verlaine. Yêu là nhớ thương, vì trong yêu đã có xa cách. Nỗi buồn xa cách trongt hơ Cung trầm Tưởng đa mang theo cái say sưa, cái ngơ ngẩn trong tâm thần trước phút cách xa. Ta có thể nói, Cung trầm Tưởng là thơ của Tình Ái. và lòng Nhớ Nhung. Hình như bao giờ ông cũng say sưa với dĩ vãng, ôm ấp trái sầu tâm tư của một lần yêu, một lần cách trở, một lần đợi chờ :
Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đổ tràn ly
Mùa thu đêm mưa
Phố cù hè xưa
Công trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút giờ
Mùa thu âm thầm
Bên vướn Lục- xâm'
Ngồi quen ghế đá
Không em buốt giá từ tâm...
(...................)
Mua thu mùa thu
Thôi sầu hoang vu
Yêu em độ lượng
Trong em tâm tưởng giam tù
Mùa thu... trời ơi... mùa thu.
( Mùa thu Paris ).
Tự ngàn xưa, mùa thu đã có duyên nợ với thi nhân. Tiếng thu đìi hiu nhẹ , đi vào tâm thể thi nhân tự muôn đời, tư muôn thê hệ. Verlaine bất tử với một Chanson d'Automne. Cũng không ai có thể quên Lưu trọng Lư với Tiếng thu. Nói đến thu là nói đến cỏ cây vàng úa cùng vơi tâm thức hao mòn trong một nhịp sầu nhớ bâng khuâng. Mùa Thu đã trở thành người tình từ thiên cổ của thi nhân. Khi mùa Thu đến, ai mà không cảm thấy men say của thu... Mùa Thu từ khung trời cao vợi đi len lén vào tâm hồn người, mà ngân lên những cung bậc mây cao của hiu hắt, của chập chùng. Nhất là thuở ở nơi đất lạ của một người yêu giữa công trường lá đổ và tượng đá hoang liêu, thì khung cảnh ấy tự nó đã rất nên thơ mà lại được Cung trầm Tưởng vẽ lên cùng với hơi thu Paris, thì nhất định nó phải là bản tình ca diễm tuyệt của Thu trong cách xa vời vợi và đợi chờ. Vì vậy, ta hãy đọc đi, đọc lại' Thu Paris' mà không cảm thấy chán ! Tiếng thu ấy như Tiếng thu của Lưu trọng Lư- ngân rất dài, tưởng như bất tuyệt, đi thẳng vào trái tim ta, in đậm trong cân não. Đọc xong Thu Paris, ta ao ước một lần đến vườn Luxembourg để chờ đợi một nguời yêu nào đó. Mùa thu Paris quả là sự cám dỗ mơn man, và chưa hết, Cung trầm Tưởng còn thêm nhiều những cám dỗ mơn man khác, cao điệu hơn, đẹp mà đài trang - lạnh lùng trong thiên cổ :
Xanh thau ớn lạnh hồn chiều
Hoang sơ lá cỏ, tiêu điều quán không
Vang dội núi sông
Chiêng ai rùng rú
Khua đời lính thú
Cho trời mênh mông
Đơn côi ai hú đồi thông
Cây mơ nhắc nhở gió đông nhớ chiều
Thuyền nan một mái xiêu xiêu
Con sông tới giấc mắc chiều lên nhanh,
(Chiều ).
Khúc thơ Chiều của Cung Trầm Tưởng không khác gì tiếng nhạc Chiều của Hồ Dzếnh. Thật khó lòng mà dùng ngòi bút để bày tỏ cho hết những' hoang sơ lá cỏ' những' ớn lạnh hồn chiều'. Thật thế, ta chỉ có thể cảm thấy cái chất nhớ chiều của gió Đông, hoang vu trong quán vắng. ta cảm bằng hồn, bắng cả trái tim, thì mới thầm cảm đước cái giọng thơ cao kỳ này :
Con sông tới giấc mắc chiều lên nhanh
Phải là một nhà thơ có biệt tài như Cung trầm Tưởng mới đưa buổi chiều vào tiếng ngân trong lặng lẽ mơ màng như thế !. Người ta bảo thơ Cung trầm Tưởng mang dấu tích thơ Bà huyện Thanh Quan. Nhận xét như thế không phải là sai. Cung trầm Tưởng như đồng điệu với Bà huyện Thanh Quan trong nỗi bi hoài dĩ vãng, trong một ngôn ngữ trân trọng, đài trang :
Bù em một tháng trời gần
Đem hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi
Bù em góp núi chung đồi
Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ
Bù em xuôi có ngàn thơ
Vẫn nghe trắc trở bên bờ sông Thương
( Kiếp sau - Tình ca )
Gần như toàn bộ thơ Cung trầm Tưởng đều mênh mang nỗi tang thương, đơn lạnh. Không một bài thơ nào của ông mà không có cái từ điệu hoang sơ, cô tịch. Ông đi trên con đường thật riêng rẽ - con đường của người trẻ tuổi hôm nay - day dứt với dĩ vãng, bơ vơ trước ngả tương lai. Con đương của ông thì chỉ một mình ông làm- kẻ đ8ang trình trong sót thương ơ hờ, khép kín một nỗi hàn ôn.
Người ta còn nói rằng : Cung trầm Tưởng là một thứ Huy Cận hôm nay. Điều này thì không thể đúng !. Cung trầm Tưởng chi giống Huy Cận ở cái giọng cao kỳ - mang niềm kiêu hãnh của đẳng cấp vong thân- và 2 nhà thơ này không phải là thi nhân đi lên từ quần chúng - Cũng như Huy Cận, Cung trầm Tưởng là thi nhân của một số người chọn lọc. Điều có thể làm ta dễ ngộ nhận Cung trầm Tưởng là chịu ảnh hưởng Huy Cận qua thơ lục bát của ông và của Huy Cận có nhiều nét hao hao. Giọng thơ lục bát Huy Cận như thế này :
Giữa trời hình lá con con
Trời xa sắc biến lá thon mình thuyền
Gió qua lá ngọn triều lên
Hiu hiu gió thổi thuyền trên biển trời
( Lửa thiêng / Huy Cận ).
Đây là giọng thơ lục bát Cung trầm Tưởng :
Chiều đông tuyết phủ âm u
Bâng khuâng chều đến tiếp thu trời buồn
Nhớ ngày tàu cũng đi luôn
Ga thôn trơ nỗi băng nguồn héo hon ...
( Khoác kín / Cung trầm Tưởng )
Ta có thể nhận ra rõ ràng bản sắc của mỗi người một khác, thể chất thơ mỗi người môt vẻ. hai nhà thơ có 2 nét giống nhau, qua giọng thơ nhịp 6 và 8. Lục bát Huy Cận trau chuốt hơn, nhưng thiếu đằm thắm, bình dị, trong sáng. Lục bát Cung trầm Tưởng thì lại hội được cái tình ý phiêu du mà đơn sơ của ca dao, thêm nét đài các Bà huyện Thanh Quan, nỗi bi thương Đoạn trường tân thanh, và cả cái phiêu bồng qua thơ Lưu trọng Lư:
Mưa rơi đêm lành Saigon
Mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi
Mưa bay trời cũng thế thôi
Đời nao biển lạnh mưa bồi đất hoang
Hồn tu kín xứ đa man
Chóng hao thân thể sớm vàng lượng xuân
Niềm tin tay trắng cơ bần
Cuối hoàng hôn lịm bóng thần tượng xưa
Đêm nay trời khóc, trời mưa
Gió lùa ẩm đục trời đưa thu về
Trời hay thu khóc ủ ê
Cổ cao áo kín đi về hồn tôi.
( Đêm sinh nhật )
Thơ lục bát mà đạt được một nghệ thuật như vậy đã là tân kỳ. Không thể so sánh với lục bát Nguyễn Du, cũng không thể so sánh với lục bát Huy Cận. Lục bát hôm nay- với Cung trầm Tưởng là một chứng tích thời đại qua ngôn ngữ, hình ảnh, thi âm. Một sự thoát xác để vươn lên cao, nhưng vẫn giữ lại cái tinh tự muôn thuở trong tâm hồn quê hương. Lục bát Cung trầm Tưởng đủ khả năng tiêu biểu cho sự lớn mạnh, qua đổi thay của lục bát hôm nay. Song có một sự thực mà ai cũng nhận ra; lục bát Cung trầm Tơởng nhiều khi cố ý lập dị, vì nhà thơ quá chú trọng đến ngôn từ - và như cố tình muốn nói lên điều gì thật cao, thật khó hiểu cho nên nhiều chỗ tình ý không được thực. Tuy vậy, lục bát Cung trầm Tưởng không thể lẫn lộn với bất cứ lục bát của ai khác, bởi ông là nhà thơ có bản sắc riêng rẽ, đậm đà. Ông sở trường về thơ lục bát, 5 hoặc 4 chữ, còn thơ 8 chữ thì Cung trầm Tưởng rất tưoờng. Ông cũng không thể thành công ở những đề tài bày tỏ thái độ hay suy tư của ông về quê hương xứ sở. chẳng hạn :
Con sông chảy gieo diêu niềm xúc động
Thụ cuồng si của thái mẹ non cha
Máu Yên Bình máu chợ Ngọc trào pha
Cho chan chứa giòng yêu thương lịch sử
( trích' Không đề ' - tạp chí' Đất Đứng;).
Cung trầm Tưởng vốn là thi nhân quá trân trọng ngôn ngữ lại trau chuốt từ điệu, nên ông dễ dàng thất bại, qua những đề tài không thích hợp với tâm hồn ông. Hồn thơ CTT là thơ của kẻ bi hoài như vị hoàng tử mất ngôi, vì luyến tiếc dĩ vãng, để rồi thức giấc trong bi hoài ! Ông chỉ sở đắc thơ tình tự mà thôi:
Chiều đông tuyết phủ âm u
Bâng khuâng trời đến tiếp thu trời buồn
Nhớ ngày tàu cũng đi luôn
Ga thôn trơ nỗi băng nguồn héo hon
Phương xa nhịp sắt bon bon
Tàu như dưới tỉnh núi còn vọng âm
Sân ga mái giọt âm thầm
Máu đi có nhớ hồi tâm đêm nào
Mình tôi với tuyết non cao
Với cồn pôố tỉnh buốt vào xương da
Với mây trên nhợt ánh tà
Với đèn xóm hạ cũng là tịch liêu
Tôi về bước bước đăm chiêu
Tâm tư khép kín sợ chiều al5nh thêm.
( Khoác kín ).
Với thơ lục bát hôm nay , thì chưa một nhà thơ nào vượt qua được giọng thơ Cung trầm Tưởng. cái giọng thơ trong tình tự nhạc, qua ánh sáng của hình ảnh.
Cung trầm Tưởng là một thi nhân có biệt tài - vì ông có riêng bản sắc. Hồn thơ đi theo cá biệt của tâm hồn ông, và ông thực muốn làm sống lại những huy hoàng của mộng ảo, trong qúa vãng, trong nhớ thương. Ông là nhà thơ của một tình yêu lý tưởng, của hoài niệm, xao xuyến trong tình yêu vô biên. Và Tình Ca là một điềm son của Thi ca hiện đại - một vùng ánh sáng thơ mộng trên Quê hương - một tình tự đậm đà của thời đại.
[]
CAO THẾ DUNG.
( trích' Văn học hiện đại - Thi ca & Thi nhân / Cao Thế Dung/
Nxb Xây dựng, Saigon 1969- tr. 49- 56)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét