lưu dân thi thoại - diên nghị ...
nxb cội nguồn, san jose 2003
thi sĩ huy lực - bùi tiến khôi
bài viết : diên nghị + song nhị
Bắt đầu đi vào làng thơ từ giữa thập niên 50, từng nhận giải thưởng Văn chương Việt Nam Cộng Hòa năm 1966. Huy Lực- Bùi tiến Khôi đã có một bề dày thời gian cầm bút . [Tác giả cho xuất bản] 9 tập thơ ấn hành tại quốc nội và 2 tập bằng anh ngữ ở Hoa Kỳ ' America my first feelings' (1981), '20 poems and 1000 thoughts' ( 1994)...- ngoài ra, còn biên luận nhiều chuyên đề khác 'The Spirit of Vietnamese Philosophy' ( 1989),
' Vietnamese Youth in America: Change, Challenge and Education' ( 1990).
Chào đời tại quê hương vào 1937 ờ Bình định, trước 1975 là viên chức thuộc bộ Canh nông & Điền địa. Ông là một trong số ít nhân vật thành công tại Hoa Kỳ, có học vị tiến sĩ, hành nghề giáo sư cố vấn tại đại học Cộng đồng Houston từ 1976 đến nay. Ông được thành phố Houston bầu vào chức vụ Nhà thơ công huân danh dự của thành phố. ( Houston's Poet Laureate, !984) - và hội Thi ca quốc tế tặng giải thưởng Vàng thi sĩ 1985, viện Danh nhân Hoa Kỳ tặng Huy chương Danh dự 1900, Giải thưởng thành tựu của thế kỷ 20 ( The Twentieth Century Award for Achievment 1992 ), và, có tên trong Almanac 1994, 1995 và Who's who in America 1994, 2002 .
Hiện ông đang hành nghề giáo dục tãi tiểu bang Texas. Thông qua phần tiểu sử, đã minh chứng khả năng, uy tín, hoạt động đa diện, và, tầm cỡ thành tựu của ông trong 1/4 thế kỷ.
Thơ Huy Lực trước 1975 đến nay đậm nét thời thế, lạc quan trong quá khứ, bi quan ở hiện tại, dầu ông đã gặt hái kết quả tích cực trên các lãnh vực thi ca, văn háo, xã hội và giáo dục.
Phục vụ guồng máy công quyền miền Nam, ông đã tận tụy hết lòng đầu tư tài năng, trí tuệ ,tuổi trẻ cho đại cuộc, bảo vệ, phát huy lý tưởng tự do, nhân ái của dân tộc. Sự sụp đổ chế độ chính trị miền Nam là một cú hích mạnh, xô ngã giai cấp trí thức đương thời, họ gượng đứng dậy được, trước tỉnh ngộ muộn màng, và, họ ý thức về thân phận nhược tiểu, giữa bao la quyền lực vô hình định đoạt, áp đặt theo sách lược quyền lợi được hoạch hóa.
(... ) - tạm lược 2 dòng. (BT)
Quá khứ nhiệt huyết một thời, chặng đường thành tựu, ngày trước và mãi mãi đã mất, đã rã rời tàn nhẫn. Huy Lực [vẫn] đứng trước khoảnh khắc hiện tại, bỗng trở lại, kiếm tìm, nuối tiếc,
Làm sao lội ngược thời gian nhỉ
Tìm dấu trinh nguyên giữa bụi trần
nỗi buồn vô âm, vô cảnh, bủa vây tâm hồn lưu lạc. Đi tìm nhau, ai tìm ai, liệu còn hội ngộ? Quê người mênh mông quá, chan hòa ánh sáng văn minh, mà, con người mất quê hương vẫn nặng trĩu tâm lý cô đơn, nên, cảm nhận
' người buồn cảnh có vui đâu bao giờ '.
Tìm nhau sưởi ấm đêm lưu lạc
Trong vũng tang thương đăm đuối buồn
Quê người gặp lạ tang thương quá
Cỏ úa rêu phong cổng lạnh lùng
MIỀN NAM
Nếu bản thể công dân, vươn tới hoàn thành tiến trình hội nhập, thích ứng cuộc tồn sinh, giữa dòng đa văn hóa, thì, bản thể thế nhân quay quắt, dị ứng thường trực với xã hội, với chủng tộc khác màu da, cả cảnh vật, sắc hương tự tại của tiết xuân bát ngát vùng đất lạ,
Hương xuân trên đất người ta
Ngửi vô lạ hoắc, thở ra bồi hồi
Hương trầm còn lạ trong tôi
Òa lên nghi ngút, xông đời quạnh hiu ...
Tâm cảnh mâu thuẫn, tranh chấp, một nửa muốn thỏa hiệp hòa hoãn, nửa kia muốn rời lìa, cách ngăn. Hiện thực năng động xô xát, nhòa xóa dần, để trước mắt con người lưu vong trở về nội tâm của chính mình, nhưng đơn độc và đơn điệu. Đứng trên bục giảng, tước cử toạ sinh viên, người bốn bể hợp dưới mái nhà chung, nỗi hoài nghi ray rứt, đậm nhạt, thoáng hiện trong cõi riêng của tác giả,
Đại học vùi thân bốn bể một nhà
Bụi phấn kết hoa giảng đường mặt lạ
Bao năm rồi giọng cuốc buồn ra rả
ta nói với người hay cho chính thân ta
Huy Lực cùng chung tâm trạng với nhiều nhà thơ cùng cảnh ngộ, phải bước qua trên khúc quanh lịch sử. Máy ai xa quê hương, giờ đây an ổn như mộng ước ! Chinh chiến tàn cuộc ngoài không gian, chinh chiến trong lòng người còn âm ỉ dài lâu ...
Vào ngày kỷ niệm tuổi tri thiên mệnh' của thi sĩ, cảm xúc một lần nữa gợi dậy não nùng dòng nước mắt,
Thơ đời xanh xao
trên thân ác em xinh dày vò hải tặc
Mạch đời buồn
quê hương tù ngục uất hận mờ trăng sao
Tuổi năm mươi
khóc ngất trẻ thơ, nước mắt nhạt nhòa
SINH NHẬT 50 TRÊN ĐẤT NGƯỜI
Và tận cùng giờ phút hồi tưởng tiếng vọng cuộc tình xa xưa đang gõ nhịp, nhắc nhở thời gian của một thời đã mất,
Thuở yêu người trôi nhanh mất hút
Quê hương xa kỷ niệm một thời
Đêm lưu lạc, đêm buồn thao thức
Tiếng yêu thầm vọng mãi người ơi
THUỞ YÊU NGƯỜI
Mỗi dòng thơ, mỗi đoạn thơ của Huy Lực- Bùi tiến Khôi ghi dấu một ân hận, một tiếc thương. Tiếc thời gian đi không bao giờ trở lại. Con sông thời gian cạn dần trước mắt, nhìn thật bất lực... Hình như, thời gian đang hiện hữu, âm thầm mài mòn tâm tình thi sĩ .
trich 1/4 bài thơ Huy Lực :
MƯỜI NĂM
Khi đứng trước c3nh nhân sầu tuyệt thảm
em sẽ yêu cái ngông cuồng của ta
HUY LỰC- BTK.
Gió trở trời thu thả phấn hương
Mười năm mù mịt cõi muôn phương
Mưa bay kỷ niệm lên màu khói
Từng giọt râm ran nỗi đoạn trường
Tích tắc người đi nhịp bước chân
Mười năm, ngày trước gái thanh tân
Làm sao lội ngược thời gian nhỉ
Tìm dấu trinh nguyên giữa bụi trần
Tình phai nhạt tơ ánh trăng suông
Mười năm dâu bể lệ người tuôn
Tìm nhau sưởi ấm đêm lưu lạc
Trong vũng tang thương đắm đuối buồn
Thoai thoải đồi cao gió mướt nhung
Mười măm thuở trước viếng mê cung
Quê người gặp lại tang thương quá
Cỏ úa rêu phai cổng lạnh lùng .
huy lực
( Sđd - tr. 149- 152)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét