Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2014

'thơ trần vấn lệ biển trời chữ nghĩa, thơ sẽ muôn đời ở cạnh bên ta - một bài nhận định thật sâu sắc của nhà phê bình văn học nguyễn mạnh trinh (usa)



            "...thơ trần vấn lệ, biển trời chữ nghĩa ..."
                                   bài viết: nguyễn mạnh trinh


- '... nhưng hỏi hay không,thì,tôi cũng cảm được cái tha thiết của thi sĩ [Trần vấn Lệ]. Lúc nào buồn, tôi giở những trang thơ, đọc. Và,sẽ thấy bao la biết bao biển trời chữ nghĩa. Thi sĩ muôn đời ở cạnh bên ta, chứ không phải' khi vui thì đậu, khi buồn bay đi'.    NGUYỄN MẠNH TRINH


Có lẽ Trần vấn Lệ là một trong những người làm thơ, có sức sung mãn nhất trong hàng ngũ những người làm thơ-  tạo cho mình một sắc thái riêng biệt đã khó, mà, làm thơ đẻ khác với chính mình lại khó hơn-   nhất là ở trường hợp Trần vấn Lệ, đã in trên 10 tập thơ.

Đọc tất cả những tập thơ đã xuất bản của Trần vấn Lệ, tôi thấy được nội lực ấy. Có nhiều sự khắc biệt giữa tập thơ đầu và tập cuối, cả về ý tưởng lẫn ngôn ngữ, cả về hình thức lẫn nội dung.  Nhưng có điều chung nan là, những cảm nhận từ đời sống- có lúc thơ là lời tâm sự, nhưng có khi lại là những chất chứa nỗi niềm, những phân hận của một đời lưu lạc:  ít vui, nhiều buồn.  Thơ Trần vấn Lệ có cái tha thiết của một người coi thi ca là lẽ sống.  Đọc thơ ông, tôi [NMT] có cảm giác, thơ là cây gậy chống, để, sau cơn vấp ngã, gượng đứng dậy, và tiếp tục đi trên những đoạn dốc nhân sinh.

Tôi thấy được nhịp thở mạnh mẽ, dài hơi của thi ca ông , ngôn ngữ cư liên miên bất tuyệt nối tiếp nhau, như dòng nước cuồn cuộn chảy.  Thơ không phải chỉ đơn thuần gợi cảm giác, mà, có khi là những đoạn tản văn có ý hướng muốn kể chuyện, hoặc nêu một sự kiện [nào đó].  Với những câu 7, 8 chữ, ngôn ngữ đã được chọn lọc và xếp đặt , để,  có một âm điệu rất gần với nhạc điệu-  và,  có thể chuyên chở được ý tưởng.

Có lần, nhạc sĩ Song Ngọc phổ nhạc bài thơ 'Đi chùa Hương', thơ Trần vấn Lệ - [nhạc sĩ] đã thú thật với tôi  [NMT] là hoàn tất rất nhanh, vì nhạc sĩ đọc từng câu thơ, mà nốt nhạc hiện ra ngay trong đầu, bởi âm điệu thơ + nhạc [hòa quyện] như là một. 

Với tôi, [NMT] đọc thơ Trần vấn Lệ, tôi thấy được sự tha thiết trong ngôn ngữ. Có thể đó là những lời chân tình đối thoại với người , hoặc cho chính mình.  Nỗi niềm chất chứa từ cuộc sông, của những kỷ niệm buồn được cất giữ, nâng niu, và, của một khung trời quá khứ, lúc nào cũng canh cánh ở trong tâm.   Trần vấn Lệ nặng lòng với kỷ niệm, và những nơi, chốn, những thành phố đã ở, là những nỗi nhớ đã dằn vặt trong tâm-  nhất là với Đà lạt, thành phố sương mù,

" .. Qua cơn dâu biển, chúng ta còn lại gì ?  Những bài thơ lưu luyến?  Những tàn phai chia tay ?   Nhìn các em ngồi đó, một góc sâu trường xưa, thương quá thời nắng gió... nhớ quá chiều nắng mưa ở... Đà lạt, các em vẫn ở Đà lạt, còn thầy thì đã bỏ đi, Các em thì vẫn nhớ, như vầng trăng núi kia kìa! Thầy thì như sương khói loáng thoáng cuối chân mây, ngang chân mày đồng nội, cỏ úa, tàn hương bay... Qua một cơn dâu biển, mờ biển với dâu, nếu có gì ẩn hiện, chẳng là cái gì của nhau. Cuối câu thơ phải chấm một dấu than nghẹn ngào, là, em ơi buồn lắm, bây giờ và muôn sau !  Những bài thơ lưu luyến, đọc chới rồi quên thôi.  Chúng ta [không chỉ] về sông biển [thôi] đâu, [chúng ta còn] về Đà lạt, nơi em ở, xanh biếc nhớ bầu trời ngước lên nỗi nhớ. Thầy là áng mây trôi. Những con đường thăm thẳm, xé rách từng trang thơ.  Những tình sâu nghĩa nặng lắng xuống giùm một giọt mưa ..."     TRẦN VẤN LỆ

Những bài thơ như thế trong thơ Trần vấn Lệ-  có thể là những âm ngũ ngôn, không xuống hàng, hay 7, 8 chữ, một câu dài liên tiếp như một đoạn thơ, cái âm điệu ấy cứ nối lấy nhau, tạo một cảm giác rung động, trầm buồn, nhưng không đơn điệu.   Có điều,  nếu đọc nhiều bài, [đôi khi] có sự trùng ý, hoặc trùng lời, thì, điều đó cũng khó tránh-  với một người làm thơ nhiều -  và, có vẻ dễ dàng như tác giả, " Con trao tráo bờ ao bay đi buồn ' - chẳng lẽ ' chữ gì mang không nổi chữ gì gió thổi không bay "... Như một cách thế sống :  bài thơ cuộc đời -  thơ Trân vấn Lệ hình như quấn quít bên nhau, không một giây phút chia lìa,  

" Tôi xem chữ nghĩa như con cái , có đứa buồn hiu, có đứa vui, quanh quẩn bên tôi chiều vơi sớm, líu lo, như thể lũ chim trời.  Tôi xem chữ nghĩa như cơm cháo, khi đói thì ăn,  no để dành, dư , ném cho chim, nhìn chúng hót, thấy đời hẹp bớt chút mông mênh.  Tôi xem chữ nghĩa như bè bạn, kết thả trôi sông, chở cả trời, nếu có lúc bơi giòng nước ngược, buồn buồn nhớ lại lúc miền xuôi.  Tôi xem chữ nghĩa như chăn gối, khi lạnh thì ôm, nóng bỏ ra, nhưng, chẳng lúc nào không ở cạnh, trải nằm thương mãi chữ 'Chan Hòa'!.  Chữ nghĩa tôi nặng cái tình, như là khi thấy lệ long lanh giọt sương trên lá khi chiều xuống.  Nhớ quá Quê Hương, khóc đoạn đành .  Chữ nghĩa theo tôi thời thơ ấu, chữ a, chữ ă, chữ o, ô... chữ nào cũng ngồ ngộ như ông Phật, đưa một bàn tay chỉ học trò.   Chữ nghĩa và tôi đến xứ người, ngậm ngùi, tan nát, giống như tôi ...   sót vài ba chữ ngồi hiên quán, gặp bạn nâng ly, một tiếng cười .  Chữ nghĩa Tôi sẽ xuống mồ nay mai, có mọc sắc xanh lơ, ai đi ngang để cành hoa xuống là cho đời một chút thơm ..."     TRẦN VẤN LỆ

Đọc xong những tập thơ [Trần vấn Lệ], tôi cứ ngờ ngợ, về cái phân định giữ thơ và tản văn.  Có biên giới hay không trong thơ Trần vấn Lệ.  Tôi tự hỏi: Những câu thơ 7, 8 chữ, nối liền với nhau, không xuống hàng, với những câu thơ, mỗi hàng, mỗi câu, có gì khác nhau. [Liệu] có làm thay đỗi 'ngữ nghĩa', cũng như 'vần điệu' không ? Nhưng hỏi hay không,  thì,  tôi cũng vẫn cảm được cái tha thiết của người thi sĩ.   Lúc nào buồn, tôi giở những trang thơ, đọc. Và, sẽ thấy bao la biết bao biển trời chữ nghĩa. Thơ sẽ muôn đời ở cạnh bên ta, chứ không phải 'khi vui thì đậu khi buồn bay đi'. []

     nguyễn mạnh trinh
                   (USA)

        < tựa gốc bài viết:  ' Đọc thơ Trần vấn Lệ >.


-----
 * Nguyễn mạnh Trinh là tên thật,sinh 1949 tại Hà nội.Di cư vào Nam,theo gia đình từ 1954. Động viên vào Trường Võ bị Thủ đức,sau,được chuyển sang Không quân QLVNCH.(ngành Không phi hành,đơn vị công tác sau cùng ở Sư đoàn 6 Không quân/ Pleiku).Sang Hoa kỳ, bắt đầu viết văn,làm thơ,viết chân dung văn học,điểm sách.  Năm 1985 xuất bản thi phẩm đầu tay 'Thơ Nguyễn mạnh Trinh'(Người Việt xuất bản,USA 1985) - 'Tuyển tập người viết sau 1975' - biên tập cùng Trịnh Y Thư, xuất bản ở Hoa Kỳ, 1989)- " Tạp ghi " v.v... Là một cây bút phê  bình văn học tầm cỡ hiện nay, trả lời phỏng vấn đài Á châu Tự do, "...thật ra tôi là người yêu thơ,và yêu mến sách vở. Vì yêu thơ, thành ra tôi mới làm một nhịp cầu giữa độc giả và người sáng tác." 
  []  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét