Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2014

nhà văn nam cao qua đường số 4:" run sợ, vẫn xung phong đi hàng đầu/ bài viết: nguyễn đăng mạnh..

hồi ký nguyễn đăng mạnh-
phổ biến hẹp- hànội 2008

                        nhà văn nam cao, qua đường số 4:
                        ' run sợ, vẫn xung phong đi hàng đầu' 
                         nguyễn đăng mạnh


- Nam Cao có đủ tật xấu trên đời, nhưng, giàu lòng thương người, và, rất ngây ...  - Tô Hoài phán.

 - cô gái làng chơi nhường phòng- cả 2 vội leo lên, cởi quần áo - bỗng nhiên, cô gái nhảy phóc lên, len vào  : " hãy cho em nằm giữa nào"- thế rổi, Tô Hoài bị ả cắn vào ...
  
- Nam Cao được lệnh vượt trên đường số 4 :  "  run sợ, vẫn xung phong đi hàng đầu"-  đây là hành động rất ...

-... ý nghĩa tư tưởng truyện Nam Cao là thế đấy: dạy cho người ta biết xấu hổ, hay nói cách khác : muốn lay tình ở con người ý thức về nhân phẩm , nhấn ... 

- "... tao đéo phục Goócki"- Nam Cao phán-  khi nhìn thấy Như Phong rút súng lục, gí vào cổ một người ...

- Nam Cao có một TẬP NHẬT KÝ- Tô Hoài trao cho HMĐ giữ. Đã khai thác 1 phần trong NAM CAO: NHÀ VĂN HIỆN THỨC SÂU SẮC- rồi ôm khư khư như ' bảo vật gia đình'.  Hành động này có được coi là phi pháp?! 

------

Năm 1963, tôi có về làng Đại hoàng, quê Nam Cao, cùng với Nguyễn hoành Khung.  Lúc ấy, ông bà thân sinh Nam Cao hãy còn sống.  Tôi đã được uống rượu với cụ ông, được ăn cam làng Đại hoàng.  Tôi còn được gặp cô Hồng, con gái Nam Cao- và, một ông em của Nam Cao, một nông dân tên Đạt.

Tôi về làng Đại hoàng, để tìm hiểu nguyên mẫu nhân vật [trong] tác phẩm Nam Cao, vì, biết ông hay dùng nguyên mẫu.  Hồi ấy, tôi có hướng dẫn một sinh viên, Bạch văn Hợp, làm luận văn sau đại học (sau này là luận văn thác sĩ) - đề tại: "Từ nguyên mẫu nhân vật truyện Nam Cao."

Chí Phèo không phải là người cùng thời với Nam Cao.  Đó là một nhân vật truyền thuyết của làng [Đại hoàng].  Ngày xưa, có một anh Chí Phèo, làm nghề mổ lợn giỏ bắt phèo, nên người ta gọi là Chí Phèo.  Anh ta thường uống rượu say đi trên đường làng, chửi bới lung tung, trẻ con chạy theo hàng đàn.  Chí Phèo không đâm chém ai cả- còn Bá Kiến, thì có nguyên mẫu là Bá Bình, gần như Bá Kiến, bóc lột dân, dâm ô, cướp vợ bố, còn ngủ với cả con dâu-  [lại có những] 4 vợ.  Tôi có ghi lại mấy cậu vè về Bá Bình của dân làng Đại hoàng: (dân làng này hay làm vè, Nam Cao gọi là 'trần ngôn')

                                     Năm Sang nhất tổng Cao Đà
                                     Có thằng Bá Nghi tên là sọc nhăng
                                     Ông mà lại háo ra thằng
                                     Khôn ngoan nhất mực, nòi năng ai tày.
                                     Bốn đời lý trưởng trong tay
                                     Bao chiếm điền thổ xưa nay đã nhiều
                                     Thuế tháng, năm; nhà nghèo đã khổ
                                     Mày lại còn lạm bổ, lạm thu
                                     Mang về xây dựng cơ đồ
                                     Lắng tai, ta sẽ báo cho, ân cần.
                                                    (THEO LỜI KỂ TRẦN DOÃN CHẤN)

Nghe nói, bà vợ Bá Bính, bị ta [Việt Minh] thủ tiêu, vì, hay ra vào đồn gác, người ta cho là việt gian.  Còn vợ 4 của Bá Bính, thì, chúng tôi về làng Đại hoàng, vẫn còn sống.

Chí Phèo và Bá Bính chẳng liên quan gì đến nhau cả.  Bá Bính chẳng bị ai đâm chém, còn sống mãi [tới] sau cách mạng tháng 8- và, có chân trong Hội Liên Việt.

Như vậy, truyện Chí Phèo [được] hư cấu nhiều, nhất là nhân vật Chí Phèo.   Nam Cao đã bịa ra vụ án mạng Chí Phèo giết Bá Kiến, và, tự sát.  [Tác giả] đã tạo ra mồi tình độc đáo.   Những truyện Nam Cao đã trở thành sự thật, đối với thế hệ trẻ của làng Đại hoàng.  Tôi có đến xem bài viết về lịch sử làng Đại hoàng, được trình bày trên 1 tờ giấy lớn, ở trụ sở ủy ban xã- do 1 học sinh lớp 7 soạn.  Cậu ta ghi luôn nhân vật truyện của Nam Cao vào lịch sử: " Xưa có một địa chủ cường hào, tên là Bá Kiến...".

Trong truyện Chí Phèo, Nam Cao nói làng Vũ Đại, lắm bè phái, do kiểu đất' Quần ngư tranh thực'- điều này có thật. Người làng còn nhớ  5 cánh:

                                  1- cánh Bá Bính (tên thật: Trần duy Bính)
                                  2- cánh nhất Hợp
                                  3- cánh bát Ngọ (tên thật Trần thế Ngọ- còn có một người thật,                                          thuộc cánh này, tên Năm Ngọ)
                                  4-  cánh Lý Bật
                                  5- cánh Bát Tụ.

Còn Thị Nở, có người nói: có, có người nói: không. Cô Hồng, con gái Nam Cao dứt khoát" ông ấy bịa". 

Hôm ấy, tôi thử hỏi một ông người làng, gặp giữa đường, có biết Nam Cao là ai
 không ?  Ông ta nói: " Biết chứ, Nam Cao là một cán bộ trung ương".  Nghĩa là, [Nam Cao] là một ông quan cách mạng to.  Ông nông dân này nghĩ thế, chắc vì, thấy nhiều người về thăm- trong đó, có cả ông tây, bà đầm ,đi xe tu-bin[ô-tô].  Mới biết, người dân việt chỉ trọng quan lại, chứ nhà văn ' thì là cái quái gì'. Ngay ở nhà Nam Cao, tôi thấy có mấy bức ảnh Nam Cao chụp với gia đình, bị để mốc, hoen ố hết. 'Những di vật ấy có giá trị gì mà phải giữ' ?!

 Xem cảnh làng Đại hoàng, thì, thấy như cảnh làng Vũ đại trong truyện của Nam Cao. Đại hoàng nhất thôn, nhất xã (xã chỉ có 1 thôn).  Đất vườn nhiều hơn ruộng lúa.  Lúa của làng chỉ đủ nấu cháo hồ vải.  Đàn ông không biết đi cày, đàn bà không biết đi cấy. .  Dân làng làm vườn là chính, (gọi là 'bòn vườn') trồng cam, trồng chuối, trồng dâu :

                                     Cây trồng cau chuối rườm rà
                                     Cam cam, bưởi bưởi, na na * hồng hồng (...)
                                     Đất thơm là đất trồng trầu
                                     Bãi bồi là đất trồng dâu cứu bần ...
-----
*  namãng cầu xiêm, [phương ngữ Nam bộ- BT)

[Làng] Đại hoàng có nghề dệt vải.  Vào làng, nghe ran ran tiếng lách cách dệt cửi.  Truyện của Nam Cao cũng thường nói đến nghề dật, thợ dệt. (Dì Hảo, Một bữa no ...) 

                                      Người nhiều khôn khéo cũng nhiều
                                      Dệt thoi, thoi múa, thi diều, diều lên
                                              (CÂU VÈ LÀNG ĐẠI HOÀNG)

làng Đại hoàng cũng như làng Vũ đại, nằm bên bờ 1 con sông, gọi là sông Châu giang.
(Gió sông thổi lên vườn chuối nhà Chí Phèo- Thị Nở gọi là 'mát như quạt hầu'.)  

Tìm hiểu [về] Nam Cao nhất thiết phải gặp Tô Hoài.  Ông ta là một nhà văn hiếm hoi, gần gũi, lại am hiểu Nam Cao rất sâu. (Tô Hoài có một bà dì tên là Phượng- nguyên mẫu nhâ vật Oanh trong 'Sống mòn'/ Nam Cao -lấy chồng làng Đại hoàng.( ông giáo Bảo là nguyên mẫu của nhân vật Đích trong' Sống mòn'.)  Bà Phượng phụ trách trường tiểu học tư thục Công Thành ở Bưởi. Nam Cao dạy học ở đó.  Bà Phượng giới thiệu Nam Cao dạy tiếng pháp cho Tô Hoài.  Nam Cao ở nhà Tô Hoài, cùng ngủ chung 1 giường, cùng đắp chung 1 cái chăn. [Hồi đó] Tô Hoài chưa vợ, [còn] Nam Cao có vợ rồi, vợ lại ở quê.  Đêm đêm họ tâm sự với nhau đù chuyện.

Theo Tô Hoài, Nam Cao cũng có đủ tật xấu trên đời- nhưng giàu lòng thương người và cả tin.  Có 1 lần 2 người đi chơi gái, họ tỉm đến một nhà trọ.  Phòng hết, có một cô gái  điếm nhường cho họ phòng ngủ.  Nhưng, khi họ vào ngủ, thì, cô gái kia vào nằm chen ngay vào giữa- ả vẫn sờ soạng và cắn tai Tô Hoài. 

[Còn] Nam Cao có một điều đặc biệt: hay xấu hổ về những thói xấu của mình- về những [thói] thường phàm tục.

[Có thể] chỗ hơn [người] chính là điều này. Tô Hoài kể cho tôi nghe chuyện này- tôi cho là rất có ý nghĩa. [Ấy là], trước 1950, biên giới phía bắc nước ta bị Pháp chiếm giữ.  Con đường số 4 từ Cao bằng đi Lạng sơn, Tây kiểm soát. Rất nhiều đồn, bốt ở dọc đường, thường cho xe cơ giới có vũ khí đi lại để rà soát, kể cả có lính phục kích ở lối tắt qua đường.  Vì thế, cán bộ ta đi công tác qua đường số 4 rất nguy hiểm. Những đoàn cán bộ muốn qua con đường này phải tập trung ở một khu rừng gần đó (Thất Khê), chờ 1 trinh sát viên đi thăm dò, nếu không có phục kích, anh ta về báo,  thì đoàn mới được lệnh vượt nhanh đi qua đường. Tô Hoài kể, khi có lệnh xuất phát, tâm lý chung mọi người , là không ai muốn đi đầu.  Vì, đã chắc gì không có phục kích.  Trinh sát làm sao nắm chắc được tình hình 100%!  Nếu có phục kích, thì anh đi đầu hẳn là toi [mạng.]

Một lần Tô Hoài và Nam Cao phải đi công tác qua đường số 4, Nam Cao cũng nhát như ai. Khi có lệnh vượt đường, Tô Hoài để ý thấy Nam Cao mặt tái, người run- nhưng [nhà văn]  nhất quyết đi hàng đầu. Vừa run vừa đi đầu...

  Tôi kết luận : Nam Cao bề ngoài  lạnh lùng, ít nói, nhưng bên trong, thì sôi sục - luôn đấu tranh tư tưởng tử đệ tự vượt bản thân.  Xét ra, ý nghĩa, tư tưởng truyện của Nam Cao là thế : dạy cho người ta biết xấu hổ, hay nói cách khác- muốn lay tình ở con người ý thức về nhân phẩm, nhân tính. Không phải chỉ nhân vật trí thức, ngay thằng Chí Phèo cũng đấu tranh tư tưởng, để trụ lại làm người lương thiện.  Chí Phèo chết như một người khao khát trở lại làm người.

Nguyên Hồng và Kim Lân đều rất phục Nam Cao.   Lần đầu tiên, Kim lân gặp Nam Cao ở nhà Nguyễn huy Tưởng. Kim Lân nhận thấy Nam Cao rất khiêm tốn, tự [nhận] mình tầm thường, [nhưng] lắm mặc cảm.  Có vẻ lạnh nhạt.  Không thích vồ vập ai. 

Đến thời kháng chiến chống Pháp, thì có một thời gian họ ở với nhau, Nam Cao tỏ ra kính trọng mọi người, phục mọi người, chỉ thấy mình là xoàng.   Nhưng có1 lần,  uống rượu [ăn] thịt trâu chế- [bỗng] Kim Lân bốc lên , hát tuồng.  [Thấy vậy] Như Phong bèn rút súng lục, gí vào cổ một anh, còn Nam Cao thì lớn tiếng: " Tao đéo phục thằng Goócki". 

 Té ra, con người này cũng không hẳn chỉ có khiêm tốn đâu? Nam Cao chỉ phục Sêkhốp, còn Goócki ồn ào quá. 

Bản thân Nam Cao rất sạch sẽ, [có một điều lạ, là]  không quí bản thảo của mình.  Bản thảo Sống mòn, nhờ có Nguyên Hồng giữ mới còn- giữ trong suốt cuộc kháng chiến cho tới khi hào bình [được] lập lại, mới tráo lẠi cho Hội Văn nghệ.  Tên truyện vốn là Chết mòn, khi  in, Xuân Diệu đề nghị sửa là Sống mòn

Nam Cao nhát. Rất sợ máy bay.  Kim Lân cho biết thế. Một lần, có mấy ông chạy vội xuống hầm,. chui chui, nấp nấp, rất tội. Thế mà ông [Nam Cao] đã bị giặc bắt và đem ra bắn.

Hồi ấy, Nam Cao vào Thanh hóa dự một hội nghị về văn nghệ.  Hội nghị kết thúc, đáng lẽ [Nam Cao] trở lại Việt bắc, đi theo đường số 6.  Nhưng, [nhà văn] lại muốn đi vào vùng địch, để tạt về làng mình, nghe nói, đã thành làng du kích, Nam Cao có nguyện vọng viết về làng Vũ đại đứng lên đánh giặc.  Đã viết được mấy chục trang, tự thấy không ra gì, nên vất đi.  Nam Cao cho là : vì thiếu thực tế, nên nhân dịp này về làng để tìm thực tế.  Ông đi theo một đoàn cán bộ tuyên truyền thuế nông nghiệp, đóng vai một ý tá hay cán bộ Bình dân học vụ gì đó. Họ đi [bằng] 7 cái thuyền nan , vì lúc đó,  vùng chiêm trũng Ninh bình, Hà nam, nước trắng băng.  Nam cao cùng mấy cán bộ lãnh đạo ngồi trên chiếc thuyền đầu.  Vừa ghé đến làng Vũ đại, thì sa lưới bọn Commando.  Đoàn đã được thông báo: đêm ấy chúng đã rút đi rồi, háo ra, chỉ có một toán đóng ở lại.  Thật không may cho Nam Cao!

 Không biết, lúc [tác giả] viết Chí Phèo, Chết mòn (Sống mòn), Nam Cao đã tới, hay được nghe nói có một cái làng tên là Vũ đại hay chưa.  Làng này thuộc tỉnh Ninh bình, giáp với Hà nam, kề ngay đường số 1 (nay, thuộc xã Gia xuân, huyện Gia viễn).   Chẳng lẽ lại có một sự trùng hợp ngẫu nhiên một cách kì lạ-  thế sao giữ cái tên làng có thật- cũng không xa làng Đại hoàng bao nhiêu. ...  Một sự kì lạ nữa , Nam Cao  lại bị bắt ở đúng cái làng mang cái tên ấy- và, bị bắn chết ở đó.  Mà ,sao Nam Cao lại đi trên cái thuyền đầu/  Các thuyền sau đều chạy thoát cả, số mệnh xui nên thế [chăng?]- hay là- do cái tính cách:' vừa run vừa đi đầu'- như cái hồi vượt đường số 4 cùng Tô Hoài, năm nào?

Mà lẽ ra, Nam Cao có thể chưa bị thủ tiêu- nếu đêm ấy - không có chuyện 1 người trong đoàn bị bắt bỏ trốn, mà không thoát.  Bắt được mấy cán bộ Việt minh ở làng Vũ đại, bọn Commando đưa tất cả qua đường số 1 sang giam ở nhà thờ Mưỡu Giáp , cách làng chừng vai trăm mét.  Do cuộc trốn chạy thất bại kia- nên ,chúng đem tất cả ra xử bắn ngay tại cánh đồng Mữơu Giáp, trước nhà thờ.  Đó là vào một đêm tháng 11- 1951, Nam Cao mới 36 tuổi.

Như đã nói, Nam Cao viết truyện hay dùng nguyên mẫu.  Hầu như toàn bộ nhân vật trong Sống mòn, đều có nguyên mẫu cả. Và, hầu hết la người làng Đại hoàng- nhân vật Oanh- nguyên mẫu là Phượng, một bà dì của Tô Hoài.  Chồng của Oanh là Địch, nguyên mẫu Địch là giáo Bao, người làng Đại hoàng; San, nguyên mẫu là Trấn đức Phát- hồi Pháp thuộc, từng đăng lính sang tây. Sau 1945 xung phong theo đoàn quân Nam tiến.  Năm 1954, tập kết ra bắc, đóng lon trung tá, có thời gian phụ trách điện ảnh quân đội.  Mô (anh lao công đánh công trường) - nguyên mẫu là Trần văn Đa- sau cách mạng xung phong đi phát triển kinh tế miền núi ở Phú thọ.   Bá Kiến, nguyên mẫu là Trần duy Bình. Liên, vợ giáo Thu- nguyên mẫu là Trần thị Sen, vợ Nam Cao.  Còn giáo Thứ, nguyên mẫu là tác giả- Trần hữu Trí bút danh Nam Cao. 

Sách viết xong 1944, nhưng mãi tới 1956 mới xuất bản được.

Trong 1 bài viết về Nam Cao, Nguyễn đình Thi cho rằng:  do tác giả phê phán hiện thực như thế nào đấy- nên kiểm duyệt thời Pháp không cho xuất bản.  Thực ra, không phải vậy.  Có 2 lý do: 

1-  : vào khoảng 1940-1945, do chiến tranh, giấy khan hiếm. Cuốn tiểu tuyết Nam Cao lại khá dầy, mà tác giả chưa phải là 1 tác giả tên tuổi, ăn khách.  In ra, nhà xuất bản sợ bán không được. 

 2- : tác phẩm viết quá sát sự thực, toàn là những người quen biết trong làng tác giả.  Vì thế, sách in ra cũng ngại. [Tác giả] nói với Tô Hoài, đại ý:  phải đợi cho các nguyên mẫu kia'tịch' hết rồi, mới in được.

 Năm 1956, khi sách được xuất bản, hầy hết các nguyên mẫu, nếu còn sống cả - chỉ duy có nguyên mẫu của nhân vật giáo Thu, tức Nam Cao, thì không còn nữa.

Nam Cao có một tập nhật ký, Tô Hoài giao cho HMĐ [Hà minh Đức]- trong cuốn sách HMĐ viết về Nam Cao, in 1960, 1961 gì đó. (Nam Cao: nhà văn hiện thực xuất sắc), [HMĐ] có trích vài đoạn trong cuốn nhật ký kia. 

Cuốn nhật ký ấy, nay ở đâu? chắc vẫn trong tay HMĐ-  có của qúy, cứ giữ độc quyền, mà không biết dùng, thật phí!  Giống như có gươm báu mà không biết dùng.  Giữ làm gì?

        LÁNG HẠ, THÁNG 11- 2007
   nguyễn đăng mạnh

                                         (Sđd: tr. 225- 229-  tựa bài tác giả: Nam Cao)

                      

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét