Thứ Hai, 29 tháng 7, 2013
thơ móc họng của nguyễn khôi ' phê bình thái giám '
thơ móc họng của nguyễn khôi :
phê bình thái giám
TẶNG GIÁO SƯ TRẦN ĐÌNH SỬ
Xưa , là lối phê bình thái gíam
- mổ xẻ thơ văn tìm những khối u
lề Trái kia dẫn đến lao tù
Ngục văn tự nghìn năm kinh khủng
bởi công tâm giết hại cả công thần
- thiên tài là nói lọt lỗ tai thủ trưởng!
Tha hồ chụp mũ
đối thoại cóc cần
mấy ngài thái giám đã về hưu
pha thuốc sâu và gà sống thiến sót *
xưa quá rồi chớ diễn nữa
Thank you !
------
* câu nói dân gian về PTs & Gs Ts rởm.
HÀNỘI 28- 7- 2013
nguyễn khôi
Thứ Năm, 25 tháng 7, 2013
thi nhân- thi ca & cảm nhận : thế phong / lê ngọc trác 12
thế phong: mênh mông một hồn thơ phóng đạt
bài viết : lê ngọc trác
Không biết phải gọi Thế Phong với danh vị nào ? Nhà thơ, nhà văn, nhà biên luận, nhà báo , dịch giả ... Ở vị trí , công việc nào, Thế Phong cũng thành công và khẳng định vị trí của mình, sau khi tác phẩm của ông đến với người đọc.
Thế Phong tên thật là Đỗ mạnh Tường, sinh năm 1932 tại Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái. Thế Phong sinh sống bằng nhiều nghề: làm nông, phóng viên, dạy học, đi lính... Dấu giày của [ ông ] đã đi qua nhiều miền trên đất nước. Hiện nay ông thường trí tài Sài Gòn. Cuộc đời của Thế Phong gắn bó , sống hết mình với văn học. ( ông còn ký các bút danh: Tương Huyền, Đường bá Bổn, Đinh bạch Dân ) .
Xuất hiện lấn đầu tiên trên văn đàn với truyện ngắn Đời học sinh [ đăng trên ] nhật báo Tia sáng vào 1952. Đến hôm nay ( 2009) , Thế Phong đã xuất bản trên 50 tác phẩm, bao gồm các thể loại : thơ, truyện, khảo luận, dịch thuật.
Tác phẩm Thế Phong còn được các dịch giả * tên tuổi chuyển ngữ sang tiếng anh , tiếng pháp xuất bản ở nước ngoài đến hơn 11 đầu sách, gồm : tự truyện, thơ, phê bình văn học... Chúng ta nhận thấy gia tài văn chương Thế Phong thật đồ sộ. Và, cảm phục sự chuyên cần trong sàng tạo nghệ thuật của ông, chắc chắn sẽ không dừng lại ở con số 50, tác phẩm Thế Phong hẳn sẽ còn thêm nữa.
------
* Đàm xuân Cận chuyển ngữ tiếng anh - Cao Giao và Lê [ văn] Hảo sang pháp ngữ. (BT).
Nửa đường đi xuống ( tự truyện ), Nhà văn tác phẩm cuộc đời (tự truyện ), Lược sử văn nghệ Viêtnam
( khảo luận, 4 tập) , Tổng luận 60 năm văn nghệ Viêtnam ( khảo luận), [ Friedrich ] Nietzsche & chủ nghĩa đi lên con người ... là những tác phẩm của Thế Phong đã để lại dấu ấn trong lòng người đọc.
Riêng lĩnh vực thơ, Thế Phong đã xuất bản: Nếu anh có em là vợ ( 1959), Sai biệt ( 1960), Cho thuê bản thân ( 1962), Trước mắt nhìn thi sĩ ( 1963), Đàn bà & Tổ quốc ( 1964), Thơ làm lớn dậy con người ( 1965), Viêtnam vùng trời lửa đạn ( 1966), NamViêtnam, đứa trẻ thơ của vú em Huê Kỳ ( 1968 )...
Qua toàn bộ thi phẩm Thế Phong, chúng ta cảm nhận tâm hồn ông thật phóng đạt. Rung động thật sự tự đáy lòng, thể hiện với một bút pháp mới lạ : mở và thoáng . Có lẽ, bài thơ Thế Phong viết về nơi ông chào đời, lớn lên, về mối tình đầu và cả những đắng cay, hệ lụy là cả một bức tranh sinh động, thu hút người đọc ngay từ những dòng thơ đầu tiên:
... Tôi lớn dậy mang đầy mù sương Việt Bắc
quê hương tôi cây đứng thẳng nhiều hơn rừng chông
người tình đầu tiên bỏ tôi vào điểm giờ cách mạng 1945
núi rừng ơi !
nhớ mãi cũng bằng không
những cái mấp mô
gồ ghề
hình ảnh cuộc đời
không mềm như thạch trắng
mà người tôi yêu thích được nuông chiều
đu đẩy nhu tình yêu đu võng
người bỏ tôi rồi
nên côi cút
thiếu thốn hoài ở tuổi ba mươi hai
tâm hồn tôi phức tạp
nhiều đa mang
nên nhiều buồn thảm
trăm nghìn bài thơ yêu
chẳng nói lên một ảnh hình
một góc cạnh tình yêu
tâm hồn tôi đa sầu
vì lần đầu tiên
theo người yêu ra nghĩa trang biết khóc
mồ mả kẻ nào đây
mà thương vay
tôi cắm một bông hoa
với mẹ cha bỏ cuộc đời
giã từ hôm qua
xa xôi quá
một tiếng khóc, một bông hoa không có
Nhà tôi
nằm trên đỉnh ngọn núi cao vời vợi
chiều chiều mặt trời làm bạn thuở ấu thơ
áo chàm xanh Nghĩa Lộ
dân bản thổ Sơn La
con gái áo' kỏm' bỏ ra
bức tranh khỏa thân
trong suốt dòng nước suối
tâm hồn lớn dậy trong tình yêu
bắt đầu nờ sớm nhiều hơn từ độ ấy ...
TRÍCH TRONG TẬP THƠ LÀM LỚN DẬY CON NGƯỜI , 1965
Thế Phong còn là một người phản kháng, ông chống lại những hiện tượng xu phụ. Đối với lĩnh vực sáng tạo trong chương, theo Thế Phong :
' Bổn phận của người sau là phải tổng hợp cái dữ kiện hôm qua cùng cái hôm nay, tạo cho ngày mai và sự diễn tiến nhân sinh cứ luân chuyển mãi như vậy ...'
Chính vì có tư tưởng như thế, nên Thế Phong đã nặng lời phê bình cái kiểu bái đầu, tung hô thần tượng một cách a-dua , thái quá . Bài thơ Cho thuê bản thân của Thế Phong là một dẫn chứng về tinh thần phản kháng :
Thắt nút cà-vạt cổ cồn không thấy ghét bám phía sau
lên giọng thầy giảng văn chương khỏi mang tiếng học trò
mang sự lúng túng đền bù thuốc lá châm liên miên
chưa nghiện thuốc nặng sao phà hơi qua lỗ mũi
bảo đảm vợ con trưa chiều áo cơm lên giọng
gõ mặt bàn tiếng văn chương Nguyễn Du
ba trăm năm chưa hết - còn ai khóc Tố Như ?
có chăng phường bất tài ám ảnh mượn danh tràn
thi nhân ngày xưa hẳn mặc toàn áo gấm ?
túi đầy tiền rủng rỉnh tay nào với tha nhân ?
tôi không còn hứng, cảm thông Kim vân Kiều
tôi nhổ bọt vào mặt tôi chót khen thi hào
lời khen tặng mười năm ròng không đổi mới
ba ngàn câu thơ chưa làm tôi xúc động
họa chăng đôi ba câu tả thật đời lãng mạn
dăm ba điều kinh nghiệm của lần trao ái tình
một vài cảnh đẹp nước chảy qua cầu tiết Thanh minh
mua gương Từ Hải vì ai má lơ láo triều đình ?
...
Tôi khinh tôi ra mặt cứ khen tràn cổ nhân
tôi phỉ nhổ mặt tôi thực sự phê bình Kiều danh tiếng
văn học sử này tôi sổ toẹt thi hào vỏ
đại diện một góc cạnh cỏn con nhìn đời nho nhỏ
cả tên làm thơ quan lại nịnh bợ danh tướng công*
mong danh tiếng mình mãi gắn bó cùng non sông
ca tụng cái đẹp vẻ hay nhà trường, đổi đồng tiền.
Tôi hy vọng học trò không bằng lòng lời khen giảng
áo cồn thôi vòng cổ, tôi đấm bóng tôi, gương soi
cho thuê Nguyễn Du thật cần thiết không đòi bồi thường !
----
* ám chỉ tác giả 2 câu thơ :
' Giang sơn một gánh giữa đồng / Thuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ chăng ?
( TP CHÚ THÍCH SAU, 2013 )
TRÍCH TRONG TẬP THƠ CHO THUÊ BẢN THÂN , 1962.
Bài thơ Vương miện cuộc đời , Thế Phong viết cách đây gần 50 năm, hôm nay đọc lại vẫn còn nguyên tính thời sự. Chúng ta thấy đau nhói trong lòng. Xã hội ngày xưa - xã hội hôm nay vẫn còn nhiều cảnh đời đau khổ, bất công. Trong thơ Thế Phong, không chỉ có phẫn nộ . mà chúng ta còn bắt gặp ở Thế Phong một tâm hồn nhân hậu, đầy tự trọng :
Những đêm sao mọc bừng - đêm thứ bẩy
anh vào phố tìm mua áo bông màu
không sao có màu áo anh tìm
tím hoàng hôn tắt vội
đường chiều em về heo hút gió
đời chán quá anh tìm ăn trong quán
đời bơ vơ - ghế trống quá - hàng hai
đời lứa đôi thiên hạ chen đua
xương còn lại chất đầy trong bàn tiệc
kiếp ăn mày nạng chống gầy lũ lượt
tay loang lổ ghẻ Tàu, miệng run đôi môi
xin lại miếng ăn thừa chất đầy trong túi hẹp
nốc rượu vang thừa - cằn cốc đá nước tan
- đời còn nhiều hứa hẹn
gặm xương thừa, gầm cầu, lề phố vắng
Những đêm sao mọc bừng - đêm thứ bảy
anh thôi vào phố để không nhìn ăn mày
không sao có màu sáng anh tìm mua
vương miện đầy sương hoa
đợi chờ đến bao giờ
phủ lên đầu mọi người một sớm
đời chán quá !
Anh không đua Em vào phố
chúng mình bơ vơ - ghế trống quá - hàng hai
ăn mày nô lệ miếng ăn thừa
chúng mình cúi gằm ăn mà sao không ngẩng mặt ?
TRÍCH MUÔN HOA * TRONG TẬP VƯƠNG MIỆN MAI A , 1961 )
----
* bài thơ đăng lần đầu tiên vào 1957 trong tuyển tập Muôn Hoa -
sau đưa vào thi tập Vương miện Mai A ( Saigon , 1961 ).
( THẾ PHONG CHÚ THÍCH. 2013 )
Trong thi ca , Thế Phong tạo ra một con đường của riêng mình, không giống một ai. Từ 1959, nhà văn Thiên Giang * , một cây bút tên tuổi của miền Nam đã có những nhận định, đánh giá cao về Thế Phong;
' ... sư hiện diện của Thế Phong trong bình diện văn nghệ là kích động, thúc đẩy, tạo sự chuyển động cho cả guồng máy văn nghệ ...'
----
* trong nhóm Chân trời mới ở miền Nam 1945- 1950 : Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc. Riêng Thiên Giang còn viết chung một bộ sử với Nguyễn Hiến Lê ( BT)
và khi đọc thơ Thế Phong , học giả Hoàng xuân Việt đã cảm nhận : '... thơ Thế Phong mãnh liệt cảm xúc, đê mê trong nghệ thuật ...' []
( kỳ sau: THANH THẢO )
lê ngọc trác
tài liệu tham khảo & trích dẫn:
- thơ Thế Phong
- Nhà văn, tác phẩm, cuộc đời / Thế Phong ( Đại Ngã tái bản, Saigon 1970)
- Những nhà thơ hôm nay / Nguyễn đình Tuyến ( Saigon, 1967 )
- Chiêu niệm 4 nhà văn Sài Gòn / Thế Phong ( Nxb Đồng Nai, 1999 )
( trích THI NHÂN- THI CA & CẢM NHẬN / LÊ NGỌC TRÁC - Nxb Văn học, Hànội, 2013 - tr. 84- 91 )
Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013
phạ hay pha tiếng thái gọi trời trong bài thơ pha đin / quang dũng
pha hay phạ tiếng thái gọi trời
trong bài thơ pha đin / quang dũng
đường bá bổn
Khi đăng bài Pha Đin, thơ Quang Dũng trong tập Mây đầu ô , Trần lê Văn viết lời giới thiệu - tôi
( Đường bá Bổn ) có một chú thích dưới bài thơ ấy:
- PHẠ ( có dấu nặng ) tiếng thái là TRỜI , đin là đất. Phần đông văn thi sĩ gốc người Kinh đều gọi TRỜI là PHA ( không dấu nặng ). Ngay cả chàng viết tựa tập Mây đầu ô, thơ Quang Dũng - là Trần lê Văn - phu nhân là người thái - liệu có đồng tình PHA hay PHẠ mới đúng là TRỜI.
- một thi sĩ khác rất giỏi tiếng thái, từng dịch tiếng thái sang việt, đó là Nguyễn Khôi ( 1938- ) sinh ở Yên Bái, sống nhiều năm ở Mường La ( Sơn La ) , tôi cũng chưa thấy chàng xác nhận PHA hay PHẠ là TRỜI. *
- riêng tôi sống ở đất Thái ( Mường Lò/ Nghĩa Lộ / Yên Bái ) từ nhỏ tới năm 18 tuổi mới về Hànội học thì chưa lần nào nghe người thái gọi TRỜI là PHA cả.
-----
* nhân được mail phản hồi, thi sĩ Nguyễn Khôi cho biết : PHẠ tiếng thái đúng là TRỜI, nhưng đôi khi
' tiếng thái trong ăn nói đời thường cũng biến âm cho nó nhẹ - ví dụ : như xã ở chân đèo gọi là chiềng pha, khi kêu Trời thì Phà ơi ! - ' ... quả thật , tay này thâm sâu ngữ nghĩa tiếng thái - tôi cho POST lời dẫn về đèo Pha Đin để chúng ta đồng lãm.
ĐƯỜNG BÁ BỔN
SAIGON, JULY, 25, 2013.
đèo pha đin
bài: nguyễn khôi
Lời dẫn.-
Đèo Pha Đin là 1 trong tứ đại đèo nổi tiếng ở Tây Bắc , bênh cạnh đèo Ô Quy Hồ, đèo Khau Phạ, và Mã Pí Lèng, hoặc xáp vào nhóm 6 con đèo gây ấn tượng nhất Việtnam, gồm: Khau Phạ, Hồng Thu Mái,
( QL 4 thuộc Pa So, Phong Thổ ) Ô Quý Hồ, Hải Vân và đèo Hòn Giao ( Khành Hòa ).
Pha Đin nguyên gốc tiếng thái: Phạ là Trời, đin là đất., nhưng, tiếng thái trong ăn nói đời thường cũng biến âm cho nó nhẹ, nghe êm tai, ngọt ngào, dễ chịu - xã ở chân đèo gọi là chiềng pha , khi kêu Trời thì Phà ơi ! Đi từ thành phố Sơn La lên Điện Biên trên QL 6 ( Thuận Châu- Tuần Giao) ở cây số 360 - 392, đèo dài 32 ki-lô-mét, điểm cao nhất 1648, nơi cột truyền hình nặng 70 tấn, chịu sức gió 200 km / giờ, độ dốc 10% - 19 %.
Ở chiến dịch Điện Biên ( đông xuân 1952- 53) ở đoạn đường đèo Pha Đin, ta có 8000 TNXP quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, suốt 48 ngày đêm, máy bay giặc Pháp dội bom hòng chặn đường tiến quân ta. Từ 2006 - 2007, qua QL6, đã có đường tránh thấp hơn đường qua đỉnh đèo, từ 200 - 400 mét, xe cộ qua lại dễ dàng hơn.
Đèo Pha Đin có thể coi là thắng cảnh của Sơn La - Tây Bắc, nắng gió, sương mù mây ngợp huyền ảo luôn mát lạnh, thanh sạch như một cõi thần tiên khi ta lên tới đỉnh.
Nguyễn Khôi ở Sơn La 21 năm, đã nhiều lần qua đèo Pha Đin, nối gót các nhà thơ Tố Hữu, Quang Dũng , Vương Trọng [ từng có thơ về đèo PHA ĐIN - bây giờ tời tôi, qua ] một bài tứ tuyệt :
ĐÈO PHA ĐIN
Nơi Trời ghé xuống hôn mặt Đất
Nối vòng lên ôm ấp mây trời
Cứ như thế ta bay vào bát ngát
Giữa đất trời hạnh phúc sóng đôi
NGUYỄN KHÔI *
----
* đã in trong ' Nghìn câu thơ tài hoa / Nguyễn vũ Tiềm sưu soạn - Nxb Văn học, 2007) .
nguyễn khôi
HÀNỘI 20 - 7 - 2013
Thứ Ba, 23 tháng 7, 2013
nhớ nơi kỳ ngộ / lãng nhân - 8
nhớ nơi kỳ ngộ *: nguyễn triệu luật , vũ trọng phụng
vũ ngọc phan , dương tấn tươi, đàm quang thiện
bài viết : lãng nhân
-----
* tạm lược bỏ : báo Nhật tân 17 dòng. (BT)
1.-NGUYỄN TRIỆU LUẬT
Là dòng dõi tiến sĩ Nguyễn Tư Giản làm quan từ Thiệu Trị đến Đồng Khánh, nên nhà có nhiều tài liệu lịch sử, nhất là về hồi chúa Trịnh Sâm giúp anh miêu tả tỉ mỉ trong những cuốn Bà chúa Chè, Chúa Trịnh Khải, rất hấp dẫn, có cuốn trích đăng trong [ báo] Nhật Tân .
Tính người chất phác, chịu khó cần cù học hỏi, nhưng xử thế có phần ngây thơ, nên đương học ở Cao đẳng Su phạm, anh bị đuổi ngang, vì nghe như có dính líu với Quốc dân đảng. Có những nhận xét tinh vi, những châm biếm sâu sắc .
Trong truyện Kiều, sau hồi Từ Hải, Kim Trọng hỏi thăm tin nàng ở viên lại gìà và ở Thúc Sinh , anh
[ Nguyễn trọng ] Luật có bài Mồm cụ Lại với mép làng chơi, so sánh lời khai của họ Đô tỉ mỉ rành mạch đúng như khẩu cung, còn họ Thúc không khỏi có vẻ tự đắc vênh mặt mỉm cười :
Gặp nàng khi ở châu Thai
Lạ gì' quốc sắc thiên tài' phải duyên !
Ra cái điều cũng thiên tài như ta vậy !
Tài châm biếm của anh còn đặc sắc trong khi nhại thơ Hoàng cao Khải có bài Thành Cổ Loa :
Thành ốc mây mờ cỏ lẫn rêu
Biển tê trăng lặn, nước dâng triều
Hòa, thân, trót đã lầm đôi chữ
Ân, oán, xui nên đủ mọi điều
Quy trảo dẫu rằng cơ Tạo đổi
Nga mao như có nợ tình đeo
Hưng vong, biết chửa người thiên cổ
Thành tín bao nhiêu, dối bấy nhiêu !
HOÀNG CAO KHẢI
Anh nhai lại :
Thái ấp, mây mờ cỏ lẫn rêu
Pháp Nam, trung tín cả hai triều
Hòa, thân, trót đã lầm đôi chữ
Ân oán, xui nên đủ mọi điều
Nước Việt dẫu rằng cơ Tạo đổi
Làng Bông như có nợ tình đeo
Hưng, vong, biết chửa anh Tường Thuyết ?
Hục hặc bao nhiêu, chết bấy nhiêu !
NGUYỄN TRIỆU LUẬT
Sau khi [ báo ] Nhật Tân sập tiệm vì hết tiền , lại gặp lúc rối ren Tàu ,Nhật; anh ra giúp một tờ báo thân Nhật ở Hải phòng, rồi có lẽ vì ngây thơ chính trị mà anh bị hại, không rõ trong trường hợp nào ..
.
2.- VŨ TRỌNG PHỤNG
Thân phụ mất sớm , anh sống với bà mẹ ở gác trong, rất đơn sơ của căn nhà số 56 phố hàng Bạc, Hànội. Gác ngoài có Đào trần Nghiệp * tức Ký Con làm công nhân nhà Godard, trong khi [ Vũ trọng] Phụng giúp việc nhà sách Taupin, cùng trong cảnh nghèo. Rồi Phụng bỏ Taupin, vì thích nghề báo chí hơn. Anh chịu khó đi theo các đàn anh như Tạ đình Bính, Phùng bảo Thạch , Nguyễn triệu Luật, để thu thập kinh nghiệm hầu bù đắp cho cái vốn học hạn hẹp vì thiếu phương tiện. Những kinh nghiệm này được nhiều đặc tài khai thác: nhận xét tinh tế và nhanh chóng , gom vào trí nhớ như vào máy ảnh, khiến anh gặp cá nhân nào ở giai cấp nào, chỉ thoáng qua là nhớ từng lời ăn tiếng nói, từng đường đi, nước bước, từng ý nghĩ, từng ý muốn, anh ghi lại không sai một mảy may .
----
* đúng, phải là ĐOÀN trần Nghiệp . (BT)
Anh chỉ về làng vài hôm là có ngay Nghị Hách, ra ngồi quanh máy nước là vạch chuyện Cơm thầy cơm cô, đến hóng chuyện mấy tay cờ bạc là nêu ra Cạm bẫy người, với mấy me tây hưu trí là biết mánh khóe Kỹ nghệ lấy Tây, chỉ gặp gỡ mấy tay anh chị trong xóm là có ngay Xuân tóc đỏ chào đời.
Bấy nhiêu tác phẩm đã làm độc giả tưởng anh là người trác táng, lăn lộn trong đời sống đồi trụy, len lỏi, nay Bạch Mai, mai Đáp Cầu... kỳ thực không mấy khi anh xa [ phố ] hàng Bạc .
Nhà nghèo, sức yếu, viết lách nhiều, không khỏi tổn thương đến nguyên khí, anh lìa trần năm 1940, hưởng thọ 27 tuổi.
3.- VŨ NGỌC PHAN
Người nhỏ nhắn , ăn nói điềm đạm, đi đứng nhẹ nhàng, ít khi thấy anh to tiếng hay vùng vằng, dù bất đồng ý kiến với ai. Anh giúp tạp chí Pháp Nam của ông Babut , giữ mấy trang tiếng việt dành cho thi ca và tiểu thuyết dịch như Anna Karénine. Thỉnh thoảng có bài cho [ báo] Nhật tân, thường là phê bình văn học. Chúng tôi hay gọi đúa là ngự sử văn đàn. Anh sống gần như ẩn dật ở ấp Thái Hà, bên người bạn đường là nữ sĩ Hằng Phương. Sau 1954, tôi được đọc Chuyện cổ nước Nam không thấy có giọng điệu thiên tả.
4.-DƯƠNG TẤN TƯƠI
Sinh viên miền Nam , học năm thứ 4 trường Thuốc, đôi khi có bài về những sự đòi hỏi kỳ quặc trong thú tìm tòi và nâng niu sách quý. Anh lại ưa nói chuyện ma quỷ. Khi chúng tôi chạy vô Nam thì anh đã là một bác sĩ nổi tiếng về bệnh tâm trí. Tính ít nói, khi mạn đàm về những nhân vật tiếng tăm hay tai tiếng Nam và Bắc, anh có những tia mắt tinh nghịch chiếu ra, anh em hưởng ứng vô cùng thích thú.
5 .- ĐÁM QUANG THIỆN
Đến gặp tôi lần đầu ở [ báo] Nhật tân, lúc ở năm thứ 2 trường Thuốc. Trắng trẻo, tóc lại hơi hung hung như lai tây, cũng niềm nở, mỗi tháng đôi kỳ giúp bài về những thường thức trong y khoa.
Sau khi anh chuyên về bệnh tâm tri , học giáo sư Blondel. Vị này có đặc điểm là giảng bài ở lớp không tường tận bằng ở một tiệm phố hàng Buồm cho mấy sinh viên mà ông chú ý nhất, trong số đó có họ Đàm. Theo học mấy năm liền như thế , trò cũng ghiền * theo thày. Đến năm thứ 4, Thiện bỏ ngang để dấn mình vào cuộc đấu tranh chính trị . Anh cùng Phan huy Đán hoạt động ở khu Ngũ Xá Hồ Tây, chiều chiều diễn thuyết đả kích Việt Minh, khi hùng hồn, khi dí dỏm, được bà con dự thính đông đảo ... Xong ở Ngũ Xá lại về năm tiệm [ hút ] ; vậy mà không bị công an VM bắt, vì được đông đảo anh em bảo vệ, trong đó có nhiều tự vệ thành ...
------
* nghiện thuốc phiện ( BT)
Trong thời gian 1939 - 1940, Thiện nảy ý kiến trắc nghiệm . vốn học của mình bằng cách sáng tác một vở kịch về tâm trí nhan đề Cánh đồng ma, rồi theo thời thượng bấy giờ, họp anh em diễn tập đóng thành bản điện ảnh, trong đó anh vừa đạo diễn, vừa thủ vai chính. Quay phim xong phải đem rửa tại Hong Kong, bên ta lúc ấy chưa làm được. Ở nơi non cao biển rộng này, anh kết duyên với cô đào chính, chung vui tuần trăng mật vô cùng hào hứng.
Khi trở về nước, vợ chồng sống phiêu lưu 3, 4 năm trời- khi anh viết báo, khi dạy học. Anh có 1 trí nhớ phi thường. Đọc [ chính ] tà cho học trò chẳng hạn , anh chẳng có sách vở gì trong tay, chỉ ứng khẩu đọc 1 bài dài, dấu phẩy, dấu chấm xướng lên rành mạch, khiến học sinh tâm phục trong kinh ngạc.
Anh em có bận thử tài anh bên khay đèn : lập 1 bản kê khai các vật dụng quanh mình chừng 4 chục thứ lỉnh kỉnh : tiêm, móc, xe, lọ, kéo, dao, báo, sách ... mỗi thứ mang 1 con số, tuần tự từ 1 đến 40, đưa bản đó cho Thiện, anh xem chầm chậm một lượt, nhắm mắt một phút, khi mở ra tha hồ cho các bạn hỏi :
- Số 8 là gì ?
- Lọ dầu Nhị thiên [ đường ]
- Số 27 ?
- Cái chổi lông gà ...
Bốn mươi số, chẳng sai vật nào !
Gia đình thấy Thiện nay đây mai đó , tai tiếng đã nhiều, nên khuyên trở lại trường Thuốc, dùi mài ít lâu cho xong cái bằng bác sĩ, gây dựng lại cuộc đời lỡ dở. Anh nghe lời tìm đến giáo sư Blondel. Ông này trao cho đủ sách vở để về ôn tập, và hẹn 15 ngày sau sẽ gặp lại để khảo hạch. Đúng hẹn, trò hợp với thày để trả 3, 4 hôm liền, thày đi từ ngạc nhiên này đến khen ngợi khác, cuối cùng thày phấn khởi reo lên :
- Gần 5 năm sách vở, anh chẳng quên 1 khoản nào. thật là kỳ dị ! Tôi sẽ trình với giao sư Huard, cho anh trúng tuyển...
Tuy vậy, anh không đỗ hẳn, vì khi phải trình luận án, anh lại bỏ đi ... giang hồ !
Khoảng 1952, anh cùng TCHYA vào Huế giúp thủ hiến Phan văn Giáo, vốn quen thân với Đỗ Văn và TchyA *. TCHYA và Thiện đóng vai sĩ quan tâm lý chiến, văn phòng đặt thường ở trên đò sông Hương!
---
* theo lối viết bản chính (BT) .
Sau đó, được tướng Nguyễn ngọc Lễ, trước là đại tá Vệ binh đoàn mà anh quen khi ở Huế, mời làm cố vấn cho ban Cảnh sát công an mà ông [ ta ] làm giám đốc.
Bấy giờ là lúc Pháp đã hết ảnh hưởng ở bên ta, nhiều người việt cũng như pháp có tiển của kẹt lại, đều tìm cách chuyển ngân sang Pháp, mà chuyển chính thức thì được ít một, bao giờ cho hết ? Nên phong trào chuyển lậu nẩy sinh, nhiều trung gian kiếm ăn bằng manh mối chạy chọt. Một nhân viên tổng nha dính líu, bị kết án cùng mấy nhân viên đồng lõa. Vì mưu mô xếp đặt bên khay đèn, nên Thiện bị lây, mặc dầu anh đã nhiều lần khuyên không nên mạo hiểm.
Nằm 2 năm trong [ khám] Chí Hòa, anh thừa thì giờ nghiên cứu truyện Kiều, viết nện cuốn Ý niệm bạc mệnh trong Đoạn trường tân thanh rất có giá trị.
Nhân nhiều bạn đồng cảnh ham bói toán để nuôi hy vọng giải thoát, anh bày ra cách bói toán mới : 3254 câu Kiều chia thành 651 đoạn 5 câu 1, ghi số thứ tự vào 651 thẻ giấy bìa. Người coi bói thầm thì khấn , 2 ngón tay kính cẩn xoa xoa vào đầu nắm thẻ rồi rút phắt 1 cây ra trình thày. Thày nhỏ nhẹ đoán, đều nghĩ cách đoán ra điềm hay để [ làm ] yên lòng thân chủ .
Sau này, anh cười, nói với tôi :
- Mình tìm cách đùa chơi cho khuây khỏa, chứ bói toán gì. Ấy thế mà có khí linh ra phết. Một anh phạm tội cố sát, ngồi chờ sau ra tòa nghe tuyên án, thì ngày hôm trước thở dài thườn thượt, lo lắng sẽ bị cấm cố cả chục năm không chừng, đứng ngồi không yên, lập cập rút 1 thẻ. Thày đọc :
Cố nhan đã dễ mấy khi bàn hoàn
Rồi đây bèo hợp mây tan
Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu
Sư rằng: Cũng chẳng bao lâu
Trong năm năm lại gặp nhau đó mà !
Hôm sau , quả nhiên ông tòa phát cho cái án 5 năm ! Người ta bảo , có câu : có thiêng, có kiêng có lành, hoài nghi là 1 thuyết sai bét !
Vốn tính xuề xòa, lại lười biếng. Nhất là ghét những kẻ nịnh chủ, nịnh giàu; nên không ở lâu trong cơ sở hay hội đoàn nào.
Năm 1979, tôi còn gặp anh mấy lần, tóc đã bạc phơ; nhưng vẫn khỏe mạnh, vui cười, phong độ không đổi.
Ở hải ngoại, được tin anh tạ thế vào thượng tuần tháng 3 năm 1981. Thế là xong 1 đời tài hoa, một nhân phẩm đáng mến, một kiếp vận đau thương ..,. []
( còn tiếp )
lãng nhân
( trích NHỚ NƠI KỲ NGỘ / LÃNG NHÂN-
Ziên Hồng ( Zieleks) xuất bản, Texas USA , 1997 - tr. 75 - 81 )
Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013
tháng hai buồn đọc lại lỗ tấn / hoàng vũ đông sơn 3
tháng hai buồn đọc lại lỗ tấn
hoàng vũ đông sơn
Một mầm văn nghệ non đến yết kiến một củ gừng già , nhờ dạy dỗ và đặt tên cho tác phẩm anh ta vừa mới viết xong, củ gừng già lật qua lật lại, bề dày của cuốn truyện, rồi quắc mắt nhìn mầm non, hỏi :
" Thế truyện của cậu có kèn không ?"
" Dạ không !"
" Có trống không ?"
" Bẩm cũng không !"
" Vậy thì đặt tên là ' Không kèn không trống ".
Đó là một chuyện cười trong làng báo chí văn nghệ tôi đã đọc từ lâu lắm rồi và còn nhớ mang mang như vậy.
Hình như tôi có chân phước., nện vẫn được các bậc đàn anh, đàn chị thương mến dãy bảo tận lực , khuyến khích tận tình mãi mà mãi vẫn chưa khá được. Đó là lỗi tại tôi không có văn tài, không khổ công trau chuốt. Thơ thì sắp chữ, văn thì gập ghềnh mấy lối uốn thang mây. Đôi khi , tôi băn khoăn tử hỏi mình có rơi vào trong mỗi chuyện vui văn nghệ mà có vị tiên sinh văn hóa nào đó đã nghĩ và viết ra ? Chuyện thế này :
Một người mù có tài ngửi văn. Một tay viết văn làm thơ vừa muốn thử tài, vừa muốn được đánh bóng, bèn đưa đến người mù một lô sách :
" Ông ngửi xem ! Đây là cuốn gì ?"
Người mù đáp:
" Tam quốc chí "
" Sao ông biết ?"
" Ngửi thấy mùi máu lửa"
Anh kia lại đưa ra cuốn nữa :
" Đây là cuốn gì ?"
" Tây sương ký '
" Sao ông biết ?"
" Ngửi thấy mùi phấn sáp ".
Thêm một cuốn nữa :
" Thế đây là cuốn gì ?"
Người mù gật gù:
" Văn của ông đây mà"
" Sao ông biết ?"
Người mù đáp tỉnh bơ :
" Ngửi thầy mùi thum thủm ".
Việc bỡn chữ nghĩa để thành danh ở chốn giang hồ văn chương thật khó và khó thật ! Khó nhiều triệu lần so với cái ông giáo chủ Đinh xuân Thu của phái Tinh tú trong truyện kiếm hiệp của ông Tàu Kim Dung đã được giáo chúng suy tôn là Tinh tú lão tiên ; mỗi khi diện kiến người, giáo chúng đều tung hô :
" Giáo chủ văn thành võ đức , thọ tỷ nam sơn, tràng trị vũ lâm, nhất thống giang hồ ".
Lối bưng bê-nâng-đội như thế là hết ý, là tuyệt vời trên cả tuyệt vời rồi !
Tháng hai buồn đọc lại Tuyển tập Lỗ Tấn ( bản dịch Giàn Chi, nhà xuất bản tổng hợp Hậu Giang ), Lỗ Tấn là sao bắc đẩu của nền văn học nghệ thuật Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa , ngay từ trước thời Vạn lý trường chinh. Thế giá của ông cũng ngang tầm với ông Maxim Gorki của nước Liên bang Xô Viết.
Đọc lại Lỗ Tấn khi buồn thật thấm thía cho thân phận người dân đen nước Tàu của ông vào cái thời kỳ phe nhóm cùng sự phế lập tong cung đình nhà Mãn Thanh gây ra loạn lạc. Rồi cách mạng Tân hợi, cuộc cách mạng nửa vời của ông đại tổng thống lơ mơ như ông Trời ở tít trên mây cùng các tiểu tổng thống từng địa phương lớn nhỏ đều có đặc quyền chặt cổ hay bỏ tù người dân mà chẳng cần chứng cứ rõ ràng. Thuần phong mỹ tục thì người cầm quyền không muốn xiển dương, vì sợ mất quyền lợi, sợ đụng chạm đến đồng liêu, đồng sự. Đồi phong bại tục cứ mặc sức tự do phát triển. Người dân đen ở các xóm vắng, thôn càng man rợ, chính quyền địa phương càng dã man thì càng dễ cai trị.
Tuyển tập Lỗ Tấn , Giàn Chi dịch có 9 truyện ngắn :
1) Nhật ký người điên .
2) Khổng Ất kỷ
3) Ánh Mai.
4) Anh em ruột thịt
5) Trên gác rượu
6 ) Quê nhà
7) Con người cô độc
8) Lễ chúc phúc
9) AQ chính truyện .
Tôi thích AQ chính truyện nhất, vì nó hao hao hao giống Chí Phèo của Nam Cao Việtnam. Nhân vật Chí Phèo là anh em song sinh với AQ ( đọc A-Cu) , hay AQ là cái bóng Chí Phèo. Tôi không dủ kiến văn cảm thụ văn hay mà phân biệt được giữa Tàu và Ta có sự giao thoa đến độ tuyệt vời nào hay không. Truyện AQ có AQ là dĩ nhiên rồi, có Ngô ( tiểu cô sương) có cụ Triệu ( quan Tú Triệu ) , có cụ Tiền, quan cử Tiền ( Tây giả cầy ) . Truyện Chí Phèo có Chí Phèo, có Thị Nở, có Bá Kiến, Lý Kiến ...
Đọc cả 2 truyện AQ và Chí Phèo, chả phải là tự ái dân tộc, nhưng tôi thấy truyện của ta nhân bản hơn chuyện tàu. Chứng cớ là Chí Phèo được làm đàn ông dù là trong cơn say. Thị Nở được trở thành đàn bà qua cái vụ đền ơn đáp nghĩa, bát chào hành giải cảm./ Chí Phèo trong cơn điên tiết đã đâm chết Bá Kiến, tức là sự nổi dậy do hờn căm chất chứa có quá trình, có bài bản, có nhân quả. Còn AQ đến lúc bị phập ở pháp trường , thì vẫn chỉ là lão ngoan đồng thứ thiệt. Vú Ngô chưa được nếm mùi đời vì thiếu tinh thần tương thân tương ái của Thị Nở. Mụ Ngô chê AQ, chê thật háy chê làm dáng ? Mụ cũng không bị anh Tây trắng,Tây đen, hay anh lính commando, partisan nào hãm hiếp như ở Việtnam một độ,
Tội nghiệp AQ, bi kịch yêu thương sao mà khủng khiếp quá. Bị đánh đập tàn nhẫn bằng cây gỗ đòn tre, bị sỉ nhục đủ thứ - AQ chịu được hết, quên tuốt hết, qua vài tớp rượu, rồi đi vào giấc ngủ an lành không mộng mị. Nhưng cái chất nhờn nhờn, sau khi éo vào ám tiểu ni cô cứ tồn đọng mãi trong đầu đã hành hạ AQ đến uống rượu mất ngon, ngủ không yên giấc, lại luôn luôn tưởng nhớ, luôn luôn mộng mị đến cái nhờn nhờn ở cái đầu vừa cạo, ở cái má tiểu ni cô : Hòa thượng đụng được, tớ đụng không được à ? ... Rồi lại mụ Ngô , tiểu cô nương cố tình ngả ngớn, lúc co chân, khi duỗi cẳng hớ hênh trên ghế dài buồng vắng nhà cụ Triệu. Mụ Ngô kể toàn những chuyện có liên quan mật thiết , liên hệ thiết thân đến vấn để bức xúc của AQ. Nào là : " Hai hôm nay, cụ bà không ăn cơm vì cụ ông muốn cưới bà bé". Nào là : " Mợ Hai nhà này ở cữ vào tháng 8 ." Lời nói và cử chỉ của Vú Ngôi như mời gọi, như khuyến khích AQ phải có một hành động của Xuân Tóc Đỏ với bà Phó Đoan vô vàn tích cực. Lại thêm tiểu ni cô bữa trước cũng chanh chua xỉ vả : " Cái thằng AQ chềt mất giống ấy ! " đã được quần chúng trong quan rượu biểu
dương :" Bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại " nên AQ phải đáp trả đối phương. Đáp trả bằng hành động tự nguyện mà quỳ xuống,. thành khẩn quỳ sụp xuống, lết tới cái ghế dài có thân hình ngồn ngộn của một nữ nhân đang ngả ngớn, lúc co chân khi duỗi cẳng. AQ bị quấy rối tình dục ?
Nếu AQ là người Việtnam cái thời 1945- 1954 mà hung hăng đi lính Lê dương, commando, partisan thì hẳn rằng đã biết rằng : chớ kể già 7, 8 mươi , mà đến cả con nít, 9, 10 tuổi cũng bị hết anh Tây trắng, Tây đen , ngay cả lính Ta cũng hãm hiếp, trong các lần đi càn quét của họ. Huống gì Vú Ngô đang ở tuổi phây phây, AQ cũng không học được lối hành tàng khuất phục. Thị Nở của Chí Phèo cứ xông lên làm tới, không thèm lên tiếng van lơn : " Tôi ngủ với mình, tôi ngủ với mình " thì đâu đến nỗi phải là cái quân làm loạn, là đồ ma cà cúi !
***
Viết AQ chính truyện, ông Lỗ Tấn cứ băn khoăn không biết nên để danh xưng chính truyện hay
ngoại truyện ? Vì băn khoăn nên ông LỗTấn đã mang tất cả hành trạng của gia và đại gia, kể cả ông Khổng Khâu ra so sánh. Cuối cùng ông thấy AQ, nhân vật điển hình cho một thời đại thật xứng đáng phải có một chính truyện nên thành AQ chính truyện.
Tôi giống ông Lỗ Tấn ở băn khoản băn khoăn, khi muốn iết vài chuyện về Người về Ngợm có liên quan đến chữ nghĩa, đến văn học nghệ thuật. Băn khoăn vì không biết nên đặt tên chuyện mình kể, bài mình viết là nội hay ngoại văn học. Nội, ngoại đây là trong, ngoài. Nội, ngoại văn học chứ không phải
văn học nội hóa hay văn học ngoại hóa, như danh từ thời thượng gọi là Nhà xuất bản Ngoại văn,
Nhá sách ngoại văn ...
Mà so sánh thì luôn luôn khập khiễng. Tôi chẳng là cái thá gì mà dám cả gan so sánh một cách bắc bậc chèo kéo cao vời với ông Lỗ Tấn, thì hoặc là, Trời sắp sập, hoặc, cả nước sẽ vì tội mà mang tai chuốc họa; nhẹ hều cũng là bài học thứ hai. Ông Lỗ Tấn có vị thế là bắc đẩu kim tinh , là cù lao ỏ sông, ở biển, là núi lớn giữa đồng bằng bên Tàu. Còn tôi, tôi là thứ cóc cắn, là rơm là rác của tổ quốc tôi : dạo Vietnam hơn 5000 năm lịch sử, hơn 4000 năm văn hiến.
Cũng may ông Lỗ Tấn đã tịch từ khuya. Ông là người nước lớn, lại là đại văn hào, nếu còn tại thế, chắc cũng chẳng giận hờn gì cái ngữ tôi.
Ông Lỗ Tấn mất, nhưng lại còn mãi mãi. Tôi còn đây, nhưng cũng như mất. Chỉ được sống nhăn để sang Tháng Hai Canh thìn , với những băn khoăn không biết nên đặt tên vấn đề : Cái mình viết là nội văn học hay ngoại văn học ?
Suy đi, phải đặt tên bài viết Chuyện ẫm ương nội văn học là đúng nhất. Vì, nội dung là những chuyện liên quan mật thiết đến văn học và những người khai sinh ra nó, tức các tác giả. Nghĩ lại, thật không ổn. Vì, đã có Hồi ký ngoài văn chương của ộng Thế Phong rồi. Mà, tựa dề, chỉ khác nhau tí chút ở 2 chữ ngoài và chương với nội ( trong) và học; phải là thứ có trình độ, tầm cỡ mới phân định nổi . Thử tưởng tượng 2 cuốn sách ( cứ cho là có cuốn thứ 2 đi ) đặt song đôi ở đâu đó :
Hồi ký ngoài văn chương
Những chuyện ... nội văn học
Làm sao để che miệng thế gian ? Và, nếu thế, thì sẽ suốt đời mang tai tiếng là ăn theo, ăn bám - thậm chí là mạo hóa như hàng giả , hàng dởm hay hàng nhái chính hiệu con nai nằm của người ta . Xin thôi ! Sáng tác được tuồng tích, viết văn làm thơ được đã là khó ! Nhưng biết tự đặt tên cho sản phẩm ra lò sao cho ăn khách mới là tài giỏi. Nội dung đôi khi chỉ là phụ. Bao lò quảng cáo tiếp thị mới là chính. Ai
đi trước và có sáng kiến hợp thời tranh nhạc tuyển là có mâm cao cỗ đầy. Phương ngôn chả
bảo : trâu chậm uống nước đục đấy sao ?
Vả lại, kẻ ăn theo ăn bám hẳn nhiều không tin ở tài mình, hoặc giả, là loại có chân tài, rất tự tin, nên muốn vượt mặt tất cả đàn anh, tiền bới, cổ nhân. Thí dụ cụ thể, như Đoạn trường tân thanh / Nguyễn Du chẳng hạn , chưa đến tam bách niên hậu mà Đoạn trường vô thanh đã vượt độ dài mấy câu. Rồi sau 1975, lại có Đoạn trường nhất thanh; không biết Nhất thanh đã vượt Vô thanh mấy chục hay mấy trăm câu ? ( vì không có kiên nhẫn đến từng dòng ) .
Ai cũng bái phục sự dài hơi và nhất là sóng sau hơn sóng trước. Đúng là con hơn cha là nhà có phúc . Thử lần lượt xếp hàng ngang :
Đoạn trường tân thanh
Đoạn trường vô thanh
Đoạn trường nhất thanh
Con người ta có ai tự nhìn thấy gáy mình đâu ? Họa chăng, là nhìn thấy thức tế ảo qua gương phản chiếu, mỗi lần ngồi trên ghế hớt tóc, cạo râu; hoặc uốn tóc se lông mày, lông mặt . Riêng tôi, từ 5 năm nay, chỉ tự sờ gáy mình mà không được nhìn thấy qua 2 tấm gương đối xứng, vì sợ lây nhiễm Si- đa qua dao kéo và nhất là, đỡ tốn gần chục ngàn cho người ta sờ gáy. Mà 5000 đồng đã là 1 ký gạo ngon củ vợ tôi rồi.
Sự nhất cử lưỡng tiện của tôi về cái râu, cái tóc : là ù lì thiếu văn minh tiến bộ, al2 vô ơn đới với đức
Tây Hồ-Phan chu Trinh đã mất công xiển dương âu hóa từ hồi đầu thế kỷ XX, lại thêm nữa, có Tự lực văn đoàn hưởng ứng quảng bá bằng cả 10 điều tâm niệm : hoàn toàn theo mới / dứt khoát theo mới không chút do dự.
Tôi giữ thói nhà quê , theo đức Sào Nam- Phan bội Châu ở khoản búi tó. Vả lại, sau đức Phan Sào Nam còn có cả cụ Nguyễn văn Tố đấy. Chỉ có người kính phục, chả ai dám coi thường cụ, khi cụ chữa văn viết, sửa văn nói cho nhiều học giả, gíáo sư tây trắng ở trường Viễn đông Bác cổ Hànội.
Tôi không húi đầu, nhưng tự cạo râu và để ria, vì biết rằng mình chẳng có tội lỗi gì với trời đất. Chỉ không hớt tóc với 2 lý do trên. Miễn rằng vợ tôi đã không chê, mà thị cỏn gội đầu giùm, búi hộ tóc hàng ngày ; con tôi không mắc cỡ với bạn bè nó, khi tôi ra đường là yên chí lớn. Tôi có nhố nhăng, nhăng nhố không ? Chả biết! Vì tôi có tự nhìn thấy gáy mình đâu ? mà búi tóc lại có phần đầu gọi là gáy.
Tôi không có can đảm ngựa xương như AQ để chọc ghẹo Vương Xồm, để được gãi cho mềm xương, bởi tôi đã có lời cảnh báo của Thạch Ngữ * , bạn tôi , qua 1 bức thư. Ông bào: " Văn nghệ văn nghệ là nơi gió tanh mưa máu, chớ bon chen vào. Thị trường du hí ấy là nơi chốn của riêng một loại người có thế giá ". Tôi không mấy nhất trí với Thạch Ngữ, nhưng lại rất thấm câu nói của người Lý Đại Nguyên trong 1 bữa cơm tiện đũa tiện bát tại nhà ông :
" Hễ còn sống, còn phải ăn phải mặc..., còn bị ganh ghét, bị đánh đập, xỉ vả. Bao giờ hai 50, bè bạn sơ sơ, anh em qua quýt cũng sẽ nói lời thân thương tiếc nhớ, thậm chí khuếch đại cả những ' kỳ tích' vốn không có và cũng chẳng bao giờ có, để viết bài ' tưởng nhớ ' đưa đăng báo , ' bắt tí bạc lẻ xài chơi ' , vừa được tiếng vừa được miếng. Thật là lưỡng lợi ... ! "
------
* bút danh khác thi sĩ Thanh Chương ( BT)
***
Thế là hết Tháng Hai. Thế là chỉ còn 10 tháng phù du nữa lại sang năm Con Rắn. Rồng chỉ có và còn trong huyền thoại. Còn rắn là cụ thể , là hiện thực. Rắn có thứ kích độc, có thứ hiền lành. Nhưng cứ nói đến rắn thì ai cũng khiếp, trừ các thầy rắn, trừ lúc rắn đã được băm vằm ra chiên xào nấu nướng rồi. Tác giả Hương rừng Cà Mau là ông Sơn Nam có nói đền cây Huê xà trị rắn của các bậc sư tổ bồ đề ngành rắn xứ Nam kỳ lục tỉnh ở thời mới khai phá , dân từ xứ Quảng vào khai cơ kiến nghiệp. Những mong có cây Huê xà thật, chứ chẳng phải ông Sơn Nam hư cấu phịa ra chơi có chuyện để viết truyện.
Tháng Giêng là tháng ăn chơi. Tháng Hai ' cờ bịch ' vốn dĩ không nên, vì :
Khôn nghề cớ bạc là khôn dại
Dại chốn văn chương là dại khôn !
Tôi dại hay khôn ? Chắc là không khôn nổi. Cái ngữ tôi mà dám xếch mé hòi mòi đến văn chương thì còn ra cái thống chế gì ? Tuy có một chút tự hào là đồng bào, là cùng họ Hồng Bàng của Chí Phèo, nhưng tôi vẫn thấy quê quê làm sao ! Vì, Chí Phèo là người đức độ bầy hầy giống như ngài đạo chích, có can đảm chẳng thua gì các đại vương Lương sơn bạc. Khi thắng thế, Chí Phèo hùng hùng, hổ hổ, phá nhà cướp đất cho Trái chủ. Khổ chủ có kêu van, Chí Phèo cũng điếc đặc không nghe. Lúc thua cơ, Chí Phèo biết dùng mưu làm khổ nhục kế, như đập đầu vào đá, lấy mảnh sành sắc cạnh cào vào mặt cho máy chảy đỏ lòm để nằm vạ. Chí Phèo mà sanh ra đời gặp được giờ tốt cũng vương tướng như Tề vương Hàn Tín chứ chẳng chơi. Còn AQ , chỉ hăng tiết vịt một lúc, nóng máu gà một hơi rồi nguội, rồi xìu. Nhiều lần AQ van đối thủ, nhiều lần tự xỉ vả mình là giun dế để được tha mạng. Thậm chí, AQ viện cả Thánh, cả Hiền để ca cẩm cầm xin : " Quân tử động khẩu bất động thủ". Ông Lỗ Tấn bảo đó là dân tộc tính, là thắng lợi tinh thần của người Tàu. Ai không tin cứ đọc lại AQ chính truyện. Lại không tin vao sự so sánh Ta và Tàu của tôi, thì bỏ công bỏ sức đọc lại Chí Phèo, ông Nam Cao không có đặt để là Chính truyện ngoại truyện. ... thì rõ. Cái tuyệt vời của Chí Phèo là thích thì chơi xả láng, du u đầu sứt trán vẫn cứ chơi. Chí Phèo chẳng hề tham gia cách mạng để vào cả chùa mà cách, không hề đanh sư, đụng vãi, véo má tiểu ni cô. Thế mà Chí Phèo cũng bị các giáo sư, học giả phê là lưu manh hóa, khi các vị ấy soạn sách giáo khoa giảng dạy ở các bậc học.
Đức Liệp Hộ Hồng Sơn dạy chẳng sai :
Cho hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có nhân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Truyện dù là các tiểu gia, trung gia hay đại gia văn sĩ viết cũng đều là phịa. Chữ nghĩa văn vẻ gọi là
hư cấu các tình tiết cho hợp cảnh hợp người. Ai cũng thấy có một tí mình ở trong truyện , nhưng lại chẳng phải ta. Ông Lỗ Tấn thánh thật !
Tháng Hai cứ tưởng buồn. Hóa ra đọc Lỗ Tấn thấy vui đáo để ! []
THÁNG HAI CANH THÌN
( còn tiếp )
hoàng vũ đông sơn
( trích THÁNG HAI BUỒN ĐỌC LẠI LỖ TẤN / HOÀNG VŨ ĐÔNG SƠN -
Văn Uyển xuất bản, San Jose / USA , 2002 - tr. 33 - 42 )
Thứ Tư, 17 tháng 7, 2013
nhà văn hậu chiến 1950 -1956 : thanh tâm tuyền / thế phong 24
nhà văn hậu chiến 1950 - 1956 :
thanh tâm tuyền
thế phong
Tiết 5
THANH TÂM TUYỀN
Tiểu sử.-
Thanh tâm Tuyền tên thật Dzư văn Tâm . Sinh năm 1936 ở Vinh, sống hầu hết đời hoa niên ở miền bắc. Viết cho tuần báo Nói thật ( Hànội 1953), Lửa Việt, Người Việt, Phương Nam, Sáng tạo
( Saigon - 1956 ) ...
Tác phẩm và khuynh hướng.-
Đã xuất bản Tôi không còn cô độc ( Người Việt, Saigon 1956 ). Ông còn viết truyện dài đăng trên báo
Lửa Việt và truyện dài Hiện tại đăng dở dang và truyện ngắn như Người bệnh giữa mùa xuân, Đại lộ v.v... Khi xuất bản tập thơ tự do không vần, không điệu, gần như văn xuôi, như những bài Tình cờ, Phục sinh.. gây một sự ngỡ ngàng cho người đọc thơ. Thơ tự do Thanh tâm Tuyền không là thơ tự do Nguyễn đình Thi, gần hơn, Nguyễn quốc Trinh , hoặc gần hơn nữa, so với các tác giả trong nhóm Sáng tạo, như Quách Thoại, Nguyên Sa, hoặc nhà thơ độc lập Phan lạc Tuyên. Thơ Thanh tâm Tuyền giống hệt lối thơ tượng trưng nhóm Lettrisme, Dadaisme ( Pháp), lời thơ bí hiểm, khô không khốc như ngói, khó truyền cảm, kém nhạc điệu xa so với thơ bí hiểm Nguyễn xuân Sanh nhóm Xuân thu nhã tập tiền chiến.
Nội dung thơ mang sự khắc khoải, lo âu bi thiết, nặng phần tư tưởng cóp nhặt từ triết thuyết Kierkegaard, Francis Piciabia , Aragon v.v... - ngoài những bài bí hiểm, có một đôi bài truyền cảm, đặc sắc, có âm điệu riêng, nội dung cô đọng. Cũng là điều lạ, nhà thơ tự do phi lý không lý do ấy rất thích điệu slow , nhạc Đoàn Chuẩn , một nhạc sĩ có dòng nhạc quý phái, trẻ trung, âm điệu quyết rũ tuổi thanh xuân.
Có lẽ, Thanh tâm Tuyền muốn tạo một lối thơ tự do mới , nhưng bước đi quá trớn, chín háp, trở thành lập dị, đi tới lố bích hóa thi ca. Cũng chưa đến nỗi như Nguyễn xuân Sanh làm thơ bí hiểm đến độ cố tạo ra từng ý , từng chữ vô nghĩa đòi hỏi phải có kẻ bình giảng để độc giả hiểu được hơn là tác giả hiểu?
Chúng tôi nhớ lại vào thế kỷ XIX, sau văn tượng trưng, khi môn phái symboliste xuất hiện- thì nay lại có Thanh tâm Tuyền đầu đàn bắt chước Dadaisme đại diện cho những tác giả viết thơ , như : Người sông Thương, Trần thanh Hiệp .
Cùng đọc Phục sinh - thơ làm dáng suy tư - của Thanh tâm Tuyền:
...Tôi buồn khóc như buồn ngủ
Dù tôi đứng trên bờ sông
Nước đen sâu thao thức
Tôi hét tên tôi cho nguôi giận
Thanh Tâm Tuyền
Đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi
Em bé quàng khăn đỏ ơi
Này một con chó sói
Thứ chó sói lang thang
Thứ chó sói lang thang ...
THANH TÂM TUYỀN
Gọi tênkhông là mốt mới, xưa, trong Gửi hương cho gió ( 1940), Xuân Diệu tự xướng tên , hoặc tay đàn-em-thơ Huy Cận học đòi đàn anh, cũng bi bô xướng tên nhiều bận trong Lửa thiêng., Song, ít ra cách xướng tên phải như thế nào, không thể là một tên điên, quần áo lếch thếch, ống cao ống thấp , gần như cởi chuồng, miệng nhai nhồm, hét tên mình, thì quả thực cách xướng tên vô ý thức kia chẳng có ý nghĩa gì ?! Vậy thì cách tự xướng danh của Thanh tâm Tuyền khó có thể lam đọc giả không nghĩ tới hình ảnh mộ kẻ mộng du, tự vỗ ngực xưng danh tình cờ, như thơ 2 kẻ yêu nhau rất tình cờ trong Tình cờ / Thanh tâm Tuyền :
... Hai người yêu nhau rất tình cờ
Của lòng tin phù trợ
Hãy yêu nhau rất tình cờ
Như mặt trăng may mắn thoát ra khỏi vòm mây...
Chiếc đầu máy mệt nhọc dừng lại một ga nhỏ...'
THANH TÂM TUYỀN
Thật tình cờ, buộc người đọc quay trở lại với nền văn chương vảo đầu thế kỷ XX, ở Pháp xuất hiện nhóm Dadaisme làm ồn ào một dạo- chẳng khác gì, vào 1956, TTTuyền khua chiêng , gióng mõ với những bài thơ Nhịp ba chẳng hạn. Dadaisme từng hùng hồn , nghênh ngang, dõng dạc :.." các anh hiểu thế nào được, phải không, ấy là nói về việc chúng tôi làm . Phải vậy không ? Vậy thì, các anh ơi, nào chúng tôi có hiểu chúng tôi bằng các anh hiểu đâu ?"*
-----
* Vous ne comprenez pas, n' est ce pas, que nous faisons. Eh bien chers amis, nous le comprenons moins encore.."
( manifestation du Mouvement Dada ). Nhóm Dada gồm: Marcel Duchamp, Frncis Picabia, Dessaignes, Breton , Vaché, Aragon, Soupault, Elurad v.v...
( TP)
Lời tuyên ngôn nghe thì khôi hài, nhưng thật chân tình , biết tự châm biếm , anh hề biết làm trò hề cho đọc giả coi, chính mình không chịu nổi sự tiếp nhận chính mình. Thanh tâm Tuyền không chỉ ' mượn oai hùm rung nhát khỉ ' từ Francis Picabia , mà còn theo cách học đòi từ nhân vật Nathaniel trong tiểu thuyết Les nourritures terrestres / André Gide.
Nếu một Nathaniel kêu gào : bạn hỡi , hãy vứt sách ta đi, vứt ra ngoài đi - thì TTTuyền cũng học đòi bắt chước cụng về, ngây ngô, hệt một mụ nhà quê xấu xí, đen đúa ở vùng đất Hồ Nam ( Trung hoa) thấy Tây Thi nhăn mặt đau bụng, thì được vua chiều chuộng, còn mụ này nhăn mặt ,bị chồng vác gậy khện mấy gậy. Bởi lẽ, TTTuyền tưởng rẳng lối viết của Gide là phao cứu sinh, đặt ngay lên trang đầu thi phẩm thơ tự do đầu tiên như tuyên ngôn trong Tôi không còn cô độc :
"... Ở đây tôi là một vị hoàng đế đầy đủ quyền uy. Bởi vì người vào trong đất đai của tôi, ngươi hoàn toàn tự do để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục, nếu người muốn nhập lãnh thổ hoàn toàn tự do và có thể ném cuốn sách ta ra cửa sổ ... ( THANH TÂM TUYỀN )
Trần thanh Hiệp được như một Đinh gia Trinh bình thơ Nguyễn xuân Sanh xưa kia - TT Hiệp tập tọng làm thơ, viết bình luận bênh hộ cho bạn thơ TTT. Nhưng chính bản thân Trần thanh Hiệp mang tiếng làm thơ, nhưng là ăn cắp thơ Louis Aragon:
cửa sổ
cửa sổ
cửa sổ
...............................
TRẦN THANH HIỆP
nào có gì khác hơn :
persienne
persienne
persienne ....
............................
LOUIS ARAGON
Lối thơ tượng trưng, phi lý không lý do của Atagon, Eluard là thơ hay, không phải lối thơ ăn cắp của Trần thanh Hiệp - hoặcTTTuyeền sao chép tư tưởng ,rồi tự cho khám phá mới ; " người phải thần phục nếu ngươi muốn nhập lãnh thổ " v.v... và v.v...
Còn nhiều câu thơ rất vô nghĩa trong thơ Thanh tâm Tuyền :
...Ngực anh thủng lỗ đan tròn
Lưỡi lê thấu phổ
im còn nhảy đập
Nhịp ba nhịp ba
Có người cầm súng bắn vào đầu
Đạn nổ nhịp ba
Không chết
Anh ngồi nhỏm dậy
Khỏe mạnh lạ thường ...'
THANH TÂM TUYỀN
Hệt văn kỳ tình trinh thám kỳ tình, võ hiệp Người Nhạn Trắng , Phi Long , Phú Đức... phi ngựa, bắn súng , chấp viên đạn đồng bắn vào da thịt - con người kia không chết, còn khỏe mạnh lạ thường, mro62i phi lên không trung ... Cho đó tượng trưng sức mạnh tin tưởng của con người vô biên , thật là thứ so sánh ngây thơ, trẻ nít đang tập làm người lớn thích suy tư, tìm hình tượng mới .
Truyện ngắn Đại lộ , TTTuyền ít lập dị, ít khó hiểu như thơ. Tuy nhiên, Tôi không còn cô độc có một số ít bài vượt khuôn sáo : Mắt biếc, Dạ khúc, Anh em Cộng hòa, hoặc 1 bài thơ trả lời Quách Thoại
Còn sáng tạo, ta hãy còn sáng tạo :
" Thoại ơi , Thoại ơi: không biết khóc
Nhìn dòng nước mắt ướp mặn môi,
Không chết trần truồng không thể được
Cuộc sống phải thừa như sáng mai ..."
Đúng là cảm xúc thực, không thương vay khóc mướn, không dùng cái chính mình không biết để bịp lòe người khác..
Tôi nhớ, có một lần, tuần báo Văn nghệ tiền phong ( chủ nhiệm: Hồ Anh ) gọi là thơ hũ nút , nhai lại lối gọi tên cho đỡ nhớ của TTTuyền;
Vịt luộc, vịt luộc, vịt luộc
Và phần nhiều những bài thơ khác thiếu rung cảm, suy tư vay mượn, hệt cậu học trò thích khác người , tập làm thơ bằng cách dịch thơ triết lý. Song, phải thừa nhận: TTTuyền là một người làm thơ dư khả năng làm thơ mới, lục bát không tuyệt hay , nhưng không tầm thường.
Trích thơ. thanh tâm tuyền .
1.- HÃY CHO ANH KHÓC BẰNG MẮT EM
NHỮNG CUỘC TÌNH DUYÊN BUDAPEST
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Anh một trái tim em một trái tim
Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác
Hãy cho anh giận bằng ngực em
Như chúng bắn lửa vào thép
Nỗi sờn họng súng
Mỗi ngã tư mặt anh là hàng rào
Hãy cho anh la bằng cổ em
Trời mai bay rực rỡ
Chúng nó say giết người như gạch ngói
Như lòng chúng ta thèm khát tương lai
Hãy cho anh run bằng má em
Khi chúng đóng mọi đường biên giới
Lùa những ngón tay vào nhau
Thân thể anh chờ đợi
Hãy cho anh ngủ bằng trán em
Đau dấu đạn
Đêm không bao không bao giờ đêm
Chúng tấn công hoài những buổi sáng
Hãy cho anh chết bằng da em
Trong giây xích chiến xa tội nghiệp
Anh sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi những người kế tiếp
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest .
THÁNG 12- 1956
TRÍCH SANG TẠO
2.- DẠ KHÚC
Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi giây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp chết mọi hy vọng
Nên anh dìu anh xa
Đi di chúng ta đến công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mất đắng
Như móng sắc thương đau
Đi đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris
Để anh được làm thi sỉ
Hay nửa đêm Hànội
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Chiếc kèn hát mãi than van
Điệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
Như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
Như bàn ghế không bằng
Thôi em hãy đứng dậy
Người bán hàng đã ngủ sau quầy
Anh đưa em đi trốn
Những dày vò ngày mai. []
TRÍCH SÁNG TAO
thơ thanh tâm tuyền
( còn tiếp )