Thứ Sáu, 5 tháng 7, 2013

thi nhân - thi ca & cảm nhận : quách tấn / lê ngọc trác - 9


                   quách tấn : người giữ đền tài hoa 
                                         lê ngọc trác 


     Quách Tấn  tự Đăng Đạo, hiệu là Trường Xuyên.  Sinh ngày 4 tháng 1 năm 1910 tại thôn Trương Định, Bình Khê, tỉnh Bình Định, từ trần vào ngày 21 tháng 12 năm 1992 tại Nha Trang.

     Những năm của thế kỷ XX,, thơ Quách Tấn thường xuyên xuất hiện trên An Nam tạp chí ở Hànội, Phụ nữ tân văn  ở Sài Gòn và trên báo Tiếng dân ở Huế.   Chí sĩ Phan bội Châu, thi sĩ Tản Đà Hàn Mặc Tử đã cảm mến và có những đánh giá cao về  thơ Quách Tấn .

    Từ 1929 đến 1941, trên các diễn đàn văn học nghệ thuật và báo chí trong cả nước đã liên tục diễn ra những tranh luận giữa những người thuộc hai trương phái: thơ cũ thơ mới.  Hơn 10  năm trời, những người khởi xướng và ủng hộ thơ mới đã đấu tranh gay gắt với tường phái thơ cũ.   Và mở ra 1 thời đại mới cho nền thi ca Vệtnam ; lúc bấy giờ Quách Tấn không tham gia vào cuộc tranh luận giữa 2 trường phái: thơ cũ và thơ mới.  

     Nhưng, vào 1931, Quách Tấn xuất bản tập thơ Đường :  Một tấm lòng  -  2 năm sau cho ra mắt tập thơ Đường thứ 2  : Mùa cổ điển.   Lúc bấy giờ, có người cho rằng Quách Tấn là sứ giả cuối cùng dòng  t hơ cũ - thơ Đường luật - Riêng nhà  phê bình văn học Hoài Thanh nhận định:

    ' Thơ Đường như người đàn bà khó chịu kia, họa chỉ có Quách Tấn.   Mối lương duyên   từ Một tấm lòng đến Mùa cổ điển thì thực là đằm thắm.  Mùa cổ điển là 1 tập thơ  cũ rất có giá trị.  Mùa cổ điển của Quách Tấn gồm cả cái giàu sang của Thái Can, J. Leiba, súc tích lại trong 1 khuôn khổ rắn chắc ...".

     Trong tập thơ Một tấm lòng, Quách Tấn viết những câu  mà nhà thơ Chế lan Viên cho rằng đáng xếp  hạng vào những câu thơ hay nhất Viêtnam :

                                           Lụy nhớ mưa ngàn tuôn nườm nượp 
                                          Tóc thề mây núi bạc phơ phơ  
                                                 ĐÁ VỌNG PHU

   Bài thơ  Đêm thu nghe quạ kêu trong Mùa cổ điển, Quách Tấn đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người yêu thơ bao đời nay.   Nhiều học giả, nhà nghiên cứu văn học - cho rằng - thơ Đường của Quách Tấn sánh ngang với các nhà thơ đời Đường, đời Tống của Trung Hoa.   Chính thi sĩ Tản Đà đã sắp [ hạng thơ ] Quách Tấn ngang hàng  với [ thơ ] Hồ xuân Hương  và Nguyễn Khuyến  :
              
                                         Từ Ô Y hạng  rủ rê sang,
                                          Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng ... 
                                         Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng,
                                         Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng,
                                          Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
                                       .  Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng ?
                                         Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi, 
                                         Tình hoang mang gợi tứ hoang mang ....

                                                                             MÙA CỔ ĐIỂN

    Trong lúc những người bạn thân thiết của Quách Tấn , như Bích Khê, Hàn mặc Tử, Chế lan Viên từ bỏ thơ cũ, bước sang  lĩnh vực thơ mới.   Có người tiếp cận  với trường thơ tượng
trưng phương tây [ thì ] Quách Tấn vẫn không từ bỏ dòng thơ cũ.   Ông [ từng ] tâm sự :

     " Đối với thơ, tôi không tác biệt mới và cũ.   Tôi chọn  lưa thể Đường luật vì thấy thích hợp với tâm hồn mình.   Vì đã lựa chọn con đường đi, nên từ 1932 đến 1941, mặc dầu phong trào thơ mới sôi nổi, , tôi vẫn giữ thể thơ Đường luật..."

     Quách Tấn  tự nhận  mình là người giữ đền, giữ  từ đường, lo hương hỏa dòng tộc.  Ông động viên và cầu chúc các bạn thơ của mình bay đến chân trời mới, gặt hái những thành công mới trên con đường sáng tạo nghệ thuật thơ ca.     Trong suốt cuộc đời sáng tác, Quách Tấn vẫn thủy chung với dòng thơ cũ.   Ông để lại cho đời những tác phẩm: 

     về thơ :  Một tấm lòng  ( 1939), Mùa cổ điển ( 1941), Động bóng chiều  ( 1965), Mộng ngân Sơn ( 1967), Gọi trăng ( 1973 ), Mây cổ tháp ( 1973 ), Giàn hoa lý, Trường Xuyên   thi thoại 
 (    bản thảo chưa xuất bản

     Quách Tấn còn dịch  các tập thơ Lữ đường thi ( 2001), Tố Như Thi ( 1995 )- ngoài ra -  Quách Tấn còn hoàn thành tác phẩm văn xuôi, như :  Bước lãng du ( 1965), Non nước Bình Định
( 1968), Xứ trầm hương ( 1969)   -  và các hồi ký  Cảnh cũ còn đây ( bản thảo ), Hồi ký Quách Tấn ( 2005), Đôi nét về Hàn Mặc Tử ( 1967), Đôi nét về Đào Tấn ( bản thảo ), Đời Bích Khê
( 1971 ) ...

   Thơ Quách Tấn  ý mới, lời mới, sâu sắc, tình cảm nồng nàn, mang đậm 1 tâm hồn phương đông, tâm hồn Việtnam.   Trong thơ Quách Tấn, con người và đất trời, cảnh và tình hòa quyện vào nhau như máu thịt, hơi thở sự sống đầy thơ mộng :

                                     Bến lạ  thu bay lá rợp đường
                                     Khôn tìm giấc mộng ẩn canh sương 
                                     Tờ thơ gió lật trăng bên gối
                                     Giếng ngọt vườn quê khởi nhớ thương 
                               ...   Sân hoa pháy pháy mưa hoàng cúc
                                    Thuyền cỏ hiu hiu gió bích đầm
                                     Nâng chén hương trà pha độc ẩm 
                                     Lặng nhìn thu cảnh ửng thu tâm.

                                            ĐỌNG BÓNG CHIỀU

   và lung linh kỳ ảo cảnh sắc thiên nhiên :

                                     Mưa xửng rừng thêm vắng
                                     Mong tìm một bóng chim 
                                     Gió rung cành rụng nắng 
                                     Bừng sáng cánh hoa sim 
                            
                                                             MỘNG NGÂN SƠN

     Quách Tấn còn viết những câu thơ mà khi chúng ta đọc xong, nghe rúng động trong hồn.   Chúng ta cảm nhận được sự cô  đơn của kiếp người giữa đất trời, giữa thời gian, không gian mênh mông sâu thẳm :

                                   Chớp mắt nghìn thu quạnh
                                   Về đâu chiếc lá bay ...

     thời kỳ về sau, Quách Tấn mang đậm màu sắc triết lý  Phật giáo :

                                  Nghìn xưa không còn nữa 
                                  Nghìn sau rồi cũng không
                                  Phảng phất bờ trăng rạng 
                                  Hương Ưu đàm trổ bông
                                               THOÁNG HIỆN

   Đây cũng chính là 4 câu thơ khắc trên mộ bia Quách Tấn sau khi qua đời.   Nhiểu người đã thấy lòng mình tĩnh lặng, bình an, khi đọc những câu trên.

    Suốt cuộc đời QuáchTấn  đã sáng tác trên 1500 bài thơ Đường.   Ông thật sự là một
 người giữ đền  tài hoa.   Và, có  những cống hiến lớn đối với lịch sử thi ca Việtnam.   Qua những bài thơ hay, những câu thơ đẹp của Quách Tấn cho chúng ta nhận ra một điều :                         không có thơ cũ và thơ mới, chỉ có thơ hay và chưa hay.

    Những bài  thơ sống mãi với thời gian là những bài được viết bởi những cây bút chân tài và được viết ra từ rung động chân thật tột cùng, với ngọn từ đẹp, phong phú, hấp dẫn [ đủ ] l;àm lay động  tâm hồn [ biết] bao thế hệ người yêu thơ . []

                                                         ( kỳ sau:  phạm công thiện ) 

        lê ngọc trác 

   
         tài liệu tham khảo + trích dẫn:

- Một thời đại thi ca / Hoài Thanh ( Nguyễn đức Phi6n , Hànội 1941)
- Tự điển văn hóa Việtnam  ( 1999)
- Đời Bích Khê / Quách Tấn ( 1971)
- Nhà văn hiện đại  / Vũ ngọc Phan  ( 1972 )
- Thi nhân Viêtnam / Hoài Thanh + Hoài Chân  ( Nxb Văn học, 2005 ) 
- Nhiều tác giả  ( 2007

    


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét