Thứ Năm, 11 tháng 7, 2013

vài bài thơ hay thi sĩ quang dũng / trần lê văn giới thiệu



                           vài bài thơ hay  thi sĩ  quang dũng
                                                   trần lê văn  giới thiệu

Lời dẫn:

       (...)   Khoảng cuối mùa xuân 1947, Quang Dũng, nguyên phái viên Phòng quân vụ Bắc bộ và học viên lớp Bổ túc quân sự ở Tông ( Sơn Tây )  về Phùng, giã từ mẹ già, vợ trẻ, con thơ để gia nhập Đoàn quân Tây Tiến  .  Tây Tiến là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp  với bộ đội Lào, bảo vệ  biên giới  Lào- Việt để làm tiêu  hao lực lượng quân đội thực dân Pháp ở thượng Lào để hỗ trợ cho những vùng khác trên đất Lào.  Địa bàn đóng quân và hoạt động của Tây Tiến khá rộng: từ châu Mai, châu Mộc sang Sầm Nứa, rồi vòng về qua miền tây Thanh Hóa. (...)  Đoàn quân Tây Tiến, sau 1 thời gian hoạt động ở Lào trở về, thành lập Trung đoàn 52, đại đội trưởng là Quang Dũng ở đó đến cuối 1948 rồi chuyển sang đơn vị khác ( .. .)
       Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù lưu Chanh,    anh viết bài thơ  bồi hồi thương tiếc
 [ có câu ] :

                                                  Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ! 

    (...)  Trước Cách mạng, mới ở trường ra, Quang Dũng đã có lúc bỏ nhà ra đi, đánh đàn, kéo nhị cho một gánh hát.   Rồi anh lại đi rất xa, để sống bằng nghề vẽ tranh.   Năm 1944, anh có bài thơ Giang hồ  :

                                               ... Nhẹ nhàng thân gửi kiếp ra đi.

     Những năm kháng chiến chống Pháp, anh có dịp đi nhiều.  Những nẻo đường Tây bắc, Đông bắc, Liên khu III, Liên khu IV... đều có vết chân anh.   Một biểu hiệu tình yêu của anh đối với đất nước là cái thú được luôn luôn cất bước trên những dặm đường :

                                                Mũ hãy ngả cho nắng vàng mái tóc 
                                                Túi lên vai trời hửng núi xa rồi
                                               Cột dây thép gió lùa qua rào rạo
                                               Hát lên đường. muôn dặm đường xa xôi .

    Đi đâu, ở đâu, anh cũng nhớ  núi Ba Vì quê hương, làng Phùng, huyện Đan Phượng của anh vốn thuộc về xứ Đoài.   (...)  Quang Dũng yêu thiên nhiên, vá trước hết là yêu người, tình người ở khắp nơi vun xới, chăm sóc thiên nhiên.   Có người nói thơ Quang Dũng thiên về sự  buồn hơn sư vui. Nói  là  thiên về thì không hoàn toàn chính xác.  Đúng ra, thơ anh có những lúc trầm xuống, lắng buồng gợi buồn.    Bản chất con người của anh cũng như thơ anh không phải là bản chất buồn.   Những ai quen anh đều biết anh là người vui tính, giỏi hài hước, một thứ hài hước lành mạnh và  đôn hậu.
   (...)
 Ngót 40 năm kết bạn với  nhau, tôi đã chứng kiến ở anh: những cơn mưa bóng mây như thế, trong quãng thời gian chung sống với nhau ở Khu III, Khu IV rồi cùng về Hànội.   Có ngày xuân, anh cao hứng vẽ bức tranh Cô gái Thái bên suối hoa đàoVẽ xong, anh sung sướng đặt tranh lên bàn, dựa vào tường rồi cúi chào cái đẹp trong tranh. Tôi phải can ngăn và giữ nó làm kỷ niệm. Có lần gặp lại người tình cũ ở Hànội, anh ngây ngất làm 1 mạch mấy bài thơ  Không để  , có nhiều câu ... [  như  ]:

                                               ... Bỏ em, anh đi
                                                  Đường hai mươi năm
                                                  Dài bao chia ly ...

 Rời [ tôi ] chép lại những bài ấy vào sổ tay của tôi ( ý hẳn  để khỏi' lộ bem'  với bà xã của anh ).  Mấy ngày sau, chẳng biết nghĩ  ngợi thế nào, anh đến, yêu cầu tôi cắt trả anh mấy bài đó để anh  hỏa thiêu chúng, vì anh cho rằng  thơ ấy trẻ con quá . Tôi phải lý sự : Sổ tay của tôi, thơ ông chép vào đấy là của tôi rồi, ông không có quyền hủy bỏ   Thế là anh đành chịu.  Được bảo quản như vậy, thơ   Không đề  mới còn tồn tại để ra mắt bạn đọc trong tập  Mây đầu ô  này . (...)

    Ba năm nay, Quang Dũng chẳng may bị bệnh tim mạch, một chứng bệnh nan y, khiến cho anh phát âm không  còn [ chuẩn ] , bước đi chuệnh choạng.  Không nản chí, anh vẫn cố gắng luyện tập Yoga và nuôi hy vọng lấy lại sức khỏe.  mặc ai khuyên gỉải, năm 1983, 1984, 2 lần anh quyết tâm vào Lâm Đồng, vừa thăm con gái dạy học trong ấy , vừa định thâm nhập thực tế để viết. 

      Xuân 1984, ở Lâm Đồng ra, anh đọc cho tôi nghe  mấy tranh chép, rất vui.   Giữa mùa hè 1984, từ Lâm Đồng, anh gửi cho tôi và mấy bạn khác. Thư, có đoạn viết: 

      ' Một tin mừng cho riêng tôi là... tôi bị liệt tay phải, cầm bút rời tay ... Thế nhưng tôi tập mãi và kiên trì tập cái tay phải, cho đến hôm nay, tôi vui sướng viết được cái thư này . Tôi đã viết được và điều khiển những ngón tay cầm đũa cũng được rồi ..!'  

      Mấy tháng sau, anh lại ở Lâm Đồng ra, và phải vào bệnh viện.  Một buổi sáng mùa thu, tôi và mấy bạn vào thăm anh, thấy anh  ngồi ngắm mậy trôi qua cửa sổ bệnh viện Tôi [ Trần lê Văn ] làm một bài thơ, xin trích ra đây mấy câu, gọi là thoáng ghi hình ảnh anh [ Quang Dũng ] hôm ấy :

                                  ... Anh bình lặng trắng phau ngồi đó
                                      Hay một đám mây mùa thu mới lạc vào phòng 
                                     Hồn anh vẫn là mây ruổi rong 
                                     Chân lại tập đi như thuở nhỏ
                                     Mỗi tiếng  nói tập phát âm dầu khó 
                                     Nhưng mạch thơ còn tuôn chảy trong tim ...
                                                TRẦN LÊ VĂN 
                                      (...)

     Chân hình Quang Dũng không một chút nào giống với một thứ giả hình Quang Dũng mà trong thời kỳ Mỹ-ngụy, một vài kẻ mạo danh nhà báo, nhà văn ở Sài  Gòn đã vẽ vời ra . Họ tán tụng Quang Dũng với dụng ý xấu ... (  cho Quang Dũng là con trai Tản Đà với tên thật Nguyễn khắc Phục - BT  )
    [ Thật ra ] Quang Dũng có tên khai sinh là Bùi đình DIỄM  (  ê dấu ngã - sic )* , con ông  Bùi đình Khuê và bà Trần thị Hợi, quê ở làng Phùng    ( Phượng Trì, huyện Đan Phượng ).

----
 * tên thật là Bùi đình DIỆM ( dấu nặng )  , em ruột của  đại  tá QLVNCH, Bùi đình ĐẠM , từng giám đốc  Nha động viên bộ Quốc phòng ( miền Nam ) . ( BT ). 

       Lại cũng ở Sài Gòn, năm 1969 ( sic -  1956 mới chính xác  )   trong tờ báo Sinh lực, N.T.T. * nào đó đưa tinQuang Dũng đã chết , thương hão  khóc vờ ... 

    7-10- 1985
  TRẦN LÊ VĂN 

-----
*  N.T.T. là  Nguyễn Thanh Thy bút danh khác  của  nhà văn Thanh Thương Hoàng, khi  ấy là con rể ông Lê Khải  Trạch,  đổng lý văn phòng  Tổng trưởng thông tin Trần  chánh Thành ( sau 30- 4 1975   tự thắt cổ tự vẫn).   Ông   Trần chánh Thành  từng là thẩm phán tòa án Khu IV  và ông Trạch  trong vai ' anh nghĩa tử của Quang Dũng  khi ở Khu IV.  Quang Dũng tặng ' đàn anh' tập bản thảo thơ + phác họa chân dung do chính Quang Dũng  tự họa, với tiểu sử trích ngang, ghi '  từng theo học Trường Hoàng Phố /  Quốc dân đảng Trung quốc...' .
     Thanh Thương Hoàng , được bố vợ  cấp tư liệu,  người đầu tiên tung tài liệu về Quang Dũng trên tạp chí Sinh lực,  tạo  một dư luận văn giới sôi nổi . Tôi không còn nhớ bài viết ấy đề cập Quang Dũng đã chết hay  sống, nhưng ,những bài thơ Quang Dũng được phổ biến Saigon khi ấy được nhiều đọc giả   hoan nghênh. Tiếp theo những năm sau, Ký giả Lô Răng   tự nhận là'   em rể hụt Quang Dũng' viết bài  ' ăn theo hào quang Quang Dũng.'   []
     ( BT ). 
                                    
                                  
  đường bá bổn chọn thơ quang dũng:


                                               1.-  NHỚ MỘT BÓNG NÚi

                                         "Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
                                          về núi Sài Sơn ngó luá vàng
                                          Sông Đáy chậm nguồn qua  phủ Quốc
                                          sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng " 

                                         Ngày ấy ra đi người hẹn núi
                                         Bây giờ Đất Nước đã hồi xuân 
                                         Ba mươi năm chẵn bao mùa lúa
                                         Vẫn ngọt ngào thơm nắng chuyển vần  

                                        Vẫn sáng vầng trăng ru tiếng sáo 
                                        Diều khuya  trầm bổng giọng quê hương  
                                        Đất đá ong trong lòng giếng mát 
                                        Ôi Sơn Tây, Sài Sơn yêu thương !
                 
                                        Sài Sơn kháng chiến mùa đông ấy
                                        Đón Bác dừng chân, cuộc đánh dài 
                                        Mở những trang sau Rừng việt Bắc
                                      - Buổi đầu kháng chiến Bác qua đây  

                                        Hoàng Xá, vệ binh giầy mới phát
                                        Ngựa nào hí lộng  gió bờ tre
                                       Tổng chỉ huy vào xin lệnh mới 
                                        Đầu năm súng vọng thủ đô về 

                                       Ôi những xe bò  ắp bánh chưng
                                       Quân ta năm mới buổi lên đường!
                                       Dân đến liên hoan chiều lửa trại
                                       Đôi mắt Sài Sơn sao vấn vương ?                 

                                       Ba chục năm  tròn, hai cuộc  thắng 
                                      Trăng nay diều lại sáo lưng trời 
                                      Sài Sơn núi soi mương sáng 
                                      Đồng ta Bương Cấn lại  xanh tươi 
  
                                      Mãi mãi xanh tươi nguồn Đáy chậm
                                      Ngô khoai dâu mía dệt đôi bờ 
                                      Quê hương trường cửu cùng Non Nước 
                                      Ba chục năm trời vẹn  ý  thơ .
                                                     8 -7 -1976



                                        2.- NHỮNG NGƯỜI TÓC ĐÃ TRẮNG

                                     Anh chửa dừng chân, dầu trắng tóc 
                                     Vẫn không trang sách đợi hiên nhàn 
                                     Anh vẫn đêm đêm đường pháo sáng
                                     Hiểm nghèo  từng bước vượt gian nan 

                                     Những dốc, lại khe, và những dốc
                                     Đường mòn võng mắc mấu cây thừa
                                     Lại ăn cơm vắt và rau dại 
                                     Hốc núi nhom tra nước ống bơ 

                                     Giữa lá rừng xanh càng trắng tóc 
                                     Khúc hành quân từ bước hoa niên 
                                     Chen lẫn tiếng cười khinh nỗi nhọc 
                                     Bước trên sấm đất dậy bom rền
                                     Bóng anh trắng vách Trương Sơn dựng                            
                                     Nhấp nhô hết xuống lại trườn lên .
                                            1968

                                                              3.  PHA ĐIN *

                                      Như từng đợt sóng bủa lện trời
                                      Hùng vĩ Pha Đin gì sanh được
                                      Lắc đầu tài xế thấm mồ hôi
                                      Bến dốc chon von ngàn thước vực

                                      Lên thì ' Cổng trời'  xuống vực thẳm
                                      Uốn quanh đá trắng lượn vòng thang
                                      Ngựa thồ đỉnh dốc nhỏ như kiến
                                      Đi trong đường mây rắc bụi  vàng 

                                       Đẹp như sơn thủy tranh đới Tống
                                      Ầm tiếng xe lu vách đá vọng
                                       Mờ ảo công trường hiện dưới lau
                                       Đôi hạt cầu đường lán lưu động 
                                       Còn bay than bếp dưới hoa đào 

                                       Hùng vĩ Pha Đin gì sanh được 
                                       Đường của dân công đi dưới đuốc
                                       Giọng hò Nghệ Tĩnh nức lòng quân
                                       Gạo, muối đêm ngày vây hãm giặc 

                                       Đâu đây đứt pháo xích kêu giòn 
                                       Liệt sĩ tên còn xanh núi non
                                       Cơn gió bóng mây qua đỉnh Việt
                                       Mà như lau sậy có linh hồn 

                                       Dừng xe trông  mây nhìn phương Nam
                                       Hànội mốc đường cây bốn trăm 
                                       Hợp tác Bình Thuận rải chân dốc 
                                       Gạo quê Tiền Hải đã thơm rừng 

                                      Hùng vĩ Pha  Đin gì sánh được 
                                      Giang sơn gấm vóc một miền Tây
                                      Mới thấy yêu sao là Đất Nước
                                      Pha Đin  ngàn chớp nổi hồ mây.

-------
*     PHẠ  có  dấu nặng , tiếng thái  là TRỜi , ĐIN   là đất.  Phần đông văn thi sĩ gốc người Kinh  đều gọi TRỜiPHA (   không dấu nặng ) .  Ngay chàng viết tựa Mây đầu ô  -  phu nhân là  người Thái -   liệu ,  có đồng tình  PHA hay PHẠ mới đúng  là TRỜI đây  ? 

    -  một thi sĩ khác rất giỏi tiếng Thái, từng dịch tác phẩm  tiếng  Thái  sang việt, đó là Nguyễn Khôi

( 1938 -    )  sinh ở Yên Bái, sống nhiều năm ở Mường La ( Sơn La ) , tôi  cũng chưa thấy  chàng xác  nhận PHA hay PH TRỜI  ?  

    - riêng tôi sống ở đất  Thái (  Mường Lò / Nghĩa Lộ /  Yên  Bái )  - từ nhỏ tới năm 18 tuổi  mới  về Hànội  học,  thì chưa lần nào nghe người Thái gọi TRỜi PHA cả. 



                                                 4. MỘT MÙA THU TỚI 


                                       Anh nhỉ một mùa thu sắp tới
                                        Đường mai Hànội gió thênh thang 
                                       Chúng mình chen  bước vào thư viện
                                       Chân nhẹ xôn xao động lá vàng 
                                       Những mái nhà tươi cờ chiến thắng
                                       Phố phường thu đến nắng xôn xang.

                                       Đồng quê sẽ mãi thơm mùi lúa
                                       Phương phức hương mùa thoảng ấm no
                                       Xanh ngát xanh rờn hơi gió chạy 
                                       Thanh bình đôi điệu hát câu thơ 
                                       Tiếng trống chèo khuya trăng lại rộn
                                       Sông êm dòng nước nhịp khoan hò .

                                       Dọc những mùa thu nhiều kỷ niệm
                                       Đường lên  phương Bắc nhớ nhung ai
                                       Đường về Nam Bộ bao trông ngóng 
                                       Hiền hậu non xanh với biển dài
                                       Dọc những đường thu muôn nẻo ấy
                                       Rất nhiều nghệ sĩ nhớ xa xôi 
                                       Đường qua gian khổ bao ngày tháng
                                       Từng nghe thu lại ấm hương đời.

                                       Đâu đó chiều xanh bên ngõ trúc
                                       Vợ hiền đang nựng chút con thơ
                                       Nghẹn ngào đôi mắt rưng rưng lệ 
                                       Anh nhỉ ! muôn đời mơn Tự Do.
                                                    1962. 

                                                  5.  MẮT NGƯỜI SƠN TÂY

                
                                        Em ở thành Sơn chạy giặc về 
                                        Tôi từ chinh chiến cũng ra đi 
                                        Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt 
                                        Chiều xanh không thấy núi Ba Vì

                                        Vầng trán  em mang trời quê hương
                                         Mắt em như nước giếng thôn làng
                                        Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
                                        Em đã  bao ngày em nhớ thương ?...

                                        Mẹ tôi em có gặp đâu không 
                                        Những xác già nua ngập cánh đồng 
                                        Tôi nhớ một thằng em bé nhỏ
                                        Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông

                                       Tử độ thu về hoang bóng giặc 
                                       Điêu tàn ơi lại nối điêu tàn 
                                       Đất đá ong khô nhiều suối lệ
                                       Em đã bao ngày lệ chứa chan 

                                       Đôi mắt người Sơn  Tây 
                                       U uẩn chiều lưu lạc 
                                      Thương vườn ruộng khôn khuây 

                                       Bao giớ trở lại đồng Bương Cấn 
                                       Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng 
                                       Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
                                      Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng

                                      Bao giờ tôi  gặp em lần nữa
                                      Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca
                                      Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ
                                      Còn có bao giờ em nhớ  ta ?
                                                  1949

                                                        6.- TÂY TIẾN


                                        Sông Mã xa  rồi Tấy Tiến ơi !
                                        Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
                                        Sài Khao  sương lớp đoàn quân mỏi
                                        Mường Lát hoa về trong đêm hơi
                                        Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
                                        Heo hút cồn mây súng ngửi trời 
                                        Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
                                        Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
                                        Anh bạn dãi dầu không bước nữa 
                                        Gục lên mũi súng bỏ quên đời!
                                       Chiều chiều oai linh thác gầm thét
                                       Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
                                       Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói 
                                       Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

                                                              *

                                       Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa
                                       Kìa em xiêm áo tự bao giờ 
                                       Khèn lên man điệu nàng e ấp 
                                       Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
                                       Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
                                       Có thấy hồn lau nẻo bến bờ 
                                       Có nhớ người trên độc mộc 
                                       Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

                                                             *

                                       Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc 
                                       Quân xanh màu lá dữ oai hùm 
                                       Mắt  trừng gửi mộng qua biên giới 
                                       Đêm mơ Hànội dáng kiều thơm
                                       Rải rác biên cương mồ viễn xứ
                                      Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
                                      Áo bào thay chiếu anh về đất 
                                      Sông Mã gầm lên khúc độc hành 

                                                             *

                                      Tây Tiến người đi không hẹn ước
                                      Đường lên thăm thẳm một chia phôi 
                                      Ai lên Tấy Tiến mùa xuân ấy 
                                      Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi .

                                                        PHÙ LƯU CHANH
                                                              1948

                                      thơ  quang dũng


(  trích  Mây đầu ô  / thơ Quang Dũng / Trần lê Văn viết tựa, Nxb Tác phẩm mới / Hội nhà văn / Hànội 1986  - In 4100 cuốn lần thứ 1, khổ 13 x 19 cm ,  sách dày 102 trang  - bìa Dương ngọc Cảnh.


                                                           


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét