lưu dân thi thoại.
cội nguồn xb, san jose 2003
thi sĩ lưu trần nguyễn
diên nghị + song nhị
Với một 'Mái tóc Trầm Hương', tập thơ đầu tay xuất bản năm 1997, tại thủ phủ tiểu bang California - mang dấu ấn của một cuộc tình,xác lập dáng đứng và bản sắc thơ ôm nay của Lưu trần Nguyễn. Thơ tình, một phạm trù không mới, nhưng, giải tỏa được một phần vấn nạn, liên quan đến con người, cuộc sống, đến hạnh phúc, bất hạnh. Đời kiếp của tình yêu: sâu đậm nhất vẫn al2 mối tình đầu. Thế Lữ của tiền chiến đã minh họa, " Cái thuở ban đầy lưu luyến ấy / Nghìn năm chưa dễ mấy ai quân." Nghìn năm dễ gì quên, phương chi, 30, 40 năm, sao không còn nhớ ? Tất cả những tha thiết, luyến lưu thơ mộng của một thời, đến một chặng đời đó, bắt gặp trở lại thảng thốt như một giấc chiêm bao:
Ba mươi năm chỉ là cơn mộng
Người đến thăm ta buổi sế chiều
Năm năm sau, dòng thơ Lưu trần Nguyễn rẽ sang ngã tư, soi rọi lại mình giữa trần thế bất an, ám ảnh đổ vỡ, mãi mãi thiệt thòi theo từng đời sống thăng trầm thời cuộc :
Ta cảm thấy sau một lần mất mát
Lại già đi từng sợi tóc thăng trầm
Một thời lưu luyến ấy đã trở thành quá khứ, từ một nơi chốn nào xưa, cảnh vật hoà quyện chia xẻ buồn vui với người, nay chỉ thành ảo ảnh. Tiếc nuối, trăn trở, dằn vặt, cơ hồ như thân lạc đà giữa sa mạc cháy bỏng, khát khao tiếng mưa rơi :
Dừng chân lại một thời lưu luyến
Cội xương rồng xưa trở nhánh gai đau
Sông trước mắt - sông chỉ là ảo bóng
Ta lạc đà khát cả tiếng mưa reo
Lưu trần Nguyễn chiêm nghiệm về cõi đời, cách nhận thức mang tính triết lý từ bi, " đời chỉ là bể khổ", con người 'mang tiếng khóc ban đầu mà ra'. (Cung oán ngâm khúc). Không những con người, sinh vật thượng đẳng, mà, vạn vật cũng đồng cảm trước những bi lụy tử sinh:
Ta bước chân theo vệt nắng nhòa
Buồn con sao nhỏ chết đêm qua
Hình như trong nỗi đau trần thế
Co vạn mầm sinh cũng khóc òa
Tỏ bày thái độ sống bằng lời tự thú chân thành, 'đi một kiếp con đường không tới đích' - nhưng không phải vì thế, mà ,đầu hàng, tĩnh tọa, cho nên, dù không tới đích, vẫn cứ phải, 'cứ lầm lũi trên muôn trùng hoang mạc'- lục tìm, khám phá , khai quật chất liệu nghệ thuật, không thể thiếu trong thơ. Lý tưởng sáng tạo thi ca đeo đẳng, kiên trì chấp nhận những khổ hạnh, thách thức, và, mãi lầm lũi âm thầm trong 'cái ta' của " lạc đà khổ hạnh giữa dòng thơ".
Qua nỗ lực bản thể, qua hoài bão phía trước; 'cái ta' đã toại nguyện phần nào, đủ nhận diện vóc dáng chính mình. 'cái ta' nguyên hình, óng ả sắc màu kiêu hãnh, tự mãn :
Bên chén trà khuya và đêm lặng thinh
Dường như ta đã hiện nguyên hình
Già nua trong đáy ly trầm mặc
Trong đáy ly đời, ta thủy tinh
Cũng có một góc tâm tư khác, Lưu trần Nguyễn dành riêng, hàng đêm gửi lòng thao thức về quê mẹ, nơi "Con đò nỗi đau": còn đó người em thơ, tháng ngày ủ dột, áo sờn vai ,ngồi mơ chén cơm chiều, thay bằng chén khoai khô chát miệng, trong nỗi buồn hiu quạnh . Rồi, từ những mảnh đời nhục nhằn, tăm tối đó, niềm tin vui hiện, tác giả hình dung tới quảng trường Ba đình, nơi tuổi trẻ Việt nam dựng tên làm lịch sử, xó kiếp đời tăm tối, lầm than :
Tà áo dài bay giữ quảng trường
Hoan ho tổ quốc, dậy loa vang
............
Bờ môi con gái đầy son phấn
Cũng biết gào lên nhịp tiến quân
TÀ ÁO DÀI BAY GIỮA QUẢNG TRƯỜNG
Thơ Lưu trần Nguyễn nhiều ấn tượng,ý tưởng có chiều sâu, làm nổi bật cảm xúc từ nội giới. tác giả sử dụng thi ngữ hài hòa, đủ âm hưởng của giọng điệu- chứng tỏ tác gỉ chú trọng đến kỹ thuật thơ , càng cô đọng thì càng truyền cảm, thuyết phục [người đọc]. Cảm xúc thẩm mỹ từ ngoại cảnh đưa lại, cũng al2 nét đặc trưng trong thơ Lưu trần Nguyễn. Tác giả là một tên tuổi trong làng thơ hải ngoại. Anh làm thơ, từ thuở còn trên ghế nhà trường. Thơ của Lưu trần Nguyễn thể hiện, như con người của anh : cuộc sống chừng mực, chuẩn độ, trầm lặng và hướng nội. Tác giả là một thành viên của Cơ sở thi văn Cội nguồn, anh đã đóng góp nhiều tác phẩm thơ , văn giá trị cho các tuyển tập do Cội nguồn ấn hành.
Lưu trần Nguyễn, bút hiệu của Nguyễn gia Khánh, quê quán Hải phòng. ( Bắc bộ) Di cư vào Nam 1954. Bị động viên, khóa 25 Trường Võ bị Thủ đức, sau 30-4-75, đi tập trung cải tạo, 7 năm tù, qua khắp các trại giam từ nam ra bắc.
Hiện nay, tác giả cùng gia đình sinh sống ở Sacramento. []
trích nguyên tác thơ lưu trần nguyễn.
2/ 7 bài
1. TÀ ÁO DÀI BAY GIỮA QUẢNG TRƯỜNG
GỬI TUỔI TRẺ VIỆTNAM
Ta thấy em đứng giữa hoa vàng
Bừng lên ánh mắt buổi vinh quang
Bờ môi con gái ngời son phấn
Cũng biết gào lên nhịp tiến quân
Tà áo dài bay giữa quảng trường
Hoan hô tổ quốc dậy loa vang
Ta nghe trong trái tim già cỗi
Nghìn lưỡi dao đâm nhói ngỡ ngàng
Lá cỏ cúi đầu em bước qua
Đài thiêng chiến sĩ trận vong xưa
Bàn tay thiếu nữ cài hoa trắng
Bức tượng đồng kia cũng khóc òa
Tuổi trẻ ùa lên cơn lốc xoáy
Từng tên mạt tướng phải chau mày
Ngủ mê trên những hào quang cũ
Giấu mặt mơ vòng hoa hổ ngươi
Ta thấy em đứng giữa quảng trường
Ngời lên ánh mắt, Triệu, Trưng vương
Bàn tay chưa chép tỉnh thư đã,
Chép cả nghìn trang hịch Cần vương.
2. NỖI BUỒN SA MẠC
Lê chân bước lãng quên đời di tật
Tình trăm năm nặng một khối u đầy
Nơi ước hẹn là muôn triều cát động
Sá gi đây sa mạc bủa trùng vây
Dừng chân lại chốn một thời lưu luyến
Cội xương rồng trổ nhánh gai đau
Sông trước mắt - sông chỉ là ảo bóng
Ta lạc đà khát cả tiếng mưa reo
Lần theo mãi dấu chân hờn bộ lạc
Bỏ sau lưng biển cát đã nên đồi
Ơi cơn nóng, ánh mặt trời cực ác
Hủy tình ta, còn lại nấm tro rơi
Đêm ủ xuống những men nồng chất ngất
Trên cành gai chim cú điểm danh người
Đi một kiếp còn không tới đích
Nụ cười em - phương Bắc, chuyến tàu xuôi
Cứ lầm lũi trên muôn trùng hoang mạc
Khối u tình ấp ủ trĩu trên vai
Đâu dấu ấn của một thời kiêu bại
Bóng lạc đà hun hút cát hoa bay.
lưu trần nguyễn
( sđd: tr. 289- 295)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét