Thứ Hai, 10 tháng 6, 2013
một mình một ngựa / nguyên sa -18 - 3
một mình một ngựa 18- 3
nguyên sa
5
Lời tòa soạn báo ' Độc lập' 9 tháng 5/ 1970)
Bạn sinh viên LÊ HẢI VÂN * gửi cho Kiều Phong lá thư thứ 2, xin
' mượn đất 'để thưa chuyện với ông Nguyễn nhật Duật ( thư đầu của bạn Lê hải Vân đã được ông Nguyễn nhật Duật trả lời trên tuần báo Khởi hành ). Mời bạn đọc cùng với K.P., ' tạm trốn thời cuộc ', theo dõi vụ thảo luận sôi nổi này :
Kính gửi bác Kiều Phong,
Thưa bác, sau lá thư của cháu, đã ghi nhận được những phản ứng của các ông Nguyễn nhật Duật & Viên Linh. Vây xin bác vui lòng cho mượn đất để cháu dược lĩnh giáo 2 ông Linh và Duật . Thâm tạ .'
lê hải vân
------
lời dẫn :
* Nguyên Sa không chỉ hóa thân là 1 sinh viên văn khoa, viết bài lai cảo, xin gửi đăng ở mục film du jour trên nhật báo Độc lập do Kiều Phong phụ trách
( tháng 5 / 1970) , mà còn viết bài đả kích Phạm công Thiện : một thi sĩ không qua trường lớp đại học, mạo nhận tốt nghiệp ở Đại học Yale( Hoa Kỳ) .
cũng như Nguyễn nhật Duật phản hồi lời kết án của Lê hài Vân mà PCThiện cũng vậy, viết một thư gửi thi sĩ Nguyên Sa, ( tức Lê hải Vân) đăng trên tạp chí Tư tưởng ( báo Phật giáo mà PCThiện hiện đang cộng tác ).
có đoạn :
'... tôi ( PCThiện ) mong ông có can đảm nhận tên thật của mình và nếu bút hiệu Lê hải Vân bị ông chối bỏ thì tôi xin chịu và coi bức thư gửi riêng cho Lê hải Vân để cho hình ảnh thi sĩ Nguyên Sa [ vẫn ] còn là thi sĩ . bài [ viết của LHVân ] xuất phát từ sự xếp đặt lâu dài mang đầy ' chính trị pha màu mật vụ '...'
theo Blog Nhị Linh , trang chủ sưu tập được 1 bài thơ rất hay của Nguyên Sa - tự biết thân biết phận ngồi xuống ngang hàng, thân mật tỏ bày, trò chuyện, xí xóa chín bỏ làm mười:
' ta muốn cùng ngươi một tối nay
đầu sông uống rượu cuối sông say '
...
nhớ đứng chờ ta ở cõi siêu ...
tự phế lối phê phán trịch thượng, bề trên mắng mỏ kẻ dưới - rất quân phiệt văn chương - như đối với ' sinh viên học triết Nguyễn nhật Duật , ' sa-đích Sơ dạ Hương ( Nguyễn quốc Trụ ) - và nhất là với thư ký tòa soạn tạp chí Văn - Nguyên Sa gọi đích danh : ' tên sa đích văn chương Trần phong Giao ' :
NÓI CHUYỆN VỚI PHẠM CÔNG THIỆN
Người vào tịnh thất sống ba năm
Cất tiếng không lời để nói năng
Buổi sáng thinh không chiều tới chậm
Tiền kiếp chen vô cạnh chỗ về.
Ta muốn cùng ngươi một tối nay
Đầu sông uống rượu cuối sông say
Người trên sườn núi, ta từ biển
Từ giấc mơ nào đã tới đây?
Dưới bóng tường im, giữa nhạc không
Đời đang phía trước bỗng mung lung
Thơ như hữu thể mà vô thể
Có cũng xong, mà không cũng xong .
Sóng dậy ta nhìn tục lụy ta
Những đi không tới, đến không ngờ
Xóa luôn thì dứt, nhưng tâm thức
Kinh Pháp Hoa nào đây cách xa ?
Trong chín ngàn âm có hải triều
Còn thêm một kiếp nữa phiêu lưu
Này người bỏ sóng say thuyền tỉnh
Nhớ đứng chờ ta ở cõi siêu ...
thơ PHẠM CÔNG THIỆN
( theo < Google. com. search / Phạm công Thiện gửi thi sĩ Nguyên Sa - Chuyển luận >
-----
* [...] chữ của B.T.
đường bá bổn
SAIGON JUNE, 11, 2013
thư gửi 2 ông nguyễn nhật duật & viên linh
Tôi xin phép được gọi 2 ông là ông và xưng tôi. Sự xưng hô có khác vơi sự xưng hô trong lá thư thưa chuyện cùng ông Kiều Phong và các bạn cao minh trong văn giới. Sự xưng hô cần thích hợp với vị thế của những người mà mình đối thoại, chắc quý ông cũng hiểu như thế .
Thưa 2 ông,
Trước hết, tôi xin được bày tỏ nỗi vui mừng trước những phản ứng mau lẹ và đông đảo của quý ông về lá thư của tôi. Phản ứng, như tôi đã viết, biểu lộ rõ rệt con người. Cho nên, không có cách nào bày tỏ lòng biết ơn cụ thể hơn là tìm hiểu những phản ứng đó.
1.- Việc đầu tiên tôi xin phép được đề cập tới * ( sic ) là bức họa ở trang 1 của tờ báo do ông Viên Linh làm tổng thơ ký, ông Duật là cộng tác viên. Bức họa quảng cáo cho bài trả lời 1 bức thư ** của ông Duật. [ Bức ] họa cho thấy 1 quái nhân hay 1 quái vật: có tứ chi cầm cây viết, cuốn sách & cái chai đập bể phân nửa .
-------
* sau đề cập không cần trạng từ đến, tới ...( BT) .
** chữ in đậm của BT.
Bên dưới bức họa có chú thích :' Sa -đích văn nghệ : ( lễ phép) .
Kính thưa bác và các bậc cao minh trong văn giới ,
cháu có vài 'thắc mắc văn chương '...
lời chú thích ấy trong trích đoạn thư của tôi gửi ông Kiều Phong mà không đề rõ xuất xứ. Thất đáng tiếc !
Trong 1 lúc tôi nghĩ : chắc 2 cây bút này có ý nói đến mình ? Nhưng tôi vội vã xua đuổi ngay khỏi trí óc ý tưởng đen tối đó. Không lẽ 1 tờ báo của 1 hội lớn chủ trương- chủ nhiệm là 1 đại tá mà phải dùng đến phương sách xỏ xiên, thấp kém như thế
hay sao ? Từ bao giờ , những cuộc nói chuyện với nhau bằng văn chương được
kèm theo , hỗ trợ bởi những tranh vẽ đểu cáng ? Chẳng lẽ, ông đại tá
Trần văn Trọng * , một người khả kính - ông Viên Linh , dù sao cũng là 1 thi sĩ - và ông Nguyễn nhật Duật, thường tự nhận là phê bình nghiêm chỉnh , lại mở ra cái giai đoạn văn chương mới lạ này ? Đối chiếu bức tranh với bức thư mà ông Duật gởi cho tôi ở bên trong, thư mà ông Duật bàn nhiều về triết học, tôi càng thấy vô lý. Không lẽ nước ta trong những vận hạn cùng cực này đã có 1 thiên tài tìm ra 1 hình thái triết học mới mà là triết học bằng hình ?
------
* đại tá Trần văn Trọng ( tên thật nhạc sĩ Anh Viêt) đứng tên chủ nhiệm tuần báo Khởi hành, báo dân sự của Hội văn nghệ sĩ quân đôi VNCH. (BT).
Tôi thấy sự nghi ngờ của tôi vô lý quá, tôi phải loại bỏ ngay ý nghĩ đó và bắt đầu tìm hiểu xem bức tranh đó vẽ ai ?
Thoạt đầu, tôi nghĩ rằng đó là ông Nguyễn nhật Duật, vì trong bài ông Duật có nhắc tới 2 chữ sa-đích với nhiều buồn phiền . Phải chăng, ông nhờ họa sĩ vẽ nên quái nhân hay quái vật đó để mô tả sự biến đổi của thân xác trong trạng thái buồn phiền ?
Nhưng, nhìn kỹ hơn, tôi tin rằng đó là ông Viên Linh. Vâng, quái nhân hay quái vật vẽ trên trang của 1 tờ báo của Hội văn nghệ sĩ quân đội là ông Viên Linh, hoặc tự họa, hoặc nhờ 1 họa sĩ nào đó làm chân dung? Có lẽ, ông có ý định tốt mang lại sắc thái đùa bỡn, vui vẻ, tự lố bịch hóa, để làm mọi người được vui vẻ, trong cuộc đối thoại văn chương. Ông Viên Linh thật sâu sắc và tốt bụng. Trong văn giới, có người như ông, thất quý hoá ! Tôi xin mượn những dòng này để cảm tạ mỹ ý của quý ông, đồng thời tỏ bày lòng khâm phục lớn; nhất là, càng nhìn kỹ, tôi càng thấy quái nhân hay quái vật đó đứng là giống ông Viên Linh như tạc. Giỏi thật ! Cũng mái tóc dài bồng bềnh, cũng đôi mắt sầu suy tư nặng. Cũng hàm răng đều. Và cũng dáng người cao cao thanh tú .
Tôi càng vui khi nhận ra bức tranh quái thai là' Viên Linh tự họa ' hoặc ' chân dung Viên Linh' - vì trong 1 giây ngắn, tôi đã ngỡ rằng chân dung ông chủ nhiệm Trần văn Trọng. Nhưng tôi tin rằng đó là ông Viên Linh. Có thể, những dòng sau này mới có lý do để được viết tiếp, ngôn ngữ của loài người mới còn có chỗ để sử dụng với nhau .
2.- ông Viên Linh qua bức ' Viên Linh tự họa ' đã mang lại cuộc thảo luận không khí tươi mát. Ông, vâng, ông Duật ( Nguyễn nhật ) , ông lại vui tính hơn gấp bội.
Ông hỏi tôi : Sao không gửi thư lại báo ' Khởi hành' ?
Ông tài thật, nói trào phúng mà mặt vẫn lập nghiêm. Ông dư biết làm sao tôi dám gửi thư cho tờ báo của 1 hội đoàn ? Tờ báo lại có lẫn quảng cáo trên trang 1 và trong tờ lịch nhỏ phát ra,có danh sách rất dài những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, được coi là
cộng tác với tờ báo mà chưa thấy có bài nào đăng ở đó bao giờ. Có lần đối chiếu, tôi thấy những vị đó có trả lời cuộc phỏng vấn. Nhưng trả lời cuộc phỏng vấn , chắc chắn không phải là cộng tác '?
Tôi nghe nói, có những tờ báo ở đó, người phụ trách nhiệm thích đăng tên nhiều người, vì những lý do không chính đáng. Tôi chắc đó không phải trường hợp của tờ
' Khởi hành '. Cho nên, còn bao nhiêu cộng tác viên ', chắc chắn không phải là ma , không phải là quảng cáo thấp kém, chưa đăng bài nào cả, làm sao tôi hy vọng còn có
đất 'cho 1 và những lá thư dài. Hơn nữa, báo là báo của một hội. Khốn nỗi, tôi lại không rõ hội đó ban chấp hành ra làm sao ? Bầu bán có đúng nhiệm kỳ không ? Tờ báo hoạt động do quyết định của ông hội trưởng hay có sự góp sức của toàn thể hội viên ? Tình trạng tài chánh của nó có được minh bạch trình bày với đại hội không ? Nó được tài trợ ra sao ? Anh em hội viên, toàn là nhà văn, có cử ra ban đại diện để điều khiển tờ báo để phản ảnh tâm hồn và quan niệm văn chương của họ, và do đó, họ công tác hăng say với tờ báo hay đó chỉ là sự tuyển chọn đơn phương của ông hội trưởng đã mãn nhiệm kỳ ? Bấy nhiêu nghi vấn mà tôi chưa tìm được những trả lời đầy đủ, làm sao tôi dám mạo muội bước chân tới 1 nơi mà mình không hiểu đất đai như thế nào ?
Và bây giờ đứng trước sự nghiêm chỉnh của triết lý bằng hình ', tôi càng thấy sự e dè cũ nên được giữ lấy.
Cho nên, tôi nghĩ ông đã yêu mà hỏi, không cười như thế để tôi có cơ hội giãi bày.
3.- Còn hỏi rằng tại sao lại đăng bài thảo luận văn nghệ ở phim của 1 nhật báo ? ông cũng lại vui đùa.
Có cái áo nào làm được tư cách ông thấy tu ? Cuốn sách ảnh đẹp chưa chắc là cuốn sách hay . Bài thơ hay đăng ở bích báo; chép, truyền tay bạn bè, in ' ronéo ' cho nhau coi, đăng trên nhật báo để qua mắt kiểm duyệt vẫn là bài thơ hay. Bài thơ tồi đăng trên trang 1, báo mang danh văn nghệ, đăng xong, có các nhà phê bình thân hữu ca ngợi
bậc thầy , vẫn vĩnh viễn là bài thơ tồi. Chính những bài văn làm cho tờ báo, mục báo có nhiều sắc thái. Sắc thái của nó do bài vở làm thành, chớ không do cái khuôn quyết định bởi một loại ' Thượng đế văn nghệ nào '. Vả chăng lúc này sưu cao thuế nặng, báo văn chương không có tài trợ của chính phủ, như ông cũng thấy, đang sống dở chết dở. Còn mấy ai có được cái phong thái ung dung của tờ ' Khởi hành' . Tìm đâu trên đất nước này có được 1 ông chủ nhiệm có tài như đại tá Trọng, cân bằng cán cân chi phí cúa tờ báo văn chương số bán giới hạn 1 cách tài tình như thế !
Nghe ông hỏi tôi, biết ông có cảm tình với tôi lắm, giúp tôi có cơ hội để minh giải thêm điều người cố tình không chịu hiểu, nghe xong cũng vẫn không hiểu.
Nhưng điều quan hệ là nhớ đó, nhờ sự minh giải đã làm rồi, tôi lại được xin phép viết ở phim, như đã mượn đất Kiều Phong như đã mượn và được phép nói lên rằng
: ' viết bài có tính chất văn chương trên nhật báo, mục' phim' , lúc này, trong tình trạng chính trị, kinh tế, và văn hóa của đất nước ta hiện nay là đúng lúc và đúng chỗ. Đến 1 lúc nào đó, khi vòng kiềm tỏa đã thắt chặt lại, báo hàng ngày cũng chẳng còn
' phim ' chẳng còn là nó, người viết sẽ phải viết chuyền tay trên giấy, hay nói 1 cách thơ mộng, là viết trên đá, viết trên những ống tre, xin ông với cơ quan ngôn luận trường tồn cũng thể tình cho.
Hình thức là quý. Nhưng hình thức chủ nghĩa là dấu hiệu của sự bất lực, không tạo dựng nổi 1 nội dung có gái trị, là dấu hiệu của sự mục rỗng bên trong. Trong tất cả mọi trường hợp, nó la dấu hiệu của 1 căn bệnh . Bệnh ấu trĩ, thưa ông.
6
Bây giờ , nói tới những sai lầm của ông Duật. Tôi đã chứng minh trong bức thư trước rằng ông sai nặng. Ông cãi cố. Thành ra càng sai năng hơn. Những sau lầm cũ chẳng gỡ được cái nào, lại mắc thêm nhiều sai lầm mới, trông thật đáng thương hại !
1.- Trong bài phê bình của ông Duật, có đoạn văn :
'... Những điều kiện lịch sử ( 2 cuộc đại chiến ) , xã hội ( cảnh suy tàn của chế độ phong kiến trên thế giới ) . kinh tế ( những cơn khủng hoảng kinh tế định kỳ, nhất là cơn khủng hoảng năm 1929 làm sụp đổ chính sách kinh tế tự do ) , cộng với quá trình diễn của triết học khởi từ cảnh phân hóa các ý thức hệ Hégel là bừng ấy tư trào hiện sinh, như 1 hậu quả không tránh của các thành tố vừa kể ...'
câu văn cho thấy rõ :
1.- Thành tố gồm có : điều kiện lịch sử, xã hội, kinh tế,cảnh phân hóa ý thức hệ sau Hégel.
2.- đưa tới hậu quả là : ' làm bừng dậy tư trào hiện sinh như 1 hậu quả. '
mà những ngày tháng của thành tố là :
a) điều kiện lịch sử là 2 cuộc đại chiến kết thúc năm 1945.
b) điều kiện kinh tế : khủng hoảng kinh tế năm 1939.
c) xã hội
d) thời kỳ hậu Hégel khởi từ năm 1931.
thành tố như vậy gồm nhiều yếu tố rải rác từ 1831 đến 1945. Một khi thành tố đã có đầy đủ, hậu quả là tư trào hiện sinh mới bừng dậy, vì là theo câu văn kể trên, hậu quả của tất cả mọi thành tố, chớ không riêng của một thành tố nào - ' như vậy ' tư trào hiện sinh của ông Duật đã bừng dậy sau năm 1945 ', tức là sau 2 cuộc đại chiến.
Tôi đã chứng minh rằng những tác phẩm lớn của các tác giả thuộc ' tư trào hiện sinh đó' đều có mặt trước 1945, dù đó là Kieekegaard, Heidegger, Jaspers, G. Marcel hay Sartre.
Cho nên, ông Duật bắt tư trào hiện sinh chờ tới sau 2 cuộc chiến mới cho
bừng dậy' - thi e rằng hơi trễ.
1) Tôi nói thời gian cuối cùng của những thành tố'và không mang tội cắt xén gì cả, vì phải có những thành tố thuộc về thời gian sau, rồi mới có' hậu quả'. Hậu quả đương nhiên xảy ra sau cả cái thành tố cuối cùng, vì dù cuối cùng; nó cũng vẫn là 'thành tố , vẫn thuộc về một thời gian trước cái 'hậu quả của nó.
sau khi tôi nói, ông biết rằng để tới sau 2 cuộc đại chiến mới cho tư trào hiện sinh bừng dậy', thì có hơi trễ thật; ông xác định chỉ muốn nói nó là 'bừng dậy' trong những năm 1900- 1945. Như thế cũng được. Tôi dễ. Nhưng câu văn của ông lại có nhiều chữ hơi thừa : tỷ như thành tố, hậu quả. ' Hậu quả ' thì phải bừng dậy sau ' thành tố' , không thể ' ở trong' được. nếu ông cứ nhất định muốn' vào trong' , tôi e rằng ông phải đóng vai trò con lạc đà đã chui vào trong lỗ kim, khó khăn lắm !
2) Trong lúc cố cãi, ông lại nói nhiều điều lạ. Thật tài tình, mỗi điều mới lạ lại là
1 sai lầm mới. Càng nặng nề hơn.
a) ông viết :
' ... Ngay cả các triết gia hiện sinh hiện đại như Heidegger chỉ nhận mình là tiết gia về hữu thể. Marcel không nhận mình là existentialiste. Chỉ có Sartre là nhận ngay chữ này, khi các nhà báo gán ghép cho ông...'
b) thế mà, lạ thay J. Wahl, một trong các nhà chuyên khảo về hiện sinh trong cuốn
' Les philosophes de l'existence' , nơi trang 7, lại viết :
'...Heidegger và Jaspers không nhìn nhận mình là hiện sinh. Nhưng ' mặt khác ' có những triết gia : Sartre, Merleau Ponty, S. de Beauvoir nhận tước hiệu hiện sinh, và
G. Marcel đôi lúc, cũng nhận danh hiệu hiện sinh. Thiên chúa giáo và các ông Levelle và La Senne không tư chối từ ngữ ' chủ nghĩa hiện sinh... '
căn cứ vào đoạn văn này của ông J. Whahl nói đến nhiều triết gia nhận minh là hiện sinh. Trong khi đó, ông Duật, ông chỉ cho 1 mình Sartre: ' chỉ có Sartre là nhận ngay chữ này'. Tôi e rằng hơi ít.
Ông bảo J. Marcel không nhận, ông J. Wahl nói có khi Marcel cũng nhận. Về triết học hiện sinh, tôi xin phép được tin ông J. Whahl hơn [ là ] tin [ ông ]. Xin ông đừng giận !
3) ông hỏi ông [ Nguyễn quang ] Lục :'.. không hiểu ông Lục căn cứ vào đâu, bảo ông Sartre viết về phân tâm học, những bài nào của Sartre ? '
Tôi đưa dẫn chứng : ' ông F. Jeanson có 50 lần Sartre đã viết về ' giá trị và giới hạn của phân tâm học' , tức là về ' phân tâm học'. Không thể chối cãi được sự sai lầm, ông Duật lại biện bạch một cách thảm hại :
'... tất nhiên ông Sartre nhiều lần xác định vị trí của tư tưởng của ông đối với phân tâm học chứ, nhưng điều đó không có nghĩa là Sartre viết về phân tâm học với tư cách người khảo cứu khách quan khi viết bài báo ...'
a) lần thứ 1, ông bảo Sartre không viết về phân tâm học, không có bài nào, và ông cật vấn nạn nhân của ông là ông [ Nguyễn quang ] Lục.
b) khi bị chứng minh là có nhiều bài, có 50 lần, ông ' nói lại cho rõ ' là chỉ muốn nói là Sartre không viết với ' tư cách người khảo cứu khách quan '.
Không ai hỏi ông bài của Sartre về phân tâm học chủ quan hay khách quan .
Nay ông muốn nói như thế cũng được. Tôi dễ.
Nhưng tôi e rằng ' văn cũ ' của ông hơi thiếu . Ông nên sửa lại :
"...ông [ Nguyễn quang ] Lục , ông căn cứ vào đâu bảo rằng Sartre đã viết về phân tâm học với tư cách người khảo cứu khách quan những bài nào của Sartre ?'
Ông [ Duật] có thể nói ấn công đã sơ sót, tôi khỏi phải nhìn cảnh biện bạch của ông, trông thê thảm quá !
( kỳ sau tiếp )
lê hải vân *
----
* Nguyên Sa đội lốt sinh viên văn khoa Lê hải Vân, gửi bài tới báo Độc lập, Kiều Phong ( Lê tất Điều) cho đăng ngay vào mục film du jour. (BT)
( Một mình một ngựa / Nguyên Sa - Nhân văn xuất bản, Saigon 1970 - tr. 125 -134 )
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét