Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013
nhớ nơi kỳ ngộ / lãng nhân 5
nhớ nơi kỳ ngộ
lãng nhân
NGUYỄN TIẾN LÃNG
Năm 1959 . Một buổi chiều ở Paris, tôi thơ thẩn dạo bước tới 1 quán cà phê quen thuộc vùng quận 5, gần đến cửa, thì thấy [ Nguyễn tiến ] Lãng cùng 1 một người bạn từ trong đi ra, không trông thấy tôi, vì [ anh ta ] mải nhìn xuống hè, vừa đi vừa khoa tay vùng vằng, chửi tây bằng tiếng ta. Tôi lên tiếng, thì anh ngẩng lên, bước tới ôm ngang, mừng rỡ vài câu, rồi kéo tôi, ba người cùng rảo bước tời trạm xe lửa Sceaux để về nhà anh ở đường Aquiataine, thị xã Antony. Người bạn cùng tôi đi xuống xe, phài dìu anh về nhà, vì anh [ đã ] say khướt.
Sau khi được chị Lãng săn sóc, khăn nóng đắp lên trán hồi lâu, anh mới tỉnh táo, hậm hực than phiền :
" Tôi là 1 thằng đàn ông sống sót, anh ạ ! "
" Thì chúng mình đây, ai chẳng là kẻ sống sót."
' Anh chưa biết đấy, để tôi kể anh nghe. Tôi còn nhớ như mới xảy ra ngày hôm qua. Hồi ấy là tháng 8 năm 1945. Tôi cùng vợ con rời nhiệm sở ở Đà-lạt, về nghỉ mấy bữa ở nhà nhạc gia nơi biệt thự ở nhà nhạc gia nơi biệt thự An cựu- thì vào buổi trưa ngày 23 - một đoàn mang huy hiệu sao vàng cớ đỏ, súng lăm lăm, mời 2 cha con ra họ ở tòa Khâm [ sứ ]. Thế rồi họ đưa thẳng vào nhà lao. Để đấy, thấy ông tổng đốc Quảng nam Ngô đình Khôi cùng con là Ngô đình Huân đã ngồi đó, và hôm sau, một xe hơi đem đến không biết sẽ đưa họ đi đâu . Họ cho họ Ngô lện xe trước, rồi đến cụ Phạm [ Quỳnh ]. " Còn thằng Lãng " , một người lên tiếng hỏi , thì có tiếng trả lời :" Chật quá rồi ! Cho lên nữa sao được ? Để nó đi chuyến khác. Còn nhiều chuyến nữa, mà ! ". Tôi thầm niệm Nam mô, và rồi sống sót.
Tôi sống sót nhưng đâu đã hết chuyện, sống sót ở trong lao tù. Rồi nhà lao không đủ chỗ chứa vì đông quá, phải chia đi giam ở các nhà tù trong miền Trung dàu dãi 6 năm trường, sau đó mới được tướng Nguyễn Sơn thương tình cho về quê quán. Đầu năm 1952 đưa gia đình sang đây. Rõ là :
Trải bao gian khổ mới có ngày nay
Nhớ những điêu linh kể từ thuở nọ ...
Ở nhà thì nổi tiếng như cồn, mà sang đây thật khó xoay sở: mình chỉ vỏn vẹn cái bằng tú tài ! Phải xin đi dạy việt ngữ, mở hiệu sách, để rồi thi lấy cái cử nhân, để vào làm công chức trong bộ Giáo dục * . Và cũng như anh đã biết, thày tôi mất đã mười mấy năm rồi, mẹ tôi sống heo hút nơi quê, vừa đây tội đã về để lo cho bà cụ sang bên này sống cho đỡ khổ, chứ anh lạ gì mấy năm sau này sống dưới cái chế độ khốn nạn ấy, cụ tôi sung sướng nỗi gì ! Vây mà có được đâu ? Chật vật hết sức mà cũng vô vọng. Tôi lại phải trở sang một mình. Đời tôi thế này là hết rồi anh ạ ! Ở bên này, con cái lại vào làng tây cả, mình cỏn gì đâu ? Mai tôi sẽ nghỉ cho lại sức, chiều ngày kia anh lại nha Học chính, rồi chúng mình đi chơi. Nhiều chuyện
[ để kể ] lắm ... !
------
* Nguyễn tiến Lãng : Les chemins de la révolte - Ý-Việt - 1989 .
( tác giả chú thích ).
Đúng hẹn,, tôi đến văn phòng anh, vừa gặp lúc anh đang soát lại bản ráp bức thư do cô đầm thư ký thảo để đem đánh máy. Anh cầm bút chì xanh gạc một đoạn, bảo cô đầm :
" Câu này không đúng giọng [ văn ] tây .! ( Ce n'est pas francais ...!)
Lúc chúng tôi về, anh nói nhỏ :
" Phải làm thế, cho chúng nó tởn, không dám khinh mình là mít ?"
Thế rồi sau 1975, trong khi kẹt ở nhà tôi được tin anh bị tê liệt , rồi từ trần vào 1976, thọ 67 tuổi. (anh sinh năm 1909). :
ĐỖ VĂN
Sinh năm 1919 tại Thanh Hóa. Nguyên tên là Đỗ tất Văn , tư chất thông minh, tính tình phóng khoáng. Đã đỗ vào Cao đẳng, bắt đầu học thuốc, sau không chịu nổi mùi tử khói xông lên trong giờ học giải phẫu, ông bỏ ngang, sang học ban sư phạm., rồi cũng thôi luôn, vì không ham cái tương lai năm này qua năm khác nhai lại một chương trình. Lần mò tìm đường sang Pháp miễn phí và học về nghề in, vì có khiếu về cơ khí. Ở Pháp, gặp Hoàng tích Chu sang học hỏi ngành báo chí. Khi Đỗ Văn đậu kỹ sư in, tính đường về nước, thì Hoàng [ tích Chu ] tán đồng, 2 người cùng về một lượt, và được anh Bùi xuân Học đón ngay để nhờ cải tổ tờ
Hà thành Ngọ báo.
Đến khi ảy chuyện chính kiến khác nhau, Hoàng [ tích Chu ] cùng bộ biên tập rút lui,
Đỗ Văn cũng thôi việc luôn, để tỏ tình liên đới Anh được ông Nguyễn văn Vĩnh có bụng lân tài, mởi làm giám đốc kỹ thuật nhà in Trung Bắc.
Ít lâu sau, [ Hoàng tích ] Chu được giấy phép xuất bản báo Đông Tây, tất nhiên cũng đưa Trung Bắc in và [ Đỗ ] Văn lại tạo cho tờ báo một vẻ mặt trẻ trung, duyên dáng.
Có biệt tài về ấn loát, Đỗ Văn còn ấp ủ nhiều ý kiến khác thường: cuộc sống tự lực ở Pháp, qua những dày dạn phong sương, ân tình chốc lát, đã rèn cho anh một cá tính bất cần đời. Suốt ngày nơi văn phòng uốn nắn ấn phẩm cho ăn ý với khiếu thẩm mỹ của mình, chiều về bạn với tiên nâu * trước ánh đèn êm dịu , bên chiếc khay pha lê mấp mé nước lạnh, anh lấy hoa hồng ngắt ra từng cánh, thả cho bập bồng tỏa hương ngào ngạt lẫn vào khói thuốc ngất ngây thì người đời còn gì đáng kể nữa đâu ! Một khi ngà ngà say, gây gây buồn, anh lại xếp đặt kế sách hoán cải thế giới. Cũng may mà kế sách thần diệu này hôm sau quên mất hết, nếu không, thì đại cục thiên hạ bày xóa biết bao lần rồi ! Anh bất cần đời là vì ghét đời, ghét những dối trá, lừa lọc, ghét những hiếu danh, tham ô; nên, hễ có ai nói đến tai một sự gì lố bịch xảy ra là anh có ngay 1 phương sách để cười chơi ... cho đỡ buồn
-----
* hút thuốc phiện ( BT) ...
Phương sách ấy, tự anh không ra tay , chỉ thảo luận giữa những anh em thường ngồi vây quanh ngôn đèn thần, rồi ai cao hứng thì ra mà thực hiện .
Mưu mẹo khi thành công thì anh khoan khoái, khói lên nghi ngút; còn kẻ chịu báng, có khi rất nặng nề, cũn g chỉ cười xoà, tặng anh cái huy hiệu Bôn đô lão tổ,
Nguyên do 3 chữ Đỗ tất Văn hồi ở bên Pháp rút còn Đỗ Văn dễ gọi hơn, lại thêm Paul cho có vẻ tây: Paul Dovan - rồi mưu thần chước quỷ khoác cho anh huy hiệu Bôn đô lão tổ.
Khi nhà in đổi chủ, anh không ưa những ông cai thầu lên làm chủ, bỏ về thanh Hóa, tạm nghỉ. Rồi [ Phát xít ] Nhật đến, Tàu { Tưởng giói Thạch ] sang, anh gia nhập [ đảng ] phái Quốc gia [ anh được giao ] tổ chức dân quân. Khi quân Tàu rút, anh theo ra Hànội, được bổ làm gíam đốc sở Thộng tin, trụ sở ở nhà hội Khai Trí.
Ở nhiệm vụ này đến 1954, vào Saigon, anh tiếp tục đến năm hưu trí. Và trở lại nghề in được ít lâu, sau về nghỉ vì sức khỏe suy sụp.
Anh mất năm 1974, thọ 75 tuổi.
Còn nhớ hồi xưa TCHYA đã tặng anh mấy câu thật khám phá :
Thân đã phôi pha dầu gió ngược
Tài còn trôi nổi ngọn trào xuôi
Bút toan rạch nát giang sơn cũ
Mò đáy tang thương chọn cảm hoài ...
TCHYA
TCHYA
Đái đức Tuấn quê Thanh Hóa, tôi mới gặp ở nhá Đỗ Văn mà anh gọi bằng cậu, đã có cảm tình ngay, vì cùng trong lứa tuổi đôi mươi ngây thơ mơ mộng. Anh đỗ tú tài, làm tham tá nha Học chính, hay vẽ và làm thơ ngay trên bàn giấy công chức. Nét vẽ nguệch ngoạc kiểu tây đoan Rousseau, nhưng ngụ ý hài hước hơn, anh minh họa một vài câu Kiều , như câu trải qua một cuộc bể dâu, vẽ theo cái nghĩa chải và râu : một người đứng trong bể nước cầm bàn chải [ chải ] chòm râu dài lê thê ! Thơ anh có những câu :
Thì giờ vỗ cánh bay như quạ
Bay hết đường xuân kiếm chỗ ngồi
Rượu đến gà kêu cô cuốn chiếu
Quay về, còn lại mảnh tình tôi ...
[ TCHYA ]
Đã đành anh nhớ lại Edgar Poe, nhưng tôi thích thú những quạ ngồi và gà kêu lạ tai cũng như nét vẽ lạ mắt.
Có lần, tôi đến nha Học chính , thấy anh cúi trên bàn giấy, có quấn khăn choàng trắng, cho một nghệ sĩ dao kéo sửa mái tóc bồng bềnh. Tôi tưởng lúc ấy, viên chủ sự Pháp mở phòng này, nhìn tôi tủm tỉm, trỏ ngón tay vào thái dương, có y bào : Tuấn hơi tàng tàng ( cinglé).
Lần khác, cũng trong phòng này, tôi gặp Nguyễn Tuân cùng anh đánh cờ tướng theo những đường kẻ lệch lạc trên giấy báo. Viên chủ sự Pháp đi qua, thản nhiên, như không thấy gì. Thực ra, họ không muốn để ý đến, vì nể Tuấn ở phương diện khác : phương diện hồ sơ. Hồ sơ của nha chồng chất như núi, nhưng tuấn xếp đặt thật ngăn nắp, theo cái năn nắp riêng của mình; khi cần hồ sơ nào, nếu cứ theo thứ tự abc hay 1,2, 3 - thì chẳng ai tìm ra nổi, mà hỏi đến Tuấn, anh chỉ quơ tay là thấy liền ! Tài đặc biệt , ấy cho phép anh tha hồ phóng túng .
***
Nét vẽ, câu thơ, ánh đèn, khói thuốc, bầu không khí thân mật cười đùa này chẳng [ bao ] lâu khiến anh mắc món nợ phù dung *
----
* thuốc phiện ( BT).
Nợ càng sâu đậm hơn, khi nàng tiên nâu * xuất hiện trong thân hình Bích Ngọc, một ngôi sao trện sô ng hồ của Hà thành hoa lệ, có nét kiều diễm thyeo ti6u chuẩn tây phương, được đám phong lưu dị chủng đặt cho cái tên ôn-nhu là Angèle. Nhưng gia nhân lúc ấy đang kẻ đưa người đón dập dìu, đâu có chú ý đến một anh chàng thi sĩ ngây thơ ! Nên chàng than vãn :
Hững hờ là thói thuyền quyên
Si tình thay, lũ thiếu niên giang hồ !
[ TCHYA ]
Mãi về sau , trong 1 đêm đông mưa gió, sau bửa tiệc vui đông đảo, Angèle ngồi lại bên đèn, trước lò sưởi :
Ngọn lửa cành non kêu lách tách
Như đùa với lạnh. Mặt em tươi
Hơi âm, tình nồng, hai má đỏ
Nhìn em, em chúm chím môi cười ...
[ TCHYA ]
Thế là tiếng sét nổ trong lòngTuấn, nảy ra cái bút hiệu TCHYA mà anh giải thích là
Tôi Chẳng Yêu Ai, trong khi thâm tâm tự nhủ: Tuấn Chỉ yêu Angèle.!
Nhưng Angèle không chỉ yêu Tuấn. Nên Tuấn than :
Tao phùng một chuyến rồi ly biệt
Hoa lại bay theo ngọn gió ngàn !
Chuyến bay này đằng đẵng bốn năm : * :
Bốn năm mặt đá rêu phong kín
Vằng vặc trăng suông tỏa bóng sầu
Nghệ sĩ trót sinh giàu cảm lụy
Dẫu tàn thân thế khó quên nhau ...
----
* có bản chép : Bốn năm chuyến bay này đằng đẵng (BT)
***
Rượi ngon ngon chẳng vui lòng
Khói thơm thơm chẳng giải xong mối sầu
Tâm tình trôi mãi về đâu
Đời tình ta chẳng có nhau cũng thừa ...
Đời chưa thừa vì còn gặp lại nhau :
Gặp em đêm ấy em xinh thắm
Em mỉm cười duyên mỉa thế gian
Bèo nổi nước trôi em vẫn trẻ
Cái già như sợ cái hồng nhan !
Nhưng rồi ma đưa lối quỷ đưa đường :
Gió về hoa lại bay đi
Yêu nhau lại đợi đến khi trùng phùng
Chúc em xanh lục thắm hồng
Rõ ràng thục nữ anh hùng sánh vai
Mỗi khi ôn lại cuộc đờ
Để dành một phút cho người ngày xưa...
Nói thì thế, nhưng cũng không ngăn được nỗi ngán ngẩm sự đời, muốn quăng đi hết cả :
Bạn, đến phong trần trao oán hận
Gái, tàn ân ái phủi tình chung
Tưởng yêu được mãi người trong mộng
Mộng đến tan canh cũng não nùng
Đời ví phải khom mà đế bá
Tình như chịu lụy mới phong vân
Thôi thì mặc quách trò dâu bể
Ai đỉnh chung gì với thế nhân !
[ TCHYA ]
Mình không muốn đỉnh chung, nhưng gia đình bắt buộc phải đỉnh chung, anh đành về
Thanh [ Hóa ] cưới vợ. Được vợ hiền đức nhưng hiếm hoi, anh có thơ an ủi :
Trăm năm thân thế buồn như rũ
Một phút bon chen hận đến già
Tia lửa hút đầu sơ sợi bấc
Hàng văn uống lệ héo hồn hoa
Can tràng thôi hiến nghề nghiên bút
Tâm huyết đem thờ chữ Quốc gia
Tử túc nếu không truyền hậu thế
Thì đây THI TẬP đứa con ta ..
[ TCHYA ] .
Không đỉnh chung với thế nhân, anh cũng quyết không đỉnh chung nữa với phù dung. Năm 1938, một hôm anh bảo người nhà chuẩn bị xôi gà, đèn nhang; đên đêm anh trịnh trọng đem bàn khay đèn đặt trước lễ vật, , lâm râm khấn vái rồi bê cả xe, tẩu, móc tiêm cùng khay đèn ném choang xuống sân gạch, ly dị với tiên nâu từ đấy . Nhưng lại sa vào men rượu mà anh uống như nước trà
Khi thế chiến thứ 2 bùng nổ,ách quân phiệt Phù tang chồng thêm với ách thực dân làm khổ dân ta, anh dột ngột xin nghỉ việc ở nha Học chính, nói với tôi :
"Tây sắp thua rồi, ở lại làm gì ?"
Thế rồi, một hôm anh lặng lẽ đem vợ và con nuôi về quê ở vùng Vệ sơn, giấu hết mọi người, ngay cả bà mẹ và chị em ở Thanh Hoá cũng không ai hay biết. Anh chọn 1 ngọn đồi thấp ở Vệ vĩ, bên những ruộng muối trắng xóa gần bờ biển thuộc phủ Quảng Xương, cách Thanh Hóa chừng 10 cây số.
Ở đây, anh lập 1 cái am gọi là Mai Nguyệt * , mái tranh vách đất, 3 phòng thông nhau bằng cử tò vò, có mành trúc thưa .
-----
* TCHYA dùng bút danh Mai Nguyệt, có lẽ để kỷ niệm cái am mái tranh , vách đất kia chăng ? (BT).
.
Đứa con nuôi , anh bắt giả câm, mỗi khi có ai hỏi thăm, thì nhất định phải ngậm miệng và viết ra giấy trả lời ; câu đầu bằng chữ Hán : Đáo am văn sư phụ, câu sau là tiếng tây : Allez vous renseigner auprès du Mai^tre , sau rốt bắng quốc ngữ : Ông đến am yết kiến sư phụ .
Anh lại có 1 đồ đệ lực lượng, vốn là1 tên trộm cướp, từ ngày gặp anh, tình nguyện hoàn lương.,
TchyA nhất quyết dùng am này là nơi cai thuốc phiện . Sáng ngồi tham thiền, chiều tập thể dục. Cứ như thế suốt trong 6 tháng, anh khôi phục được sức khỏe, cả tin h thần lẫn thể xác. Hình dung biến đổi: mái tóc dài chùm cổ, râu 3 chòm lê thê ! Thử về Thanh [ Hóa ] chơi, thấy không ai nhận ra mình, nảy ý kiến làm họa sĩ, nhân thấy đồ đệ từng cầm đầu nhiều vụ cướp, bèn gọi đến để học võ. Gần gụi ít lâu, thầy võ theo đạo sĩ đi quyên tiền nhà giàu đem phát chẩn giữa nơi dân nghèo.
Cạnh am có 1 ngôi chùa bỏ hoang, đạo sĩ dùng làm nơi thuyết pháp : vì tiểu đồng sử dụng 3 thứ chữ, nên tiếng đồn đạo sĩ là bậc thông thái siêu phàm, có những ông nho sĩ tìm đến hỏi han, thì anh mời sang bên chùa rồi thao thao bất tuyệt giảng triết lý tây phương.
Đến đầu 1946, tại Thanh Hóa có cuộc xung đột quốc, cộng xảy ra dữ dội. Nhiều vụ đổ máu diễn ra, từ đồn điền Di Linh đến khách sạn Tứ Dân là bản doanh chíinh của nhóm lãnh đạo phong trào bài Cộng. Lẽ tất nhiên, trong nhóm có Đỗ Văn và TchyA, tuy TchyA vẫn đi đi về về am Mai Nguyệt . Nghe phong phanh [ CS ] đến đốt am , khiêng ông đạo về giam ở ngục Quảng Xương. Không biết ông đạo thuyết pháp thế nào mà được tha với điều kiện sẽ phục vụ cho [ họ ] . Thế là, ông tếch luôn về Tứ Dân, võ tranh bằng dây lưng da thắt vòng ra ngoài áo the dài.
Sau vì vốn chữ Hán đủ để bút đàm với Tàu, anh nghiễm nhiên đóng vai cố vấn ban chỉ huy, từ đó mặc quân phục màu cứt ngựa, mũ lưỡi trai, giầy ủng, bên hông có khẩu súng buông thõng cài giây tua.
Đến khi quân Tàu rít lui, anh cũng rút theo ... sang đến tận Côn Minh ...
Khoảng 1952, tôi nhận được giấy gọi của sở Mật thám Pháp, đến nơi, được biết, có ông
Đái đức Tuấn ở Côn Minh gửi đơn về Hànội, cậy tôi đứng bảo lãnh. Tôi vui vẻ ký nhận, thì ít bữa sau tái ngộ với TchyA, đầu tóc bồng bềnh, Ở chơi vài hôm, rồi anh lên phố hàng Bún, ở với Đỗ Văn, bấy giờ làm giám đốc [ nha ] Thông tin.
Vài tháng sau, anh vào Huế, do lời mời của thủ hiến Phan văn Giáo, vốn là bạn thân khi trước ở Thanh Hóa và ông này cử anh với anh Đàm quangThiện làm đại úy [ đồng hóa ] ngành Chiến tranh chính trị,.
Ở đây, anh tìm xuống trọ trong 1 con đò sông Hương cùng với Đàm. [ quang Thiện ] Tôi có gửi mấy câu họa 1 bài chữ Hán của anh :
Nghe anh trở lại đất kinh kỳ
Lấy bút làm gươm rạch thị phi
Mây nước bao la còn nhớ hẹn
Cỏ cây xơ xác ngẫm càng bi
Nửa đầu sương tuyết ngô hoàn ngã
Một mái giang san khách thị thùy
Sóng rộn lòng Hương thuyền mấy lá
Cầm ngang ngọn đáo vẫn ngâm thi ..
LÃNG NHÂN
Sông Hương kia nước chảy lờ đờ, vì có gió nổi được lên sóng gió, họa chăng mới ngớt tiếng ngâm thơ.
Rời Huế vào Sài gòn, dưới chế độ cộng hòa, anh nghiễm nhiên trở thành quân nhân thực thụ trong căn nhà khu cựu chiến binh. Người biết nhiều về quãng đời này là bạn Đám quang Thiện - thì Đàm quân của TchyA - là một mâu thuẫn lạ đời do hậu quả của 1 xã hội bị Pháp chèn ép hay của sự giao du với những người không căn bản làm cho lay tận gốc .
Tôi cho rằng TchyA đã chọn cách sống như 1 nghệ sĩ theo kiểu tây phương : sống theo sở thích, sống cho nội tâm mình, không cần biết xung quanh ưa hay không ? Thành thử đôi khi anh tỏ ra khinh bạc quá cỡ. Như hồi anh lên núi tu, được tin thân mẫu mệt nặng, anh viết thư cho người bạn thân, nhờ gửi 1000 đồng vào Thanh Hóa cho bà cụ uống thuốc, bạn nhân mới thâu được 1500 đồng, liền gửi ngay cả số. Sau đó, anh tới gặp bạn, cười , nói :
" Mày giàu nên mới khổ vì tiền như thế, chứ nghèo thì tao phiền làm gì ! ..."
Chắc các bạn cũng đồng ý với tôi rằng TchyA muồn đem cái đẹp riêng của mình vào đời sống nhiều hơn là vào tác phẩm. Cái đẹp ấy, tôi hiểu là cách phát huy bản sắc của mình bằng những cử chỉ khác đời, thoát sáo, những cử chỉ không ngại là khinh thế ngạo vật, theo 1 chiều khoáng đạt, rộng rãi hơn cái nếp luân lý thông thường của xã hội.
Đêm trừ tịch, gần lúc giao thừa, đón năm Mậu thân, anh lại nhà bạn Võ khắc Tân tự
Trác Ngọc - [ TchyA ] viết bài thơ tặng [ Trác Ngọc ] :
TchyA
Đái Đức Tuấn
Cũng sáu mươi à? bác Tẩy Xìa ( TchyA )
Văn chương tưởng đã tống ra rìa
Nước non khoái mãi thi cùng phú
Thời thế phai dần tóc với ria
Hồ hải đòi * phen vào lộn bến
Tang bồng mấy độ bắn lầm bia
Thế rồi cũng sống mà vui thú
Để chuốc quỳnh tương rượu uống thìa .
[ TCHYA / ĐÁI ĐỨC TUẤN ] RIÊNG TẶNG TRÁC NGỌC
--------
* theo ý BT : đôi sẽ tương thích hơn.
Tới ngày rằm tháng 7 năm ấy ( 8- 8- 1968), anh tạ thế, thọ 60 tuổi.
Tôi đã họa bài thơ trên [ của TchyA / Đái đức Tuấn ] để tưởng niệm người bạn thâm giao, mà hình bóng lúc nào cũng thấy như thấp thoáng trong ánh đèn, chập chùn g trên ngọn khói :
Anh vội vàng chi thế Tẩy- Chìa ?
Đường đời ngại lắm , tránh lên rìa?
Tang bồng đã hẹn ba chung rượu
Hào mại hằng vênh một bộ ria
Bút múa long xà tay vẩy gió
Tranh vờn vân cẩu miệng truyền bia
Nhớ anh, nhớ những đêm Hànội
Quanh ngọn thần đăng, thú úp thìa !
[ LÃNG NHÂN ]
Sáng ngày 10-8-1968) tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, bạn Vũ hòang Chương đã rưng rưng mắt lệ đọc mấy lời thống thiết trước quan tài TchyA :
Đành lẽ ' trót sinh giàu cảm lụy
Dẫu tàn thân thế khó quên nhau * '
Mai hoa tái thế bao giờ nữa ?
Minh nguyệt tiền thân biết hỏi đâu ?
Tàn cuộc văn chương từng góp lệ
Tàn đêm lữ thứ lại chung sấu
Tàn đi mãi đấy hồn phong nhã
Tàn cả rồi chăng lớp biển dâu?
Và cũng tàn theo ba tiếng khóc
Ngấm vào ba thước đất vùi sâu...
Tàn mai, tàn nguyệt, tàn cơn mộng
Anh đợi gì chưa nổi trống chầu ?
*
Mấy năm liền sao rụng trời Thơ,
vận nước sô nghiêng
hồn chữ nghĩa
Rằm tháng bảy anh về đất Phật
lệ ngâu thấm ướt
tập' Đầy Vơi ' **
[ VŨ HÒANG CHƯƠNG ]
-------
* thơ TCHYA
** tác phẩm TCHYA
(BT)
( kỳ sau : báo ' Duy tân ' , Khái Hưng, Ch. Mau' s , báo ' Nhật tân', Nguyễn Triệu Luật ]
lãng nhân
( Nhớ nơi kỳ ngộ / Lãng Nhân - Nxb Ziên Hồng. / Zieleks / Texas, U.S.A , 2007 - tr 51- 62 )
----
* [ ...] chữ của Biên tập.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét