thế phong
5.000 kilômét xuyên việt
bút ký
SAIGON 2008
tặng bà Đỗ thị Thảo
THẾPHONG
THẾPHONG
VÀO CHUYỆN…. |
Một buổi tối đầu tháng 12, đầu giây điện thoại bên kia, nhà văn Băng
Sơn báo tin
Kiều Liên Sơn* đã qua đời. Chôn cất ngay trong đất vườn nhà, tiễn đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng có năm người bạn : Băng Hồ, Băng Sơn, Vân Long, Tạ Vũ, và một đại diện Hội Nhà văn Hà Nội.
Kiều Liên Sơn* đã qua đời. Chôn cất ngay trong đất vườn nhà, tiễn đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng có năm người bạn : Băng Hồ, Băng Sơn, Vân Long, Tạ Vũ, và một đại diện Hội Nhà văn Hà Nội.
Ngày 31 tháng 12 , con gái Nguyễn Đăng Khải báo tin qua điện thoại, bố
cháu ra đi sáng nay rồi.
Bàng hoàng mất vài ngày, khi nghe tin Kiều từ giã bạn bè, vợ con, anh
chị em – bệnh ung thư phổi giai đoạn
cuối, dù đã bỏ hút thuốc lá dăm năm nay.
Trưa chủ nhật kêu toáng lên bụng sao đau đến thế, lại cồn cào; chị Hoàng Lương
Thái nấu vội bát cháo cho chồng ăn dằn bụng. Rồi lại ộc ra hết, đưa gấp vào
bệnh viện- được các bác sĩ đầu ngành hết lòng chạy chữa mà bệnh tình không qua
khỏi sự chết đang gõ cửa đứng chờ.
Còn Nguyễn Đăng Khải, cách đây hơn tháng, tôi gọi điện thoại ra Hà Nội hỏi số điện thoại Cao Bá Ân, nó trả
lời có sự bất hoà, và sẽ trả lời
sau. Cũng cho hay mới ở bệnh viện về, tưởng chết - Vũ Thị Thanh
Thúy (bạn học cũ chung lớp chúng tôi) đến thăm,
nó đã trao tận tay sách tôi biếu
rồi . Mà có chết đi nữa , vợ con cắt bài báo đăng trên Người Hà Nội đặt lên bàn thờ là được! ( Hà Nội: nơi dung thân buổi đầu làm văn, viết báo-Thế Phong, nguyệt san Người Hà Nội,
2000).
Nhớ đêm đầu tiên chuyến xuyên
việt đến thủ đô đúng vào ngày kỷ niệm Hà Nội được giải phóng, bạn học cũ gặp lại nhau sau 56 năm, chụp ảnh lưu niệm chuyện trò rôm rả. Riêng vợ
tôi nhỏ to với vợ Khải , đồng thời làm chứng đạo Tin
lành. Chị Quản Thị Thái nhắc ,về Sài Gòn
nhớ gửi ngay bài Hạnh phúc tuyệt
vời của tiến sĩ Phan Như Ngọc- nhà nghiên cứu vật lý hạt
nhân tốt nghiệp ở Hungary làm chứng về Chúa. Và khi về đến nhà, sáng
hôm sau tôi copy ngay , gửi qua bưu
điện cho vợ chồng Khải, Ân, Vinh, Kiều; có điều quên mất, vưà rồi không hỏi
Khải đã nhận được chưa và nếu có thì có đọc không?
Hai bạn cũ 56 năm xưa ở Hà Nội
gặp lại trong số bốn tên, thì hai thằng
đã rửa chân tay sạch sẽ lên bàn thờ ngồi . Kiều Liên Sơn thúc giục muốn được đọcbút ký ghi chép chuyến xuyên việt càng sớm càng tốt – khi nó
qua đời, tôi chưa viết xong - hôm nay
xong, nó lại không được đọc. Còn Khải rủ rê ra Hà Nội vài ngày, nằm khoèo
gác chân lên nhau hàn huyên cho đã điếu
- nếu mày không chịu ra thì chúng tao lại vào Sài gòn vào dịp Nô- En , mày đi đâu không cho tao gặp là chết đấy
em!
Đươc tin hai bạn học ra đi đột ngột, Kiều và Khải đều sinh năm
1936, thân xác đã chôn vùi dưới lớp đất, giờ này thịt đã tan rữa rồi còn gì ; và linh hồn thì không
biết đi đâu, về đâu? Bởi vậy, vợ tôi đem
câu chuyện ẩn dụ người giàu xấu nết
và Laxarơ kể cho hai
bạn cũ còn tại thế, và hai phu nhân mới
chít tang chồng , hãy đọc đi để chiêm
nghiệm biết linh hồn sẽ đi về đâu , sau khi hồn lìa xác.
Chuyện
rằng: Có một kẻ rất giàu có lúc sinh
thời, ăn không hết; trong khi đó, một kẻ nằm nhờ ngoài hiên, tên Laxarơ nghèo
khó chẳng có gì cho vào miệng, chỉ mong
đồ ăn thưà kẻ giàu có rơi xuống.Và kẻ khó qua đời trước, thiên sứ đặt người vào
lòng bàn tay ấm áp cuả Tổ Áprah am. Còn kẻ giàu chết sau, bị thảy xuống hồ lửa
âm phủ cháy ngày đêm phừng phừng, kẻ
giàu ngước mắt nhìn Laxarơ , tên ăn xin
ngủ đậu, lại được Tổ Ápraham bồng ẵm; kẻ giàu gào thét van xin một giọt
nước làm mát lưỡi, vì lưả thiêu đốt đêm ngày khổ
cực quá đỗi. Tổ phán, buổi sinh thời ngươi đã được hưởng sự lành cuả ngươi rồi,
còn xưa kia Laxarơ bị sự dữ hại, thì
nay được yên ủi, còn ngươi nay chịu khổ
hình. Có một vực sâu giữa chúng ta và ngươi – ai muốn qua đây, hay ai ở đây, muốn qua đó đều không được cả.
Kẻ giàu có năm xưa xin Tổ hãy cho La-xa-ra quay về dương thế báo tin cho năm em
còn sống đặng làm chứng về việc trọng
đại này. Tổ lắc đầu phán, hãy để số phận anh em ngươi
phải biết tuân lời Môi- se cùng các
Đấng Tiên tri trên trần thế. Kẻ giàu lại nói, vì nếu có kẻ đến từ âm phủ được
sống lại trở về làm chứng cho, tất nhiên chúng sẽ dễ ăn năn hối cải tin theo. Tổ
Ápraham đáp, nếu sống trên dương gian không tuân lời Môi-
se cùng các Đấng tiên tri thì cho dầu kẻ
chết sống lại làm chứng thì chúng cũng chẳng chịu tin đâu!
(diễn ý theo Kinh thánh LUCA : 16) .
(diễn ý theo Kinh thánh LUCA : 16) .
--------
· KIỀU LIÊN SƠN ( 1936 - Hà nội ,2007)
tên khai sinh ban đầu: Dương Đức DZƯ ( nay là DƯ).Nguyên quán Xuân Phưong ( nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội). Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Tác phẩm: Tình yêu muộn mằn ( thơ, NXB Hà Nội 1992), Trước giờ xử bắn ( kịch nói, Hà Nội, 1966), Chị Thủy ( kịch bản chèo- cùng viết với Trần Huyền Trân Hà Nội 1976), Khoảnh khắc trời mây ( bút ký, Hà Nội 1996), Phiá sau chiến tranh ( NXB Hội Nhà Văn, 2005) v v..
-
· KIỀU LIÊN SƠN ( 1936 - Hà nội ,2007)
tên khai sinh ban đầu: Dương Đức DZƯ ( nay là DƯ).Nguyên quán Xuân Phưong ( nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội). Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Tác phẩm: Tình yêu muộn mằn ( thơ, NXB Hà Nội 1992), Trước giờ xử bắn ( kịch nói, Hà Nội, 1966), Chị Thủy ( kịch bản chèo- cùng viết với Trần Huyền Trân Hà Nội 1976), Khoảnh khắc trời mây ( bút ký, Hà Nội 1996), Phiá sau chiến tranh ( NXB Hội Nhà Văn, 2005) v v..
-
CHỈ VÌ CƠN BÃO XANGSANE.
Cách ngày khởi hành chuyến xuyên Việt một ngày, chúng tôi nôn nao không
ít; khi dự báo thời tiết cho hay cơn bão Xangsane
đang thổi vào bờ biển Việt Nam .
Thời tiết như vậy làm sao đi được?!- vợ tôi than thở. Bỗng tiếng
chuông điện thoại reo vang, Nimbus Tourist thông báo chuyến đi sẽ
bắt đầu vào lúc 4 giờ sáng ngày 5 tháng 10. Thôi cũng đành vậy, chứ biết làm
sao, vì bão bùng lớn như thế này thì ở nhà vẫn an toàn nhất, vợ tôi nói vậy.
Chuông điện thoại laị reo vang. Đầu dây bên kia,cầu chúc mừng thượng lộ bình an của Hoàng Vũ Đông Sơn, tôi ngắt lời ngay , bông phèng: '
'…' chúng tôi chỉ nhận lời chúc tốt đẹp kể từ ngày 5 tháng 10 trở đi. '' '
Hoàng Vũ Đông Sơn :' vậy là hoãn phải không anh?'
rồi cúp máy.
Chuông điện thoại laị reo vang. Đầu dây bên kia,cầu chúc mừng thượng lộ bình an của Hoàng Vũ Đông Sơn, tôi ngắt lời ngay , bông phèng: '
'…' chúng tôi chỉ nhận lời chúc tốt đẹp kể từ ngày 5 tháng 10 trở đi. '' '
Hoàng Vũ Đông Sơn :' vậy là hoãn phải không anh?'
rồi cúp máy.
MỘT: SÀI
GÒN- QUY NHƠN- HUẾ : NHỚ LẠI NHIỀU ĐIỀU…
Lên xe khách 45 chỗ chạy đúng 4 giờ 30 sáng. Ra khỏi thành phố, sương mù đặc quánh lãng đãng bay trên cầu Điện Biên Phủ, xe phóng khá nhanh ra xa lộ Hà Nội. Lướt mắt đọc tờ chương trình, hôm nay phải vượt trên 600 cây số, chạy thẳng tới Quy Nhơn. Bắt đầu bữa ăn sáng ở Trảng Bom; cơm trưa Cà Ná, cơm tối và ngủ ở Quy Nhơn. Ấy là xe ca phải đến sớm khoảng sáu giờ chiều , sẽ đươc tham quan Khu Du lịch Ghềnh Ráng, Bãi tắm Hoàng Hậu, viếng mộ Hàn Mặc Tử. Một khách ngồi hàng ghế sau nói lớn tiếng cho mọi người cùng nghe, đại khái làm gì được phép tắm Bãi tắm Hoàng hậu kia chứ- sở dĩ đặt tên Nam Phương Hoàng hậu cho bãi tắm này - người được tắm lần đầu khi bãi tắm hoang vu , nước trong xanh, phong cảnh đẹp như tranh vẽ. Chẳng hiểu đã đến đây tắm được mấy lần, và bây giờ bà đã đi vào cõi ta bà– vậy chỉ còn ý nghĩa trên danh xưng – còn thực tế đã được bán cho một doanh nhân làm bãi tắm dành riêng khu Du lịch Khách sạn X… rồi.
Ai muốn vẫy vùng trên bãi biển xanh trong kia, hãy đến xin phép chủ
nhân họ Đoàn.
Ngày đầu tiên xuất hành, ai cũng xăng xái cả; tuy nhiên có khách
đã chìm trong giấc ngủ ngồi thật ngon
lành; vì hồi khuya thức giấc rất sớm, từ khoảng thời gian một, hai giờ sáng-
nếu ở ngoại thành. Còn chúng tôi sống ở trung tâm quận 1, phải dậy từ ba giờ
sửa soạn mới kịp đến Công ty lúc bốn giờ.
Vợ tôi thường bị say xe, cô
Huyền phát thuốc ngay và đưa chai nước lọc kèm. Tua, hướng dẫn viên cầm tờ Bảng chi tiết đọc :
-Xe ca 45 chỗ mang bảng kiểm soát
53M 78 18 - chú Năm tài xế, di động:
0907.126. 12… - Nguyên, thợ máy : 09067616… - Hiếu, hướng dẫn viên phụ : 09036063…
và cô Huyền phụ trách tổng quát . Mỗi
khi cần giải toả bầu tâm sự, nhất là các bác, chú nhiều tuổi, xin báo ngay cho
hướng dẫn viên hoặc trực tiếp bác tài.
Tua ăn nói khá lưu loát, thuộc
loại chân dài, giọng pha đôi chút hài
hước.
Giới thiệu khơi khơi , bác tài tay
lái lụa, trước75 từng lái máy bay chở hàng trăm lính tráng, xe tăng, tàu
bò, khí tài chiến tranh – nay hoà bình rồi - rất khiêm nhường chỉ lái xe du lịch chở 45 chỗ , thì đâu có nhằm nhò gì? Cô, bác anh,
chị yên tâm đi, trăm tay hãy cứ tin vào vô lăng bác tài. Tôi vốn dân cựu Không quân Sài
Gòn, muốn thử hướng dẫn viên Tua xạo sự cỡ nào, lên tiếng hỏi:
- Bạn hướng dẫn viên ơi, bác tài lái loại máy bay
nào - chẳng hạn Cargo, Bombing Attack , A37, F 5E , Caribou, C119, C123, C130, L 19, 20, HU1B, Chinook… hay gì gì khác nhỉ?
- Chú ơi, cháu chẳng còn
nhớ loại máy bay nào đâu, chỉ biết loại vận tải khổng lồ, bốn động cơ bán phản
lực! Dễ hiểu hơn, máy bay vận tải lớn nhất Không lực Sài Gòn đó , chú?
Tôi giễu:
-Có phải phi công đeo huy hiệu Con Rồng bên tay trái, dưới logo TỔ QUỐC KHÔNG GIAN phải không? Quí vị biết là phi công thân hình mảnh mai, khi lái máy
bay vận tải Cargo 119, 123, 130 to đùng như cái nhà, de vào
hăng-ga cái một , hệt như xe hơi lùi vào ga-ra vậy. Có đêm trực hành quân
rủ nhau đánh bạc, có anh thua sạch túi, sáng ra không một đồng mua bánh mì tay cầm ,vẫn hiên ngang nổ máy,
hét toáng đúng là TỔ QUỐC KHÔNG GÌ ĂN! Và cho máy bay cất cánh vút lên bầu trời
.
Cứ cho rằng , Tua giới thiệu về bác tài qúa lố đi nữa; điều này được chứng tỏ
ngay khi , nhìn anh Năm cầm vô lăng xoay
quẹo trái, phải rất điệu nghệ - vậy bác tài tay lái lụa là phải rồi. Khi
tôi ghi danh đi xuyên việt- con rể - cũng là bác tài xe 16 chỗ , góp ý với bố mẹ nên
chọn công ty có uy tín với khách hàng mà đi .
Đây lần đầu tiên con nghe Nimbus Tourist , chắc họ tổ chức lần đầu xuyên việt nên lấy giá rẻ vậy . Cầu Chúa ban sự bình an cho bố mẹ và đoàn xuyên việt. Nhớ đến lời khuyên, lại nhìn tài xế Năm điều khiển xe cũng tạm yên
lòng.
Hơn ba tiếng đồng hồ dàn trải trên đường nườm nượp xe, bác tài
quẹo vào nhà hàng Trảng Bom , và khách được
thông báo xuống ăn sáng. Có thể chọn ba
món : hủ tiếu, phở bò, gà, trứng chiên bánh mì ốp la , ốp lết và ly trà
đá. Nửa tiếng đồng hồ sau lên đường , tôi đếm được 31 khách- năm phục
vụ- cộng 36 chỗ / 45 khách.
Cô chú Trang ngồi ở ghế số 5 và 6 đưa tờ báo:
-Cô chú nên chọn
phòng riêng hai người, ngủ nghỉ
thoải mái hơn. Ai ngồi hàng ghế phía sau
vá ngủ chung phòng, ba, bốn, người ,thì cả hai mục này đỡ tốn gần triệu bạc.
Vợ tôi đón lấy tờ báo:
TOUR
MỚI THÁNG 9: HÀNH TRÌNH XUYÊN VIỆT. …
” …Bạn đã bao giờ đi suốt chiều
dài đất nước, khám phá cảnh đẹp, văn hoá từng vùng, miền đa dạng của Việt Nam ?
Với ý tưởng này, Nimbus Tourist chào
hàng chùm tour mở xuyên việt.
Hành trình xuyên việt bắt đầu từ Qui Nhơn - nơi có bãi biển Hoàng Hậu, bãi Sa
Huỳnh đẹp và hoang sơ nhất miền Trung.
Hải sản Qui Nhơn vừa rẻ, vừa ngon nổi tiếng. Vùng biển này đang là điểm
dừng chân của rất nhiều du khách phương tây đi nghỉ dưỡng cao cấp, bên những resort
4-5 sao nổi tiếng: Life Resort, Gia
Lai Resort… Đến Qui Nhơn hãy dành thời
gian viếng mộ Hàn Mặc Tử, xem võ Tây sơn
cổ truyền, trước khi tiếp tục cuộc hành
trình nối tiếp để đưa du khách đến Núi
Chúa –Bà Nà, vượt hầm Hải Vân, thăm Huế. Chặng hành trình nối tiếp để
đưa du khách đến thăm La Vang Quảng Trị, Phong Nha-Kẻ Bàng Quảng Bình, ghé
thành phố Vinh thăm quê Bác; sau đó qua Ninh Bình, Hoà Bình, Yên Bái, rồi lên
tận Sapa; đi chợ vùng biên Cốc Lếu, sang
biên giới Trung quốc mua sắm thoải mái; trước khi nối tour sang miền Đông bắc, qua Hà Nội, Lạng Sơn; rồi đi trên du
thuyền tham quan Vịnh Hạ Long. Chặng cuối hành trình sẽ là Hội An và thành phố
biển Nha Trang. Nếu đi trọn tour, bạn phải mất 16 ngày theo đường bộ,
với xe du lịch loại tốt. Tuy nhiên, vì là tour mở, bạn có thể một phần của cuộc hành trình, hay chỉ đi nửa chặng là
tùy thời gian, sức khỏe, và túi tiền. Đây quả là một hành trình hưởng ngoạn thú
vị, đủ cho bạn trải nghiệm và khám phá đầy đủ nền văn hoá từng miền, từ đi
thuyền rồng thả đèn hoa đăng trên sông Hương, thưởng thức nhạc cung đình, viếng
Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn, đi chợ
tình Sapa, du thuyền Tam Cốc, tham quan Nhà thờ Đá Sapa, Ngã ba Đồng Lộc, biển
Đại Lãnh, phố cổ Hội An. Tài sản đọng
lại sau chuyến đi sẽ là tập ảnh dầy cộm, nhiều món ăn địa phương khó quên, và
vô vàn điều khám phá thú vị không sao kể xiết!.. -
[ THỤC QUYÊN- báo Sài Gòn giải phóng tháng 9-2006.]
[ THỤC QUYÊN- báo Sài Gòn giải phóng tháng 9-2006.]
-Tất nhiên, nhờ đọc bài
báo ấy xong, biết sẽ được thăm Yên Bái, nơi anh được sinh ra; qua Lạng Sơn, nơi
mẹ sinh ra em; vì vậy anh gọi điện thoại
đặt tour ngay , tôi nói với vợ.
-Gọi đăt tour xong chưa biết lấy đâu ra tiền , phải không? vợ tôi trả lời..
-Đúng vậy, không sẵn tiền vẫn tìm được phương tiện đi du lịch
mới là chuyện đáng nói. Nhưng trước tiên vợ chồng mình hiệp một dốc lòng cầu
nguyện.
Ít ngày sau, tôi gửi điện thư cho hai bạn ở Huê Kỳ , vừa hỏi ý kiến vừa gián tiếp xin chi viện . Thu Vân ở San José
mau mắn trả lời :
-… Hai ngày nữa sẽ gửi 200 USD,
mong anh chị thỏa lòng du hành xuyên việt, vừa ngắm Đèo Ngang vừa đọc thơ Bà
Huyện Thanh Quan: Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà...
một tin nhắn khác, từ Houston :
một tin nhắn khác, từ Houston :
-…Em chúc anh chị đi du lịch vui
vẻ nhé. Ngày mai, em sẽ từ giã anh chị
Đắc ở Houston đi
Anh quốc. Khi nào ổn định, em sẽ phone cho anh! -Em L.D.
và một tin nhắn khác nữa :
và một tin nhắn khác nữa :
-… hai chị cuả chúng cháu ở New
Jersey [thông gia] gửi tặng hai bác 200
USD, với lời chúc du hanh xuyên việt vui vẻ.
- Bố mẹ phải lấy phòng
riêng hai người mới được, có ngủ ngon giấc ,sáng hôm sau mới tiêp tục lên đường
vui vẻ, con xin đóng góp một triệu - cậu
Ba, thứ nam chúng tôi khẳng định.
Và cô Tư, cô Năm, anh
Hai ở Houston hỗ trợ chuyến du lịch
của bố mẹ, vậy là túi rủng rỉnh rồi ! - tôi
nói với vợ vậy.
Đa số khách
trên xe vào giấc này ngủ vùi trên ghế, tuy vậy có khách tỉnh như sáo,
đưa mắt theo dõi chương trình ca nhạc trên màn ảnh nhỏ:
DICS 2 : 75 NĂM ÂM NHẠC VIỆT
Các hoạt
náo viên [bây giờ :MC] thay
phiên pha trò khá duyên dáng, giới thiệu từng mảnh đời nghệ sĩ gắn liền ca khúc
sáng tác; và hai nam ca sĩ nào đang uốn éo lắc lư nhịp nhàng ca khúc Gợi giấc mơ xưa - thì, một khuôn mặt bầu bĩnh bỗng hiện ra- tác gỉa cười duyên móm sều, trả lời :…' tại sao tôi lại sáng tác được ca khúc vang vọng một thời , điều này chỉ riêng cô Hiên Thù biết mà thôi. Nhưng [ngắt một giây] giờ này tôi chưa muốn trả lời một lần đủ cả.
Hoạt náo viên hết lời tán dương ca khúc vang
vọng kéo dài trên năm chục năm vẫn làm chết lòng khán thính giả- và bữa nay -qua
hai giọng nam tuyệt vời biểu diễn sẽ không thể không gây ấn tượng lâu dài trong
mỗi chúng ta.
Tiếng vỗ tay khán thính giả cố rướn mắt
nhìn kỹ khuôn mặt nhạc sĩ tài hoa một
thời,đầy vẻ thán phục. Vẫn chưa thấy tác giả trả lời chính xác, nguyên nhân nào lại
viết đuợc ca khúc này trên dòng Hương ?
Dòng
Hương nước chảy bồng bềnh- một hạ sĩ
quan mới tốt nghiệp Trường sĩ quan mang lon trung sĩ, đi đi lại lại bên dòng
sông thơm gợi nhớ mối tình u uẩn một thời.Thầy đội bất đắc
dĩ đang phải đối mặt nỗi đau không cưới
được con gái vị trung tá, chỉ vì tội cãi nhau với mô-ni-tơ tây, khi còn là khóa sinh EOR ( Élève d’Officier de Réserve) Trường Bộ binh Thủ Đức.
Vậy là
Hiên Thù ơi! mối tình dữ chúng ta sẽ
làm anh đau lòng khôn xiết, nhớ em, đau khổ vì em, sáng tác bài nhạc này
dành tặng mối tình dang dở chúng ta. Có một lần đi phép về Sài Gòn , thằng bạn anh đèo xe đạp qua Trường Nữ Gia Long (đi tìm em, có tin cho hay lấy chồng rồi, em vẫn đi học tiếp ) lại đúng lúc tan trường, nữ sinh tỏa ra như ong vỡ tổ. Cô bé nào cũng
đẹp, cũng xinh, đều là thần tượng ,văn nghệ sĩ lấy làm khuôn mẫu cho tác phẩm .Anh
đang mơ mộng vậy – bạn anh ông ổng : ' Anh là tác giả tình ca
muôn thuở, yêu em thì yêu rất nhiều mà bạn anh xuyên tạc thành 'yêu em thì yêu rất nhiều mà ANH HẾT TIỀN
RỒI'. Anh muốn độn thổ, nếu bữa ấy có em
trong đám nữ sinh ấy!' Hãy tha thứ cho anh nhé em , giấc mơ xưa bây giờ tự nhiên gợi nhớ!
Thế rồi, một buổi gặp lại bạn học cũ ở Trường Hàn Thuyên (Bắc
Ninh) thời kháng chiến- Ông Đợi Nắng,- sước danh nhà văn, nhà báo Quốc Oai - tuyên bố dõng dạc:
- Tôi mời năm vị đi Đà Lạt năm ngày, và đề cử
anh Hoàng Vũ Đông Sơn & cô Mai Hồng Khương đi
tiền trạm trước một ngày.
'…
Khi được biết điểm hẹn là Café Tùng ,
tôi và Mai Hồng Khương bay tới. Đại phái đoàn có tới 5 người, thì đều là trên
cơ tôi tới cả mấy triệu lần: ông bà TêTêKaHát - Ông Chủ Đợi Nắng , và hai
Dượng giáo : Sầu Mê Điên và Anh
Hết Tiền Rồi.
Gặp được phái đoàn, tôi vừa mừng
vừa tức. Mừng vì đã gặp được người thân trong cảnh tha hương ngộ cố tri và tức vì họ
đã hành tôi cả nửa ngày trời lên đèo xuống dốc và cũng rất buốt vì cái hầu bao
rất khiêm nhường cuả tôi cứ lép dần, lép dần cho tới lép kẹp, vì phải nói
chuyện phải quấy với mấy ông xe ôm vui tính ở
miền đất cao.Tôi ngồi xuống ghế với thái độ như một Trương Phi, và trước
mặt tôi là bốn trự Đốc Bưu. Chỉ thiếu có bình rượu thật bự với một mớ cành liễu
với lũ lâu la hò reo cổ vũ như trong truyện Tam quốc của La Quán Trung Rất may cho cả làng, có bà Khê, sếp lớn cuả đàn
anh Typông đã xoa dịu tôi bằng cách
tỏ thiện cảm thương mến đàn em vất vả ngược xuôi. Bà hỏi tôi uống gì cho đỡ
mệt. Tôi chưa kịp trả lời thì bà đã ngoắc người phục vụ của quán tiến
ra. Tôi nói lời cảm ơn bà chị Khê và
người phục vụ. Dứt khoát không uống một thứ gì ,vì dỗi hờn ngùn ngụt dâng cao.
Đến bây giờ còn tiếc vì đã ở Đà
Lạt tới năm ngày mà không uống được một tách Cà phê Tùng, chỉ vì giận hờn. Thật vô duyên! Chị Khê và
Mai Hồng Khương tay bắt mặt mừng, tíu tít hỏi han nhau đủ thứ chuyện trên trời
dưới đất, lịch sự cứ như hai bộ trưởng
ngoại giao cùng phe đảng phác lập chương trình
vãn hồi hòa bình cho một phần nhân loại đang chịu đau thương.
Trước khi rời quán , Ông Chủ
Đợi Nắng đã chụp cho tôi một kiểu ảnh,
đứng bên cạnh bức tranh của anh Vị Ý đã có mặt ở Café Tùng từ 33 năm nay.Tôi đang mong có tấm ảnh này
để lên bàn thờ ông anh trong ngày giỗ
lần thứ 10, nhưng lại là lần thứ nhất tôi mới biết được ngày chính xác để cúng
giỗ. Nhớ hồi sinh thời, anh đặt con tôi vào nôi khi cháu mới ở Từ Dũ về, và nói
:
- Xin Quốc Tổ phù hộ độ trì cho
cháu tôi mạnh khoẻ, chóng lớn. Đời bác rồi không biết được có một thằng cu như
cháu không? Mai mốt có lẽ rồi bác phải vất vưởng ăn đồ thí, ăn cháo lá mít ngày rằm tháng bẩy hàng năm đấy cháu ạ!
- Anh đừng lo, cháu nó sẽ mũ gậy và hương khói
giỗ tết bác, nếu nó được làm người…
Tôi đã nửa đùa nửa thực nói với
anh như vậy. Không ngờ điều ấy lại là sự thực. Thằng con tôi, cháu không được
mũ gậy bác, vì không gian cách trở.
Rời quán, chị Khê về ngoại, tất
cả chúng tôi về chỗ Nam
Thiên lấy ba lô ra khách sạn Thủy Tiên
nghỉ. Trên đường đi, chúng tôi còn ghé thăm bà chị của dượng Anh Hết Tiền Rồi ở số 8 đường Hoàng Văn Thụ. Bà này nguyên là phó chủ tịch tỉnh
Lâm Đồng, nằng nặc bắt:
- …. Chú và các ông về đây nghỉ.
Rất tiếc không thể chiều theo ý bà ngay tối
đó, vì đã đặt phòng ở Thủy Tiên rồi .Ngay từ giây phút rời Café Tùng ,
tôi đã phải đối đầu với cuộc xa luân chiến.
Bắt đầu trận đánh là Ông TêTêKaHát , ông ẫm ờ ồm ồm cất giọng hát với lời chế mới: Phố núi cao phố núi đầy
sương / Có khách nạ đi nên đi xuống /
May mà có ên đời càng khó thêm. Tiếp đến
là dượng Anh Hết Tiền Rồi
đặt câu hỏi lớn:
- Hai ngày ở Đà Lạt lạnh lẽo như
thế này, mày đã làm gì cho hết thì giờ?
- Đi ăn, đi uống, đi thư viện đọc sách, đi bộ tìm
tí Xuân Hương, viếng Nhà thờ Con Gà- tôi ngây thơ cụ trả lời các đàn anh như
vậy đó
- Thì cứ thành thật khai báo đi,
từ việc ăn uống, đi đứng, nằm ngồi, đêm ngày ra sao? Anh em sẽ giữ kín cho.
Sống để bụng, chết đem đi. Đừng sợ…- dượng Sầu Mê Điên vào cuộc bằng lời lẽ tốt đẹp đầy tình nghĩa.
– Cám ơn cả nón lẫn giày rách thật
bẩn của các đàn anh bô bô kính mến đã quan tâm đến đàn em nhỏ dại này
- Thế đêm hôm qua các anh không
được… nên bây giờ nó đã giội ngược đẻ phun ra như rắn hổ mang vậy hả?
Và cứ thế, tôi bị luộc hội đồng
suốt đêm ấy cho đến gần trưa ngày hôm sau là 8 tháng 3 thì bắt đầu đổi tông.
Mũi tiến công chuyển qua dượng Anh Hết Tiền Rồi , bản chất trung thực và nóng nẩy của dượng, vì nghe gà hoá cuốc kiểu
cụ cố Hồng:
- Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!- nên
dượng đã bị một quả lừa, một mình sơi cả một cái bánh phỉnh bự.
- Thế là tôi và dượng Anh Hết
Tiền Rồi huề 1-1.
(…)
(…)
[ trích : HOÀNG VŨ ĐÔNG SƠN- THÁNG HAI BUỒN ĐỌC LẠI LỖ TẤN - Văn Uyển xuất
bản- San José 2002].
Kể cho vợ nghe chuyện ghi danh đi du lịch , bây
giờ cũng lắm cò làm ăn môi giới ăn
tiền đầu. Chẳng hạn có một anh việt kiều Mỹ mới về nước, tâm sự với người nhà
muốn đi du lịch xuyên việt một chuyến. Chẳng hiểu sao người nhà nói với ai tới tai một cò, thế là anh ta đến nhà tự giới thiệu đang tổ chức tour, xin được anh ghi danh, đóng tạm
ứng trước,cho biết rõ ngày, giờ, tháng xuất hành. Anh việt kiều Mỹ nhìn tờ
chương trình: 15 đêm, 16 ngày, qua Huế, Thánh địa LaVang, Phong Nha-Kẻ Bàng, Tam Cốc-Bích Động, Mai Châu-Hoà Bình, Hà Nội, Đền Hùng-Phú Thọ,
Yên Bái, Lào Cai -Sapa, Hà Khẩu- Chợ Cốc Lếu -Trungquốc,Lạng Sơn-Chợ
biên giới Tân Thanh, Yên Tử-Vịnh Hạ Long- Quảng Ninh, Ngã Ba Đồng Lộc-Hà Tĩnh,
Cưả Lò, Vinh Nghệ An, Hội An, Nha Trang .
Lại có thêm bảng chi tiết kèm theo.
'TOUR
XUYÊN VIỆT/ NGÀY…- Danh sách chi tiết đính kèm, địa điểm đón khách, giờ khởi
hành, Xe ca đời mới: 45 chỗ 53M: 234.., tài xế: ….. ĐT: 097. 128.12… Ngày 1:
Tp.HCM- …… Thực đơn… Đến … Tham quan Khu
Du lịch…..Ngày 2: …../Ngày 3:…/Ngày 4:….. vv…vv...'
Anh việt kiều Mỹ đóng đủ một lần, không cần tạm ứng ,
người nhận tiền ghi đầy đủ họ tên, điạ chỉ Công ty Du lịch
X… đóng mộc tròn .Thế là đủ tin cậy rồi ,và chờ tới ngày xe đón tận
nhà lên xe đi du lịch.
Bữa cơm trưa đầu tiên, anh việt kiều đưọc xếp
cùng mâm với tài xế, cơm ba món, quay sang bàn khác có bốn. Chẳng nghĩ ngợi gì,
chắc bẩm vô tình đuợc xếp cùng mâm tài xế- và cho đến bưã tối ăn cơm vẫn cùng
mâm bác tài. Còn ngủ khách sạn, được xếp chung phòng bốn người, thay vì phòng dành riêng, từ một đến hai người, như cò hứa. Qua ngày thứ hai, cũng được sắp
cùng mâm tài xế, vẫn ba món, các bàn khác
bốn; vẫn ngủ phòng chung bốn
người. Anh bắt đầu thắc mắc, đặt vấn đề, hỏi ban hướng dẫn- khi biết sự thật,
các khách đóng sáu triệu sáu-riêng anh cò
hợp đồng chỉ đóng cho công ty bốn triệu
sáu- phần gồm ba món ăn chung vơi tài xế, ngủ chung hai người / giường.
Về Sài Gòn, lục số di động tìm gặp cò,
gọi rất nhiều lần, được trả lời số máy này không có thật. Anh việt kiều
Mỹ biết bị cò lừa- ăn hớt tay trên
hai triệu. Một gia đình việt kiều khácgồm bốn nhân mạng cũng bị lừa, ăn chung với tài xế, ngủ hai người/
giường vậy cò đã bỏ vào túi tám triệu ngon
lành!
Quá
12 giờ, xe rẽ vào khu Du lịch Cà Ná ăn trưa. Một khu trung tâm du lịch đẹp, nhà
hàng rộng rãi, cảnh trí tuyệt, ngoài kia biển xanh, gió thổi lùa dịu cơn nóng
bức- phiá sau núi đá, đá chồng lên đá- cây
cối mọc chen hàng phủ được rất ít mầu xanh.Trên
ba chục khách bước vào các chiếc bàn ăn dọn sẵn ,cứ bốn người /bàn-
bàn trải khăn trắng toát, thức ăn bày rất bắt mắt. Nhìn thực đơn, canh cải thịt
bằm, cá chiên sốt cà, tôm ram thịt, cải xanh sào dầu hào, cơm trắng và tráng
miệng ly trà đá. Được giải thích, quí khách uống bia, cà phê, rượu ,thức uống
ngoài tiêu chuẩn, xin tự thanh toán. Vừa đói bụng, có thức ăn ngon, cảnh vật
sinh tình, lòng người vui; đa số khách ăn vừa miệng. Riêng vợ tôi qua ngày đầu đi xa, mới ăn sáng phải ngồi
trên xe chạy liền tù tì sáu, bẩy tiếng đồng hồ; bụng sôi sùng sục, khó tiêu
chẳng muốn ăn. Bà mẹNam Bộ mách nước, cần một lát gừng sống nhai nuốt xong, ổn
ngay thôi. Áp dụng phương thuốc dân gian rất hiệu nghiệm, chỉ ít phút sau,vợ
tôi rối rít cảm ơn bà mẹ Nam
Bộ, người nhiều tuổi nhất trong đoàn.
Tranh thủ thời gian nghỉ trưa, chúng tôi
lấy máy ảnh ra chụp, nghĩ thật tiếc khu
trung tâm du lịch Cà Ná sao laị vắng khách dừng chân nơi sông biển hữu tình, núi
non mênh mông đẹp như vậy. Trước đây
ít lâu, một ông chủ bỏ tiền dự định mở một khu du lịch
sinh thái ngoài đảo; thì khách ra vào trung tâm trung chuyển ở đây rất đông- dự án
sau bỏ dở ,nên trung tâm Cà Ná bên này bị ế ẩm.
Chủ khai thác chỉ tay, tôi nhìn thấy khu xa xa ngoài biển kia, như tiếc
nuối một dự tính làm ăn ban đầu bị bít
lối, bây giờ sinh cảnh tiến thoái lưỡng nan. Bên cạnh những ki-ốt đá chồng lên đá được
thiên nhiên sắp đặt làm chỗ ngồi thoải mái ngắm biển, bên tay trái là núi đá, đá
lớn ,đá nhỏ, to như một cái lều , nhỏ
hai ba người ôm;đá nhấp nhô tự xếp lớp lang, qui cách tự nhiên, và như có
một lớp dính kết chặt để không dễ gì đổ ngày một, ngày hai xuống quốc lộ được!
Rồi
lại tiếp tục lên đường, còn cả một chặng rất dài, qua Cam Ranh, Ngã ba Thành-Nha Trang, Vạn Giả,Vạn
Ninh,Tu Bông, Đại Lãnh, Đèo Cả vv-. khiến tôi nhớ lại mươi năm trước, cũng theo quốc lộ 1A ra Huế-thì điạ danh VẠN GIẢ ghi trên cây mốc một chữ duy
nhất: GIẢ- và bây giờ phục hồi giống hệt
cũ: VẠN GIẢ. Xưa kia VẠN GIẢ, thời điểm 1997 chỉ còn một chữ GIẢ, vậy thì một
GIẢ hay TRIỆU GIẢ -chỉ cần MỘT GỈA là đủ. Bởi lẽ, MỘT GIẢ có khác gì MƯỜI, TRĂM,
NGÀN, VẠN, TRIỆU GIẢ… đâu?
Sau giải
phóng, chẳng ai- chẳng biết còn nhớ tiểu
học, trung học đệ nhất cấp, tú tài một, tú tài hai là cái gì ; thì nay lại thấy
được nhắc đến trường tiểu học, thi tú tài…-vậy là được phục hồi đương nhiên tự
tại. Cái gì thuộc về César, hãy trả lại César,
chẳng đúng vậy sao? Đến điạ phận Đại Lãnh, chao ôi! nhìn biển dài xanh
mướt, nước trong vắt, bờ cát thoai thoải -vào năm 1957, với tên gọi Cap Varella - tên vịnh có từ khi thực dân Pháp đặt chân
lên đất này- có một lần vua Minh Mạng ngồi ngắm biển, biển đẹp quá, sẵn cảm
hứng ,bèn đề thơ xưng tụng. Chẳng ai chỉ cho thấy nét chữ vua- ,nhờ biết được từ
sử sách chép lại. Rồi quan Công sứ (chủ
tịch ủy ban tỉnh) đi kinh lý khen tên
thôn xã này: tout va bon ,bởi công sứ
tây thích biển đẹp, nước biếc xanh trong, nằm dưới chân Đèo Cả, cạnh sườn Đại
Lãnh. Chẳng hiểu ngoài cảnh đẹp sinh tình , liệu có bóng giai nhân điạ phương nào
làm mờ đôi mắt bi ve không ?.Thế rồi, dân làng đặt tên gọi Tu Bông?
Tôi
nhìn sang phiá trái, vẫn thấy quán ăn
rào bằng lưới B40, không hiểu khách đi
xe đò còn bị lùa vào đây ăn cơm tù
không? Đóí,no,khát không khát; xe đò xuống khách buộc ăn cơm uống nước ngọt,
trả giá cắt cổ thì được yên thân, không liệu hồn - báo chí gọi đích thực cơm tù!
Cơn bão Xangsane
vừa thổi qua đây, cây cối trốc gốc, đất đá ào ào lấp đường quốc lộ. Xe ủi
đẩy nhiều khối đá tấn làm đường cho xe qua từng chiếc một. Xe đò lên cửa kính,
tránh các bà, cô, cháu, em nhỏ bán rong ,chèo kéo mua hàng: trứng luộc,hột vịt
lộn, trứng cút,mía ghim,đậu phọng –riêng
xe máy lạnh tài xế Năm đóng chặt cửa thoát cảnh này. Mỗi xe nhích từng thước
trên Đèo Cả nối đuôi rồng rắn thế kia, thì viễn ảnh đến Quy Nhơn không thể
trước 18 giờ chiều như dự tính. Đêm nay đến
thành phố Quy Nhơn , cửa lên đồi Ghềnh Ráng đã đóng lại rồi, làm sao
thăm được mộ Hàn Mặc Tử – còn thăm bãi tắm lịch sử hãy chuẩn bị vén quần bì bõm lội biển qua ánh đèn pin -đi tìm Nam Phương - liệu còn in dấu trên bãi tắm Hoàng Hậu ?
Thời
khoá biểu cho một ngày với vợ chồng tôi khi còn ở nhà, sáng dậy vào lúc 4 rưỡi
hoặc năm giờ, đôi khi dậy muộn không thể quá sáu giờ mười lăm. Từ bốn năm nay,
chúng tôi phải uống uống thuốcđiều hoà huyết áp cao vào lúc sáu giờ rưỡi sáng.Ngủ
ở lầu một xuống tầng trệt, tôi mang theo chiếc bình thủy xuống bếp đun nước
sôi, gọt hoa qủa,ăn đôi ba miếng, pha sữa nhai vài miếng bích qui rồi uống
thuốc, sau đó lên lầu cầu nguyện, đọc một đoạn kinh thánh chừng năm phút.Và tiếp
tục tập thể dục, hít đất ba lần, mỗi lần chín chục cái ,thở ra hít vào ba trăm lần,
tập tạ tay khoảng ba ki lô, làm mươi động
tác trên kép xà ngang -tất cả buổi tập mất chừng bốn mươi lăm phút, cuối cùng tắm
nước lạnh, làm vệ sinh . Một tuần tập đều từ
thứ hai đến thứ sáu, thứ bẩy, chủ
nhật nghỉ.
Bây
giờ đi xuyên việt cũng phải tập như ở
nhà, tuy thời lượng ít hơn; bởi không vậy sẽ không dễ đi vệ sinh cá nhân, và , điều này sẽ gây bất tiện cho hành trình trên xe di chuyển. Ngày thứ nhất quađi,
hoàn tất đúng theo chương trình, thoải mái, nhẹ nhõm trưóc khi bước lên xe . Mười
lăm phút di chuyển lên tới Khu Du lịch Ghềnh Ráng -nơi mộ Hàn Mặc Tử nằm trên
ngọn đồi thật đẹp, đường lên dốc có độ chênh không mấy cao, phía bên trái xa xa
nhìn sóng vỗ rì rào trên bãi tắm Hoàng Hậu. Bỗng nhiên, bác tài giảm tốc độ, xedừng lại, có một người đi xe
gắn máy gọi ơi ơi từ phía sau, hướng dẫn
viên cho biết : đó là nghệ sĩ Dzu Kha, tác giả sách Hành trình đến với Hàn Mạc Tử (NXB Hội Nhà văn ,2006). Cuốn sách
này không chỉ viết tiểu sử, nghệ sĩ còn chép thơ Hàn Mặc Tử bằng bút lửa trên
giấy thông cán mỏng; gia đình Nimbus Tourist có thể mua làm quà tặng bạn bè .
Đặt bước đầu tiên trên đồi cỏ xanh mướt cây lá, và đặc biệt là
loại trúc óng vàng thật bắt mắt,
đốt tre dài không gai bóng loáng mầu
vàng rực, tựa như được ai đó phết lên lớp dầu bóng. Chụp ảnh xong ,chúng tôi bước vào một ki-ốt nhỏ treo bảng :
QUẦY
LƯU NIỆM THƠ HÀN MẠC TỬ.
chủ nhân nghệ sĩ Dzu Kha. Vợ tôi mua ngay một lá thơ ( bằng gỗ thông dát mỏng) viết bằng bút
lửa giá hai chục ngàn:
SOUVENIR
QUY NHƠN : 6-10-2006
Dầu đau đớn vì điều phụ rẫy
Nhưng mà
ta không lấy làm điều
Trăm năm vẫn một lòng yêu
Và còn yêu mãi rất nhiều em ơi!
HÀN MẠC TỬ.
Cuốn sách Dzu Kha giá bìa 20000
VNĐ /cuốn - bìa 1: bức tranh quê, vành
trăng khuyết, dăm cành lau hắt bóng trên
dòng nước -bià 4: Những nàng thơ thoáng qua cuộc đời HÀN
MẠC TỬ: Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình, ThươngThương, Ngọc Sương.
Nhà sưu soạn ghi bút danh Nguyễn
Trọng Trí : HÀN MẠC TỬ khác bút danh đúng nhất là HÀN MẶC
TỬ.
Tại sao lại bút hiệu Hàn Mặc Tử
mới được coi là chính xác, bởi lẽ, tôi đã giải thích một trong cuốn sách
nhỏ viết về Hàn -giữa hai bút
hiệu HÀN MẠC TỬ và HÀN MẶC TỬ- MẶC hay là MẠC?
…“ Hàn Mặc là bức rèm lạnh, Tử
cho là độc đáo tìm đến khoe cùng tôi ( Quách Tấn ). Tôi đáp
- Đã có rèm thì thêm bóng trăng
vào. Hỏi còn cách nào nên thơ cho bằng?!
Tử hội ý, cầm bút vạch vành trăng
non lên đầu chữ A của chữ MẠC thành HÀN
MẶC TỬ .
MẶC
là MỰC, HÀN là BÚT
HÀN MẶC TỬ là anh chàng BÚT MỰC.
Tử sửa xong, thích chí nói:
- Đã có bóng trăng rọi vào thì từ
nay tôi cũng như thơ tôi sẽ mỗi ngày thêm rạng ngời như bóng trăng”
( trích QUÁCH TẤN-
ĐÔI NÉT VỀ HÀN MẶC TỬ, 1988).
Cũng chẳng trách được mấy tay
ngang viết về Nguyễn Trọng Trí (in
thành sách hẳn hoi, dầu chỉ tập hợp một số bài viết về Tử , ngang nhiên để tên người sưu soạn chình ình trên bìa một) lại
dùng bút danh sai về nhà thơ tài
danh Hàn Mặc Tử?
Người đầu tiên viết rất chững chạc về Hàn MặcTử thời tiền chiến là
TrầnThanh Mại ( 1941), 1950 là
Thái Văn Kiểm- đến năm 1957 cuốn
thứ ba : Hàn Mặc-Quách Thoại, nhà thơ
siêu thoát (Sài Gòn 1960, 1965 ), có đoạn ,tôi viết:
“…Cho đến năm 1998, sách viết về
Hàn MặcTử có trên mười cuốn, là không kể những bài báo, chương sách viết riêng
lẻ trong các cuốn sách. Chẳng hạn trong Nhà
văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan dành một
chương nói về Hàn Mặc Tử, Thi Nhân Việt Nam -Hoài Thanh-Hoài Chân, Kỷ niệm
văn thi sĩ tiền chiến -Nguyễn Vỹ.
Còn viết trên báo, tổng số trên dưới 50, của nhiều tác giả nổi tiếng , hoặc là
bạn bè văn chương của Hàn Mặc Tử.
Báo Người Mới do Hoàng Trọng Miên phụ trách đăng rất nhiều bài nói về Tử- của Bích Khê, Chế
Lan Viên, Hoàng Trọng Miên ( ký Trọng
Miên); hoặc Xuân Diệu ( Bài thơ của người ) đăng trên báo Ngày
nay ( 1938).
Sau này từ
1954 đến 1975: Bùi Tuân, Bùi Xuân Bào, Châu Hải Kỳ ,Đào Trường Phúc, Võ Long Tê, Huỳnh Phan
Anh, Lê Huy Oanh, Lê Tuyên, Đặng Tiến,
Ngọc Sương, Nguyễn Kim Chương, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Xuân Sanh, Phạm Công Thiện,
Phạm Đán Bình ( Paris), Quách Tấn ( ký Trường Xuyên), Thanh Lãng ( trong sách
Bảng lược đồ văn học Việt Nam ), Thi Vũ (
Paris), Trương Văn Ngọc … hầu hết đăng trên tạp chí Văn do Trần Phong Giao, Mai Thảo, Nguyễn
Xuân Hoàng luân phiên thư ký toà soạn – (chủ
báo: Nguyễn Đình Vượng).
Năm 1976- nước Việt Nam thống
nhất- ,bắt đầu có thêm nhiều bài báo đăng lẻ tẻ, hoặc một chương riêng bàn về Tử phải kể đến: Đỗ Lai Thúy, Lại Nguyên Ân, Ngô Văn
Phú, Nguyễn Minh Vỹ, Nguyễn Quân, Nguyễn Văn Xê và Phan Xuân Tuyển( Phạm Xuân Tuyển sau này) , Phùng Qúy
Nhâm, Vũ Quần Phương, Yến Lan…
Về
sách, chỉ nói riêng tới Hàn Mặc Tử đầu tiên là sách của Trần Thanh Mại ( Hàn Mặc Tử,
Thân thế và Thơ văn, 1942)- Thái Văn Kiểm : Un grand poète
viêtnamien: Hàn Mặc Tử (Saigon ,1960)- Thế Phong
Hàn Mặc Tử 1912-1940 & Quách Thọai 1929-1957, nhà thơ siêu thoát, Sài Gòn 1960,1965; sau 1975 NXB Đồng Nai
tái bản: 1998 ,2002, 2004)- Hoàng
Diệp: Hàn Mặc Tử ( S.1968)- Chế Lan Viên: Hàn Mặc Tử: Anh là ai? (Văn NXB Nghĩa Bình & NXB Văn Học cùng xuất bản cuốn này - cùng năm 1989) - Nguyễn Bá Tín: Hàn Mặc Tử: Anh
tôi ( NXB Tin Paris 1990, sau NXB Văn
Nghệ Tp. Hồ Chí Minh tái bản năm 1991, riêng bản này lược bỏ khá nhiều, so với
ấn bản in ở Paris- Quách Tấn: Đôi
nét về Hàn Mặc Tử ( NXB Nghĩa Bình, 1988)- Phan Cự Đệ: Thơ văn Hàn Mặc Tử- NXB
Giáo dục 1993)- TrầnThị Huyền Trang: Hàn Mặc Tử: Hương thơm & Mật Đắng (NXB Hội Nhà Văn 1991- Nguyễn Thụy Kha: Hàn
Mặc Tử, Thi sĩ đồng trinh ( NXB Đà Nẵng
1996 )- Lữ Huy Nguyên: Hàn Mặc Tử, Thơ & Đời - Vương Trí Nhàn: Hàn Mặc Tử, Hôm qua
& Hôm nay (NXB Hội Nhà Văn 1998 )- tổng hợp bốn cuốn trích đoạn của: Trần
Thanh Mại, Quách Tấn, Hoàng Diệp,
Nguyễn Bá Tín - mà ông Nhàn gọi là :
“…cuốn sách tập hợp được gần như tất cả những
gì mà người yêu thơ Hàn Mặc Tử cần biết, nhưng lại chưa được giới thiệu đầy đủ
trong các tập sách nghiên cứu khác…”
sưu soạn-
theo cách nói, tốn công phu sưu tập- song dễ thực hiện, và ích lợi cho độc giả
không nhỏ.
Bởi vì, chỉ cần mua một cuốn Hàn Mặc Tử
Hôm qua & Hôm nay / Vương Trí Nhàn sưu sọan, ít nhất coi như
mua bốn cuốn trích đoạn gộp lại ,
cộng thêm nhiều bài báo khác nói về Tử.
Đấy cũng là một cách biết kinh doanh hiệu quả về đề tài Hàn Mặc Tử, ít
tốn mồ hôi công sức, giầu công phu sưu tập,
thu lợi nhuận về lại cao.
Có ai
biết đưọc rằng kẻ sưu soạn trước khi
cho in, đã có lời xin phép chưa , và sau khi in chắc gì hậu bối các tác giả nhận được đồng
tiền danh dự gọi là trả bản quyền? Dieu
seul le sait!
Có Trời mới biết nơi nào ma ăn cỗ!
một cuốn khác :
Đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử -
Phạm Xuân Tuyển sưu soạn
( NXB Văn học 1998)
- hình ảnh thật công phu, đầy đủ nhất, kể cả phổ trạng, hồ sơ học bạ, văn bằng Tử; nhưng đến phần đánh giá giá trị tư tưởng Tử thì mờ nhạt, không thấy đâu là ý riêng của soạn giả. Có lẽ, sự ôm đồm hiểu biết kho tàng tài liệu bổ béo về Tử sưu tập được; lúc viết ,soạn giả chưa kịp tiêu hoá khai thác thành cuốn sách hữu ích đối với độc giả chọn lọc .
(…).
Đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử -
Phạm Xuân Tuyển sưu soạn
( NXB Văn học 1998)
- hình ảnh thật công phu, đầy đủ nhất, kể cả phổ trạng, hồ sơ học bạ, văn bằng Tử; nhưng đến phần đánh giá giá trị tư tưởng Tử thì mờ nhạt, không thấy đâu là ý riêng của soạn giả. Có lẽ, sự ôm đồm hiểu biết kho tàng tài liệu bổ béo về Tử sưu tập được; lúc viết ,soạn giả chưa kịp tiêu hoá khai thác thành cuốn sách hữu ích đối với độc giả chọn lọc .
(…).
Giã từ Ghềnh Ráng, quay lại nhìn
ki-ốt nghệ sĩ viết
thơ Hàn Mặc Tử bằng bút lửa, tự nhận người giữ lửa Thơ Hàn - biết dùng vành
trăng khuyết in ngoài bià một- lại không biết HÀN MẶC TỬ là bút danh chính thức
của Nguyễn Trọng Trí.
Từng theo học mỹ thuật tại thành phố Hồ Chí Minh, Dzu Kha trở về quê Quy Nhơn-Bình Định , thuê đất dựng
lều- chép thơ Hàn qua
bút lửa- in thơ bán cho du khách làm kế sinh nhai, nuôi đủ vợ, con –
thương-mại-hoá trò chơi bán thơ,
buôn chữ thực dụng -như cách làm Vương Trí Nhàn. (Hàn Mặc Tử Hôm qua & Hôm nay) .
Buổi sinh thời Tử mắc bệnh
phung, cuộc sống thường ngày đói khát,
khổ hạnh tâm linh; chết rồi ,có kẻ kế thừa
danh xưng , tạo được đời sống vật chất
no đủ hơn; hẳn Tử cũng được an ủi-
vậy thì cứ hét toáng lên đi : tên tôi sau này sẽ sung sướng hơn tôi bây
giờ ! ( lời than nhà văn Nga, Nicholas Gogol ?- tôi nhớ theo
trí nhớ ).
Nhìn quang cảnh chạy dài qua tầm
mắt trên quốc lộ 1A, cơn bão mạnh đến nỗi bẻ cây cối gãy gục làm hai như ta bẻ
que tăm gập đôi, các khóm tre bật gốc nằm nghiêng ngả; các khung sắt dựng biển
quảng cáo trên bờ bị quật đổ, nằm phơi trên ruộng lúa, căn nhà này tróc nóc
tôn, căn kia tường gạch bị vạt sạt góc, cửa sắt bị gió xô đẩy uốn cong. Thật chẳng
còn cảnh nào thê thảm hơn lũ lụt hàng
năm thường xảy ra vài lần ở miền Trung! Tự
dưng tôi thấy tốc độ xe phóng nhanh , có lẽ bác tài tranh thủ
đến Đà Nẵng sớm kịp giờ ăn
trưa tại Nam Hải Vân, và buổi chiều còn đi thăm khu du lịch Núi Chúa-Bà Nà, chùa Linh
Ứng - riêng tôi mong được ngắm đào chuông,
loại hoa hiếm bông nở rất đều mầu hồng trên nền xanh rêu , và lủng lẳng
cái chuông nhỏ mầu trắng lắc lư theo gió.
Đã gần một giờ chiều vẫn chưa tới Đà Nẵng,
hai bên đường nhìn thấy chẳng có chỗ nào thuận tiện xe dừng cho khách đi vệ sinh. Xe vào nội ô,
nhìn cây cối hai bên phố phờ phạc, cành
đổ , lá trụi , có thân cây to hai người giang tay ôm bị trốc gốc; bác tài mắt
nhớn nhác tìm địa chỉ nơi ăn trưa -thì
Nhà hàng Nam Hải Vân đóng cửa từ bao giờ!
Hướng dẫn viên bốc di động gọi cho ai đó, sau
đến một nhà hàng mang bảng hiệu chữ
Hán rất lớn duy nhất mở cửa đón khách
tây, ta. Tôi không kịp nhìn tên đường ,chỉ biết mang máng, phía đối diện là Nhà
sách Phương Nam cửa đóng then cài.
Nhà
hàng rất đông khách Âu, Á, bữa ăn trưa quá bữa vừa miệng hay không cũng chỉ để nuốt nhanh hơn mà thôi. Không kịp ngồi nán cho cơm an vị nơi bao tử,
lại lên đường trực chỉ Khu du lịch Bà
Nà.
Vẫn
được chứng kiến cảnh cây đổ, nhà tốc mái, cửa sắt bị bẻ gẫy như trò chơi bằng
nhựa trẻ nhỏ thường chơi- nhớ cách nhập
tâm một dãy trường học cấp hai bị gió
làm tốc mái, tường xiêu, cửa ngỏ tan hoang, sức gió mạnh đến đỗi xé toạc thân cây làm đôi ngã gục chắn đường lên Núi Chúa.
Trước khi xe leo lên chùa Linh Ứng ,phải vào mua vé ở quầy
,có tấm bảng hình bầu dục-Xin quí khách
mua vé tại đây- nhìn sang phía đối diện là hai căn song lập, một căn còn nguyên, và căn kia đổ sập
tường, mái lốc như nhà mới chưa lợp mái. Vậy là gió cũng chọn đối tượng : căn
nào cho xập mái, căn nào cần giữ nguyên
trạng .Cái khổ của dân bị bão làm tan
nát cửa nhà, ruộng vườn , hoa mầu mất
trắng, gà, vịt, trâu bò chết vô tội vạ- khi được nhà nước đền bù- báo chí đăng tải, địa phương khiếu kiện bị ăn chặn- nghe đâu từ
cơn bão trước đến cơn bão mới -vẫn trong tình trạng chờ được đền bù.
Và chỉ
không đầy hai năm trở lại, quang cảnh đây đã khác hẳn. Lần ấy, chúng tôi đến Bà
Nà đúng 12 giờ đêm. Con đường lên đỉnh núi đang
làm dang dở, xe đậu ở chỗ máy đào, chúng tôi bám dốc leo lên khu du lịch, đẩy cửa phòng ăn, bắt gặp hàng trăm con bướm đủ mầu to đùng đậu trên tường. Nhân viên câu lạc
bộ xuống phòng đánh thức phó giám đốc. Chị
Vân đưa danh thiếp, mắt nhắm, mắt mở,
hãy còn ngái ngủ ;cho biết sẽ làm mì gói
thịt gà quay ăn tạm. Chúng tôi thuê một phòng gồm ba giường rộng thênh thang, vào toa lét không có nước nóng. đành tắm
nước lạnh. Rồi lên giường ngủ, ba người chúng tôi ba giường.
Anh
Vân lái xe rất chiụ chơi, tay lái cứng mới dám chấp nhận lên đỉnh núi cao 1500 thước lần đầu tiên ban đêm . Cậu Ba, con tôi, khen bố già
chịu đựng còn giỏi .
Trên
núi khá lạnh, 10 độ C như khí hậu Đà Lạt, mà trước đó vài tiếng đồng hồ ở chân núi
không khí oi ả trên 30 độ C.
Nhìn xuống dưới kia, thành phố Đà Nẵng chỉ
là một rừng đèn nhấp nháy. Những căn biệt thự xây từ thời tây, giai đọan Nhật
chiếm Đông dương, làm trung tâm dưỡng sức cho quân nhân, công chức Pháp, y hệt
biệt thự trên đỉnh đồi Bạch Mã -Huế.
Bây giờ, khoảng đất hoang vu trống trải vào năm 2004 không còn nữa- nhà cưả xây lên san
sát, nhà trệt, nhà lầu đôi ba tấm, nhà mái ngói đỏ ,tường sơn vôi màu thiên lý; nhà
sơn tường mầu tím, mái bằng ,có nhà chỉ mới cất chòi tạm, bốn bề xây tường bọc quanh kiên cố không muốn ai dòm
ngó, có khu đất mua rồi chưa xây nhà, bốn bên trồng cột xi măng rào giây kẽm gai. Quả thời gian trôi qua nhanh như tên lửa - người thì
càng già càng xấu đi , còn cảnh vật ngày càng xanh tươi , nhìn càng bắt mắt hơn!
Tôi nhớ rất rõ, đó là tháng hai 2004, dịch cúm gà tái hiện, báo chí
đăng tin rùm beng, trước mắt cần phải tiêu diệt tất cả loài chim kiểng nuôi
trong các hộ- kể cả chim bồ câu hoang - với số lượng rất lớn bay rợp bầu trời thành phố. Họ săn bắt chim
bồ câu tự do bằng cách thả hoá chất vào tổ, có ngày chúng chết la liệt -
đến nỗi một cơ quan quốc tế lên tiếng kêu gọi Ủy ban thành phố xin hãy ngưng tay!
Một sáng, công an khu vực cùng hai nhân viên đô thị đến gõ cửa nhà, yêu cầu ký vào biên
bản không được nuôi chim kiểng, buộc trao số loại chim đang hót trên sân thượng
cho họ. Hồi ấy,tôi nuôi hàng chục loại chim, chú nhồng có bộ lông đen đẹp tựa
nhung, sáng nói líu lo nhà có khách bố ơi
, đôi khi khách lên sân thượng ,nghe tiếng không biết ai nói và từ đâu có giọng trong trẻo đến vậy. Rồi
hai con sáo nâu đang bi bô, có khách-có khách , ba con khướu mun Lữ Quốc Văn tặng - vì bà vợ rỉ rả suốt ngày ông
không được nuôi chim, nhà nước cấm; và con
dâu theo phe mẹ chồng: bố ơi mẹ nói đúng
đấy, nuôi chim tai hại lắm, thà bố có mèo còn
chấp nhận được ! Còn hai chú cu gáy sáng sớm đánh thức chủ cúc cù cu-thứ chim dễ nuôi- chỉ cần bỏ
thóc và cát cho nhiều, nước uống đầy ve là ổn.
Tôi ký vào giấy cam đoan không nuôi chim
kiểng ,nhưng nhất định không cho họ lên sân thượng kiểm tra, chỉ vui lòng xách
xuống nộp hai chú cu gáy. Rồi tôi đem
các lồng sáo nâu, sáo sậu, yểng ( miền nam :nhồng) giấu biệt trong các phòng, khoá cửa lại, và
tôi vỗ vài cái ngoài lồng: các con hót
là bị giết đấy! Ngoan
ngoãn biết nghe thì sống !Chẳng hiểu
chúng có lĩnh hội được câu nói dài lại rất lạ tai không? Nhưng chúng không còn
hót nữa khi được giấu ở các phòng trên lầu, lầu hai, lầu ba tối như đêm.
Trưa ấy, tôi sẽ phải đem sáu, bẩy chú chim
yêu dấu lên gửi ở nhà Ý Nhi .Qua điện thoại, chủ nhân bằng lòng : 'anh phải đem lên ngay, vì tối nay vợ chồng
em lên tàu hỏa ra Quảng Ngãi,về quê
anh Lộc !'
Biệt
thự giáo sư Nguyễn Lộc-Ý Nhi nằm giữa
khu đất rộng, không chung chạ xóm giềng,
nhà sẵn nuôi vài chú chim hót, lại chẳng ai hỏi han dòm ngó. Vậy thì tôi di tản chúng tới đây như
đến đất hứa- mong chúng được sống lâu
hơn- dầu mang thân phận cá chậu, chim
lồng. Giả thử thả chúng về với bầu trời tự do, thì chính chúng sẽ tự diệt - bởi
chúng chỉ quen môi trường tứ khoái: ăn, ngủ, ỉa, hót-quên cảnh tung đôi cánh
soải ngoài trời bao la -nay tự kiếm thức
ăn thì không thể .
Có được kinh nghiệm này, tôi đã có lần thả
chúng, những con khướu mun rất nhát người vẫn không chịu bay đi, cứ bay về luẩn
quẩn xung quanh lồng cũ chờ ăn thức ăn .Có chú chim ở đây cả tuần lễ , rồi mới bay đi luôn một lèo không trở lại; và bây giờ hiểu chúng đã quen thuộc lối sống chim bổi chưa ; hay rồi sẽ giục xác một nơi nào đó ! (chim
bổi: chim hoang dại, chưa được thuần hoá).
Một mình không thể xách hết mấy lồng chim -
nhờ con cái trong nhà tôi lại không muốn
-vậy chỉ còn nhờ cô bạn học cũ của Ý Nhi
cùng học Đại họcTổng hợp Hà Nội- liệu cô
vui lòng bỏ giấc ngủ trưa ngồi sau chiếc xe Honda 78
cà tàng- tôi chạy thẳng lên Gò Vấp, phường 11.
Khi tôi vưà cho xe quẹo trái vào hẻm dẫn tới chùa Nghệ sĩ - một chiếc lồng nhốt
ba chú chim im ắng- không nghe thấy tiếng
lục đục nhảy nhót; mở ra xem ba
chú chết nằm quay lơ. Thế là không còn được nghe chú nhồng gọi nhà có khách bố ơi nữa rồi, còn chú sáo
sậu, sáo đen hết bi bô tập nói, chú khướu mun
gục đầu ngoẹo cổ.
Thôi
đành quẹo vào khu đất đầu hẻm bỏ xác
chúng cạnh vài ngôi mộ hoang . Khi đến trước
nhà,
tôi bấm chuông liên hồi, hy vọng cứu sống mấy chú chim sống sót - Ý Nhi chạy
vội ra mở cổng- cô bạn cũ nói ngay:
-Chỉ
có Ý Nhi cứu sống được chim Thế Phong thôi!
Cả hai vị nữ cười vang , riêng tôi, miệng im như thóc.
Lại một khúc phim được hồi tưởng về thú chơi chim cuả tôi ngày thơ ấu. Nhà tôi nằm trên môt ngọn đồi, phía sau trồng toàn
cọ,thân cây cao vút, chiều chiều đoàn yểng bay về hót ríu rít. Chúng có bộ lông
nhung đen láng mượt mà, mỏ đỏ chót ,
giọng trong trẻo cao vút soprano, mỗi
lần sải cánh đậu trên cành cọ, lại
nghiêng đầu nhìn xung quanh rồi mới vào
tổ. Chúng đề phòng an ninh vòng ngoài
rất cẩn mật. Cứ như vậy nhiều năm, chẳng bao giờ tôi để ý ,sáng chúng hót vang
vang , chiều bay về lại vang vang tiếng hót
lanh lảnh. Mẹ tôi kể, nơi nào đất lành chim đậu, dữ chim bỏ tổ bay đi.
Có một chiều xuân không còn thấy đoàn yểng
hàng chục con bay về tổ, chiều hôm sau ,tiếp nhiều chiều tiếp theo , bỗng vắng
bặt bóng chim cùng tiếng hót quen thuộc! Cảnh tượng chung hót líu lo,
hết con này tới con kia, hót hồi lâu mới liệng đôi cánh xuống cành cọ vào tổ,bây
giờ không còn nữa, vậy chúng đã bỏ đi
nơi khác thật rồi sao ?!- mẹ tôi than thở
vậy.
Giữa năm ấy, đoàn quân Pháp trốn Nhật đảo
chính, do tướng Alexandrie cầm đầu ( sau
này lớn lên tôi mới biết tên) từ
ngả Phù Yên-Sơn La băng qua đèo Pú Khau Phạ
xuống xã Thượng Bằng La, (huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái) qua Nghiã Lộ , Lào Cai
,sang Vân Nam -Trung quốc.
Mẹ tôi nhìn đoàn quân thất thểu trốn chạy,
mới ngộ lũ chim yểng đã biết trước nơi
này sẽ là đất dữ, chúng bỏ tìm đất lành
nơi khác. Kinh nghiệm máu thịt chim yểng đã ăn sâu vào trí óc tôi thành kỷ niệm
khó mờ nhạt.
Lại thêm kỷ niệm khác sâu sắc về chim yểng đến với tôi sau khi Sài Gòn được giải phóng . Khi ấy, gia đình sống bằng nghề bán nón (mũ ) trên lề đường Hai Bà Trưng, trước trường bà sơ Thiên Phước -Tân Định.
Lại thêm kỷ niệm khác sâu sắc về chim yểng đến với tôi sau khi Sài Gòn được giải phóng . Khi ấy, gia đình sống bằng nghề bán nón (mũ ) trên lề đường Hai Bà Trưng, trước trường bà sơ Thiên Phước -Tân Định.
Có
một chiều nhập nhoạng tối, đứng xớ rớ đang thu hàng đẩy về nhà- một cô gái trên dưới ba mươi xách lồng
nhỏ có chú nhồng ( yểng) - tạt vào
đòi xem mũ. Cầm chiếc mũ tai bèo lên,
cô đội vào ướm thử rất vừa vặn, lại kêu không tiền liệu đổi con nhồng được không? Nhìn yểng là mê ngay, tôi gật đầu tán thành, dầu chưa có ý kiến vợ. Thôi cũng đành, phải chấp nhận trước
tiếng ì xèo, nếu vợ trách móc-cơm chưa
đủ ăn nuôi chim với chóc- lấy gì cho nó
ăn, thời giờ đâu săn sóc ! Một khi được
chấp nhận nuôi nhồng đành chấp nhận sự trả giá. May quá, vợ tôi không nói gì, tôi nuôi bằng bo bo, nó cũng ăn, và tôi luôn luôn dành tiền mua trái chuối nẳng
(bỏ đi) cho nhồng bồi dưỡng. Nó lớn lên, hót líu lo,
và một buổi sáng nghe tiếng: Đù má mày
Mười!, giọng chửi ngọt ngào như cô
gái Huế.
Thôi
chết cha rồi, nó bắt chước bà Tàu, mẹ ruột Mười , thuê gác bà Hai phía sau nhà tôi.
Bà hàng xóm không ưa gia đình tôi dọn đến đây cuối năm 75, căn nhà chúng tôi
đang ở mua bằng giá hai trăm đồng, vào
kỳ đổi tiền: năm trăm Sài Gòn ăn một đồng tiền giải phóng .
Không biết ai mách công an : nhà thằng cha Bắc kỳ ngụy sáng đêm tối ngày nghe đài Bê Bê Xê.
Một
buổi tối , công an gõ cửa yêu cầu sáng mai 7 giờ, đến 7A Trần Khắc Chân (Trần Khát Chân mới chính xác) trình diện cùng chiếc ra -dô vẫn nghe đài địch phương tây.
Trước
khi đến trình diện công an, tôi vỗ ngoài lồng : Nhồng ơi ,mai này liệu tao
còn được chăm sóc nhồng không đây?
rồi cặp nách ra-dô Philip lên công an phường. Gặp, ông hỏi tôi còn là viên chức nhà nước không? Có, thì tại sao nghe đài địch phương tây, đồ ăn vụng không biết chùi mép, để cho bà Hai tố cáo không? Thật ngu quá chừng, câu bán anh em xa mua láng giềng gần, cũng không biết áp dụng. Làm kiểm điểm, nhanh lên.
rồi cặp nách ra-dô Philip lên công an phường. Gặp, ông hỏi tôi còn là viên chức nhà nước không? Có, thì tại sao nghe đài địch phương tây, đồ ăn vụng không biết chùi mép, để cho bà Hai tố cáo không? Thật ngu quá chừng, câu bán anh em xa mua láng giềng gần, cũng không biết áp dụng. Làm kiểm điểm, nhanh lên.
trình tờ kiểm điểm , sếp phán : lần đầu không tịch thâu đài, tái phạm cho đi kinh tế mới .
Vừa ra đến
ngõ, sếp gọi lại.
Tôi nghĩ, hay sếp báo cho đội xe ,chắc chắn tôi sẽ bị đuổi việc.
Tôi nghĩ, hay sếp báo cho đội xe ,chắc chắn tôi sẽ bị đuổi việc.
Trở vào, sếp lại xua tay, thôi đi
đi , nhớ không tái phạm.Vưà lúc ấy ,vợ sếp cầm giỏ đi chợ. Ông vội vã dắt chiếc
xe đạp, chống một chân xuống đất, giục vợ nhanh lên.
Ôi ! cảm ơn Chúa, bữa nay- nếu bà vợ không
nhờ chồng chở đi chợ- có lẽ tim tôi sẽ nhẩy phọt ra ngoài. Và rướn mắt
nhìn sếp còng lưng chở vợ trên poọc-ba-ga (porte bagages) ì
ạch đạp, lốp xe non hơi bánh sau chưa
được bơm căng.
Rồi
cách đó trên mươi năm, tôi thường uống cà phê ở một hẻm nhỏ - 173 Trần Kế
Xương-Phú Nhuận. Hẻm cụt rất rộng, chỉ có vài căn nhà cho ngoại kiều thuê, nhà đầu
ngõ nuôi chim hót líu lo. Tiếng nhồng lanh lảnh cao vút như giọng nữ soprano quí tộc, cu gáy cúc cù cu đủ
kiểu, khướu, rồi họa mi hợp bản đồng ca. Nhấp lên môi hụm cà phê thơm lựng, lại đọc tiếp tờ báo hợp
gu, kể ra cũng là cái thú khó tả!
Bỗng có tiếng người mời mua vé số. Tôi ít khi ngửng đầu lên và chỉ lắc đầu- sao vẫn nghe thấy có tiếng tiếp tục mời. Bỏ báo xuống bàn, ngửng mặt nhìn,
anh bán vé số có dáng người thấp bé đi
dép lê, tay cầm tập vé số chìa ra, giọng năn nỉ mua giùm, từ sáng đến giờ ế quá
. Giọng nói nghe quen quen, nghĩ mãi vẫn chưa thể nhận ra. Trí nhớ bây giờ thua
ngày còn trẻ rất xa, xưa kia, ra đường gặp một ai đó, nhìn một lần - một hai
tháng sau gặp lại vẫn nhớ gặp ở đâu, bao
giờ, quần áo mặc lúc ấy có khác bây giờ,
dáng điệu vui buồn -tôi đều nhớ hết. Còn giờ này, lấy tay vỗ trán như năn nỉ
hãy nhớ lại xem , anh bạn này quen, rất quen. Bỗng tôi à một tiếng nói thầm- nhớ ra
rồi, và không thể tưởng rằng người quen
tôi bây giờ vất vả đến vậy. Tôi gợi ý mời anh uống ly cà phê đầu ngày đã, và tôi sẽ mua mở hàng .Anh ngồi xuống, vừa
uống vừa theo dõi tôi lướt mắt qua các
con số -dừng lại số 33 -
ưng bụng rồi lại vẫn lật tiếp. Sau tôi
bảo anh đếm cho năm tấm. Trả tiền rồi ,anh cũng vừa uống xong- anh nói trông quen
lắm-như đã từng gặp ở đâu rồi, ít nhất một lần uống cà phê thì phải. Trả lời,
chắc anh thấy giống ai đó thôi, tôi mới ở Hà Nội vào thăm
con, và nếu trưóc kia anh ở quận Hoàn Kiếm, thì có lẽ chúng ta đã gặp
nhau ít nhất một lần.
Anh
nhận tiền, cảm ơn ly cà phê chúc tôi chiều nay may mắn. Đi một quãng, quay
lại nhìn tôi một lần nữa, rồi đi thẳng về phía ngã ba: Vé số trúng chiều này đây? Mua đi kẻo hết !
Nhận ra rồi, giọng nói của trung úy Tân- không sai vào đâu được - công an khu vựcTân
Định- người đã tha tôi một lần nghe trộm đài BBC thời bao cấp.
Còn
nhồng biết nói hẳn nghe lóm từ
gác sau bà Hai cho bà Tàu thuê . Nào có ai dạy đâu, chúng tôi mỗi người một việc; tối tăm mặt
mày kiếm gạo, có gạo rồi nhặt sạn mất
cả tiếng đồng hồ . Sáng sớm cả nhà đi hết, khoá cửa lại , giao chú nhồng
trông nhà. Vợ tôi bán nón và các con đi học về phụ mẹ- còn tôi từ tinh mơ đạp xe đạp lên đầu bến xe Thủ Đức đi lơ đến tối mịt mới về. Con nhồng lắng nghe bà Tàu bên cạnh mắng chửi con, vốn thông minh có sẵn , nhồng
nhập tâm
rủa sả với giọng ngây thơ ngọt
ngào rất đáng yêu!
Vào một
buổi sáng tinh mơ, không còn được nghe yểng đánh thức, nhìn vào lồng thấy nó như rất
đau đớn, ăn ít, kể cả chuối , món khoái khẩu. Tôi chẳng biết nó bệnh ra sao; nghĩ
đến vợ con cảm cúm, nhức đầu, sổ mũi ;cũng chỉ bôi vài giọt dầu xanh còn sót -
vậy con nhồng này đau bệnh gì bỏ ăn, nhìn lông xù lên, không mượt mà nữa , thật đau xót!
Đi
làm suốt ngày, tối mịt mới về, sáng sau trở dậy nhớ đến nhồng, chạy lại thăm ;
nó đã nằm quay lơ ở góc lồng . Mở cửa, nhặt xác, nhìn thấy cổ nó có một mụn
nhọt bằng hột ngô đầy mủ. Nghẹn ngào
trong cuống họng, muốn thốt lời chửi thề thật ai oán.
“Nhồng ơi, thế là cũng qua một kiếp sống, giả
thử thân tao đây đau ốm đâu có thuốc thang, rồi cũng lâm vào cảnh nằm co quắp
như mày trong xó xỉnh kia thì cũng chẳng lấy làm lạ, phải vậy không? Thôi vĩnh
biệt Nhồng một lần cho mãi mãi!”
Mang nỗi buồn lặng lẽ hàng tuần lễ, cứ sáng ra, nhìn vào lồng trống không,
chẳng còn nghe tiếng hót đánh thức lúc
sáng sớm tinh mơ, cùng giọng cao : Đù má
mày- Mười! - tôi hứa sẽ nuôi được con yểng khác và dạy nói một câu khác :
‘Nhồng ơi ! nhớ sống lâu nghe,
nhồng!
Đến Huế đã bẩy rưỡi tối, xe ca chạy thẳng đến quán An Phú, đường Chu Văn An. Phải thừa nhận bữa cơm tối có nhiều món đặc sản
đất cố đô rất ngon miệng: canh chua tôm chả, cá chiên sốt cà, rau muống sào
tỏi, mực sào hành, thịt luộc tôm chua khoái khẩu. Ăn chưa xong, càc em thiếu
nhi vào múa lân đúng dịp trung thu trời tạnh ráo thật vui nhộn. Nhiều khách trong đoàn ủng hộ
tiền gây qũy cho các em ,và chuẩn bị về khách sạn. Hướng dẫn viên thông báo quí khách nào mệt không tham dự
nghe nhạc cung đình có thể mang đồ đạc
xuống khách sạn Á Đông II, và ai tham dự
đi thuyền, nghe nhạc cung đình xin mời đi tiếp.
Tối trung thu, bầu trời trong vắt, đó là điều kỳ lạ hiếm thấy, khác hẳn với đêm rằm các năm tết thiếu
nhi mưa sụt sùi, dai dẳng. Đêm trăng rằm
được lênh đênh trên thuyền rồng , nhìn
bốn cô ca sĩ aó tím Huế chân dài, có mệt mấy đi nữa, tôi vẫn rủ vợ cùng tham dự. Đoàn còn lại khoảng mươi người,
kể cả vợ chồng tôi.
Hai chiếc thuyền rồng nổ máy ra
giữa dòng neo lại, ban nhạc cùng bốn ca sĩ tha thướt ẩn mình trong
những chiếc áo dài đẹp mê hồn, giọng ca da diết, đôi mắt cô nhiều tuổi
nhất hớp hồn nhận bông hồng tặng từ một khách
nam. Một bó hồng cắm trong chậu chờ bán, cứ mười ngàn/ bông, khách mua tặng ca
sĩ có giọng ca vừa ý. Cô ca sĩ áo tím
Huế đàn chị được mươi lăm bông cbi đó, còn ít nhất cũng được năm,bẩy bông. Nữ bác sĩ Kim tướng ẩn phu quân , bước thình thịch trên cầu
ván , chao đảo thuyền làm chòng trành,
cũng chịu khó trườn mặt nhiều lần tặng hoa nhạc công nam. Thế ra, tôi đã chụp được vô số
ảnh bốn nữ ca sĩ trên thuyền rồng đêm ấy.
Trở về khách sạn gần mười một giờ đêm, nhận phòng chậm , chìa khoá phòng mang số 402. Phòng ốc đẹp, hai giường,
có bồn tắm , ti vi, tủ lạnh, trên bàn bốn trái chuối tiêu vàng óng ghi
hàng chữ khuyến mãi. Khổ nhất là không có nước tắm , lần này phải giúng khăn
mặt ướt tắm khô, vòi khô rang không có
một giọt. Lên giường nằm trằn trọc mãi, giấc ngủ không cần vỗ về , may mắn làm
sao cũng chợp mắt được vài tiếng đồng hồ.
HAI : QUẢNG TRỊ - QUẢNG BÌNH: THÁNH ĐỊA LA VANG - PHONG NHA-KẺ BÀNG.
Bây giờ đến thành cổ Quảng Trị.
Xe rẽ vào khu thánh địa Mẹ La Vang. Toạ lạc trên một khu đất rộng vuông vức,
cây lá xum suê, tượng Đức Mẹ xây cất từ thập niên sáu hay bẩy mươi tôi không nhớ rõ, bàn
thờ nghi ngút khói hương tỏa mù mịt,
người người vái lạy cầu nguyện không thôi. Chẳng phải sau 1975 mà từ những ngày
trước đó, đã nhiều lần người người mách bảo nhau, tương truyền tượng
Đức Mẹ chảy nước mắt, thế là tín đồ
lương giáo ùn ùn từ phiá Nam ào
ào ra Quảng Trị hành hương. Cảnh trẩy hội nhộn nhịp chẳng kém gì tín đồ đạo Hồi hàng năm kéo về Mecca trẩy hội. Gần bàn thờ tượng Đức Mẹ là
Nhà nguyện được xây cất từ thời trước,
xây cất đồ sộ, thiết kế mẫu mã thời La Mã. Nhà Nguyện như một pháo đài
hình chữ nhật kiên cố - trên bờ tường gạch trần đầy vết tích dấu đạn, bom cày sâu hoắm thời kỳ mùa hè đỏ lửa bẩy hai. Có viên gạch trần
trụi mầu nâu xậm, cũng có viên cũng nâu
thật đậm như máu khô, tôi chợt nghĩ đến giọt máu chiến sĩ hai mặt trận đối
kháng trực diện đổ ra, cả máu dân lành
vô tội vào tìm nơi trú ẩn an toàn đã bỏ
mạng tại đây chăng? Trước cửa vòm Nhà nguyện một tấm bảng lớn đong đưa , tôi
đọc hàng chữ :
XIN MẸ PHÙ HỘ CHÚNG CON LUÔN SỐNG ĐỨC HẠNH
ĐẦY LÒNG CẬY TRÔNG.
Nhìn sâu vào trong nhà nguyện
sâu hun hút, rất đông tín đồ tham dự, tiếng cầu kinh giữa trưa âm vang như đàn
ong vĩ đại bay vo ve trẩy hội xuân. Cũng
nhiều xe ca hướng Bắc Nam dừng lại nghỉ ngơi cho khách tham quan ; bác tài, phụ
xe treo võng đong đưa dưới tầng hầm hàng hóa. Đi sâu vào phía trong, một tòa nhà mới xây cất
thật đồ sộ, phiá trước tòa nhà là tấm
biển lớn ở trên tầng cao chót :
TRUNG TÂM THÁNH MẪU LA VANG - NHÀ HÀNH HƯƠNG
Trưóc sảnh đặt tượng Đức Mẹ
trước lối ra vào, ước tính nhà hành
hương ba tầng lầu có thể chứa hàng ngàn
tín đồ trẩy hội ngủ qua đêm cách nhưng
không. Ông Đặng đi tập tễnh từ Nhà hành hưong bước ra :
-Khách sạn thánh nhà Cha này lớn qúa ông ơi, hàng trăm phòng là ít- giá đêm nay đuợc ngủ một đêm ở Quảng Trị- tôi xung phong thuê ngay một phòng trên lầu ba, chỉ cần qua đêm ngủ thôi, sáng mai trở dậy, mặc nhiên
tôi trở nên người thánh!
Mưa bắt đầu nặng hạt, xe buộc giảm tốc độ
chạy chậm hơn , lấy tờ chương trình ra xem
. Qua Quảng Trị thăm Thánh địa La Vang , viếng Nghĩa trang Trường Sơn- vậy cơn
mưa này có gây trở ngại ít nhiều không đây? Hướng dẫn viên trần tình với khách, cứ yên tâm đi, chương
trình vẫn được thực hiện tốt thôi. Xe chạy qua các công trường xây dựng đang xây cất, nào tiếng xe rờ mọoc
ầm ầm lầm lũi xúc đất làm đường trong khu công
nghiệp đang mở rộng, chẳng bao lâu nơi này sẽ trù phú.
Tôi nhìn thấy tấm bảng chỉ đường ĐÈO MỤ GỊA, nhớ lại thời chiến tranh thường
ngày bị Không lực Mỹ thả bom ác liệt. Vẫn để mắt nhìn hai bên đường, quang cảnh êm lặng, cây
cối bắt đầu được phủ mầu xanh ; dường
như vẫn ẩn chìm nhiều bất trắc: còn rất
nhiều bom đạn chưa được gỡ đi, nhiều nạn nhân cụt tay, chân vì cưa bom năm trăm, một ngàn cân Anh lấy thuốc đạn, lại tưởng chừng ngon cơm như
cưa gỗ vậy. Khi xe chạy tới đường Hồ Chí Minh, hướng dẫn viên
thuyết minh, từ đây chỉ cách nước Lào
anh em chín cây số, bác tài cho xe quẹo sang tay mặt đến Nghĩa trang Trường Sơn.
Cơn mưa
tạnh hẳn, đã nhìn thấy tia nắng vàng èo uột chiếu trên bông sim tím bên
vệ đường. Mầu tím dại hoa sim gặp trên đường hành quân đã tạo cơ hội cho Vệ quốc quân Hữu Loan trở thành nổi tiếng cực
kỳ với Mầu tím hoa sim đấy thôi ! Mầu tím hoa sim / tím cả chiều hoang biền
biệt !
Biết đâu đồi MỤ GỊA PASS còn nhìn thấy
kia kìa , xưa phi công Mỹ đi không ai tìm xác rơi , máu hoà quyện tím hoa sim cùng biết bao chiến
sĩ khuyết danh bỏ mạng nơi này!
Rồi xe ca bắt đầu quẹo vào Nghĩa trang
Trường Sơn.
Ông
Thành, người đầu tiên mua bó nhang thật
lớn, một mình đi phăng phăng qua khu bia mộ .
Giữa bạt ngàn ngôi mộ, với người lần đầu
đến đây, chắc sẽ phải hỏi ban hướng dẫn ,
vẫn chưa chắc tìm thấy – với ông Thành,
đây không là lần đầu đến thắp nhang trên mộ cậu em vợ bỏ mạng trên Đèo Mụ Giạ
năm nào.
Câu
chuyện trai sinh bắc, tử nam chẳng phải
lạ lẫm với thanh niên miền bắc thời chống Mỹ-em vợ ông Thành giã từ đời chưa một lần biết đến da thịt phụ nữ thật sao? Xác được tập kết chôn ở đây thật may mắn; còn biết bao xác vô danh
chưa tìm thấy, cứ mỗi lần người thân nghĩ tới thôi đã nhức nhối lắm rồi !
-Làm
sao ông biết- chị cậu ấy nhận thư cuối cùng
tâm sự vậy.
Một
thanh niên mua cặp nón tai bèo, hai bên vành mũ đề thơ: Trường sơn đông nắng tây mưa /
Anh chưa tới đó như chưa hiểu mình? lại chẳng đề tên tác giả.
Buột
miệng, cậu nói với bà bán hàng:
..”vè lục bát hay đấy chứ, lần này đem về Mỹ
lưu niệm chuyến đi xuyên việt cũng đặc biệt , cũng tốt phải không?
Ông
Thành gân cổ phản biện : thơ nhà thơ lớn
không cần xướng danh - cả nước phải
biết là của ai – chỉ mình cậu không biết
mà thôi.Thơ lục bát hay vậy sao dám cho là vè? Thời mở cửa tha thứ hết , chứ vào thời thủ đô mới được giải phóng- cậu Trần Dần ti
toe vài câu chê bai , tương lai cuộc đời un
point final cho đến lúc chết đấy!
Thanh niên gang bạnh cổ ra, hùng hổ phản biện :
-… lục bát dở gọi là vè- và vè hay mới được gọi là lục bát . Hai câu vè kia
tàm tạm thôi bác ạ !
Ông Thành vẫn không đồng ý, hai khách già trẻ, kẻ bên đông, người tây, chẳng ai chịu ai - tốt nhất mời lên xe là hết cãi cọ, nên hướng dẫn viên gióng tiếng khách lên xe kịp đến Đồng Hới .
Ông Thành vẫn không đồng ý, hai khách già trẻ, kẻ bên đông, người tây, chẳng ai chịu ai - tốt nhất mời lên xe là hết cãi cọ, nên hướng dẫn viên gióng tiếng khách lên xe kịp đến Đồng Hới .
Và cậu thanh niên ôm cặp nón tai bèo chạy vội trả lại . Mũ bị lỗi hay sao- không
phải -chỉ muốn đổi cái nào trống trơn, không thơ thẩn,
vè viếc gì sất cả..
Bà
hàng trả lời không có- cậu bỏ hai chiếc
nón lại-
-…-thôi
cháu biếu laị bác đấy!
Ông Thành lắc đầu, thanh niên bây giờ ngang
như cua, đáng tuổi cháu lại cứ như tưởng
mình ông nội!
Giã
từ Nghĩa trang Trường Sơn, nhìn đàn bò lững thững gặm cỏ bên hồ- bò đực lông vàng- đực ít hơn cái , bò cái lại nhiều hơn bê; tôi đếm được đến con thứ mười hai - có phải nguồn lợi phụ của
cô chú, anh chị bảo vệ nghĩa trang- ngày đêm canh gác linh hồn chiến
sĩ vị quốc vong thân xếp hàng yên nghỉ
trong chiều lộng gió Trường sơn.
Mưa càng nặng hạt hơn khi xe ca đậu trước
cửa nhà hàng Hương Giang trên đường Quang Trung, thị xã Quảng Bình. Chúng tôi
được cô Huyền chia phòng ở lầu một- thuộc diện già cả-khách đăng ký phòng riêng
hai người được ưu tiên hơn
.
.
Một phụ nữ to béo trạc tuổi sáu mươi mặc áo
mưa, tướng đi ục ịch , đẩy chiếc va li Samsonite to xù vào phòng tôi. -Phòng đã có người rồi xin lỗi – khách
quay mặt lại, cởi áo mưa; tôi nhận ra ngay bác sĩ Kim.
Chị gửi va li, vì được sắp xếp phòng ở
khách sạn Hương Giang II rất xa
đây, đẩy đi rất cực. Thế là chị không giận hờn
tôi, lần nào kể chuyện vui phúng thích châm biếm một nhân vật chính trị, với chị lạ
là thần tượng không thể ai được quyền
đụng chạm tới.
Phòng nghỉ
khang trang , máy điều hòa, ti vi, tủ lạnh, tủ đựng quần áo, phòng vệ
sinh sạch sẽ, nước non có đấy, chứ không như phòng 402 Khách Sạn Á Đông II -Huế. Đối với khách du lịch, restroom cần riêng biệt, bồn
tắm đầy đủ nước nôi .Chỉ mới kịp tắm
xong, hướng dẫn viên gọi ơi ới đến giờ cơm tối. Quầy nhận giặt quần áo, sáng
mai nhận lại , tôi giao luôn mấy bộ tồn đọng từ mấy ngày nay.
Chân
tôi đang giẫm lên đất này, nhớ ra
rồi - Quảng Bình – chính là quê Trần Nhật Thu , người viết chung với tôi hai chương sách ,và là đầu nậu thầu in cuốn sách T.T. KH.
Nàng là Ai?.
Cuốn
sách bán chạy nhất năm chín tư- hơn bẩy chục bài báo, dài, ngắn, từ bắc chí
nam, từ trong đến ngoài nước ầm ĩ khen, chê -đến nỗi
tin đồn thổi loan ra sách có vấn đề nên thị thu hồi cấm bán- khiếnT rần nhật Thu phải đính chính, anh gọi điện thoại hỏi
thẳng bộ trưởng và làm việc với A 25 làm gì có chuyện này.
Câu chuyện được hồi tướng , một
sáng bốn
bạn văn chương cùng uống cà phê
,bỗng có khách lạ vào toà soạn tìm Thu. Và, câu chuyện trao đổi giữa hai người
diễn ra.
-Em ( người khách) đi kiểm tra một số cơ sở in ấn trong thành
phố, nhìn thấy cuốn Nàng là Ai? hay Ai là Nàng? chất
từng chồng chưa vào bìa .Quản đốc phân
xưởng trả lời sách in hai ngàn thôi, có ghi ở
trang lưu chiếu đàng hoàng. Con
mắt nhà nghề chỉ cần liếc qua, biết ngay
những ram giấy đã in xong xếp từng chồng cao vút kia gấp năm, sáu lần
số lượng kê khai. Hợp đồng nhà in với
người đại diện bên B đâu? Quản đốc xoa tay
xuống nước:- Thưa sếp, sách này của anh
N.T in đấy ạ!-/Thôi được, có thật cuả anh N.T. không? – Dạ
thật ạ! Thế là em biết tỏng anh đặt
in lần đầu ít nhất
cũng trên mười ngàn?
Khách bước ra cổng vui , huơ chiếc phong bì lì xì ,Thu trở vào- nói bâng quơ:
-Đó là cậu Khánh ở PA 1…đến chúc tết sớm thôi, chẳng có chuyện gì
đâu?
Trần nhật Thu thường kể cho tôi nghe mấy kỳ quan nơi quê anh – thì hôm nay tôi
được chiêm ngưỡng bằng chính đôi mắt của mình. Giờ đây , trước mắt tôi đang
được ngắm Quảng Bình Quan, di tích lịch sử được trùng tu nguyên trạng, và nhiều
khách sạn xây mới, nhà nghỉ nâng cấp, tạo bộ mặt đường phố sang trọng hơn. Có
điều tiếc nữa, chưa được đặt chân lên sân cỏ Nhà thờ Tam Tòa, nơi đã chứng kiến
làm pháp rửa tội đầu tiên của Nguyễn
Trọng Trí – nhà thơ Hàn Mặc Tử tài danh sau này – bay giờ có một con đường mang
tên thi nhân; còn nhà thơ bị bom Mỹ đánh
sập, chơ vơ gác chuông cụt ngọn, như
chứng kiến đạn bom để lại trong thời chiến tranh tên đất Quảng Bình.
Khách đi xuyện việt bằng xe ca đương nhiên ngồi trên xe nhiều hơn tham
quan thắng cảnh , đi suốt ngày mệt nhoài. Rất may bữa cơm tối ở Đồng Hới ngon
miệng. Thức ăn hải sản, chỉ một đĩa mực
luộc thịt trắng phau thôi đã khiến tôi
thèm nhỏ dãi, cá chiên dầm nước mắm, rau
lang luộc, canh chua nấu hến, thịt bò xào
la ghim ( tiếng địa phương
phiên âm légume) với cơm trắng dẻo,
một ly trà đá tiêu chuẩn . Gọi thêm lon
bia hộp, tôi đưa lên nhấp vài ngụm, hít
hà khen tuyệt!
Chương trình sáng sau, chúng tôi đi thăm
Động Phong Nha-Kẻ Bàng , từ thị xã Đồng Hới đến đó trên dưới bốn chục cây số,
xe chạy hơn tiếng đồng hồ, điểm dừng đầu tiên , nhà hàng ven sông : Quán Cô Phượng. Hướng dẫn viên cho
biết đi trên dòng sông Son bằng thuyền máy khoảng trên một tiếng nữa tới động.
Hy vọng cơn mưa đêm qua không bít động
ướt, và ta chỉ thăm động khô thôi.
Dòng sông Son nước đỏ màu son, lững lỡ dòng
chảy đến giáp khu vực núi đá xanh biếc đến rợn người. Nhà cửa mới xây, đa số nhà trệt, tường gạch,
mái tôn như Quán Cô Phượng lèo tèo
mấy cái, xa hơn là Nhà thờ Công giáo,
bao quanh đó vài ngôi nhà xây kiên cố lên một hai tấm. Nhớ đến chị Lê Thị Cả- một
tín đồ Báp tít Sài Gòn - cũng ở đâu đó trong xã Sơn Trạch này, nhìn quanh quất,
giá gặp được chị sẽ vui biết mấy! Chị Cả từng giúp việc nhà chúng tôi ở Sài Gòn
một thời gian ngắn. Chúng tôi rất quí mến chị, người giúp việc siêng năng, chịu
khó, trung thực - làm được mấy tháng
nhận tin chồng phải vào bệnh viện Việt
Nam- Cu Ba , chị lấy vé tàu về gấp Đồng Hới nuôi chồng. Chị hứa trở lại, lúc giã
từ vợ tôi tặng chiếc bàn ủi , nên vừa rồi nói đùa, ít ra nơi này chúng ta có
một chiếc bàn ủi nằm đâu đó muốn gặp lại chủ cũ. Tôi cứ tưởng tượng nhà chị
Cả khuất sau một khu vườn có cây cối bao
quanh, nằm bên dòng sông Son thơ mộng .
Nhìn
vào hang động sâu hun hút, bến đỗ của chiếc thuyền mới chở chúng tôi tới- tôi
đưa máy lên chụp, một tài công chỉ vào vach đá bị sạt, đó là chiến tích giặc lái Mỹ thả bom mà chẳng hề hấn gì! Chúng
tôi bắt đầu leo dốc đá cao vòi vọi, có chỗ khe đá chỉ đủ một
người nghiêng mình lách qua, tứ phía
hang động thạch nhũ loè ánh sáng, máy
ảnh đủ loại , kỹ thuật số thợ ảnh, máy cơ
du khách. Cái đèn pin chuẩn bị mang theo thật tình cờ, giờ này giúp ích không ít chúng tôi
ngắm nhìn cảnh đẹp từ hàng triệu năm để lại. Lên tới đỉnh, đếm được
trên năm trăm bậc, chúng tôi thở hổn hến mệt nhoài, vợ tôi cũng được thử sức
khoẻ qua thân xác đàn bà tròn bẩy mươi đủ sức lực leo tới đỉnh núi Kẻ Bàng-Phong Nha.
Bắt đầu
xuống núi -tạt vào quầy bán lưu niệm, đồ uống giải khát -phóng tầm mắt
nhìn xuống dưới kia, dòng sông Son bao
quanh núi đá chập chùng uốn lượn-
quang cảnh thiên nhiên hùng vĩ, xứng
đáng di sản thiên nhiên quốc tế thừa nhận.
Rồi thuyền
máy lại đưa chúng tôi trở ra Quán Cô
Phượng. Xế trưa , bụng đói cồn cào, cơm nóng canh sốt bưng ra, ăn xong gọi ly
cà phê đen mườì ngàn đồng – chất lượng thua xa
ly ba ngàn, nơi quán cóc anh
Minh, ngã tư Đặng Dung-Trần Khắc
Chân-Tân Định .
Trước khi lên xe ca, thợ ảnh bu quanh , tay cầm ảnh, miệng rao ai
chụp ảnh ra nhận trả tiền. Đa số
khách từ chối không chụp trong hang
động, bây giờ đây vẫn bị một phụ nữ mời
nhận ảnh, giọng ồm ồm nam tính tía lia: ảnh
đẹp đây hai chục nghìn tấm ép ny lông, cả đời mới có một lần thăm
Động Phong Nha- Kẻ Bàng. Khách kêu đắt, và có ai gọi chụp đâu mà mời nhận
ảnh. Bác sĩ Kim ghé vào tai nói nhỏ:
-Anh chị đợi lúc xe chạy hãy lấy ảnh, bốn
tấm 13x18 trả hai chục ngàn thôi.
Bốc di động
thăm Ý Nhi, lúc đi không kịp báo, chuông điện thoại reo liên hồi, mãi sau người
bắt máy trả lời chú cô đã xuống Sài
Gòn từ sáng sớm. Một thanh niên hỏi , chú
xài mạng 090 hay 091 mà ngon lành vậy?
Chắc chú xài mạng khác cháu, nên máy mới bắt ngon lành vậy, có gọi ra nước
ngoài vẫn number one.
Vậy là từ
trên đỉnh núi , tôi có thể gọi di động cho Lê Duyên đang chu du Mỹ quốc- hiện
đang ở Houston thăm vợ chồng anh Đắc rồi.
Và tôi nhớ chuyện cô biên tập viên NXB Văn nghệ thành phố- có đôi mắt luôn được che chắn bởi cặp kính
râm. Đã rất nhiều lần vào cuối thập niên chín mươi, Lý Văn Sâm từ đường Trương Quốc
Dung- Phú Nhuận thuê xe ôm, hoặc xích lô đạp tới Tân Định rủ tôi đến Nhà sách Văn Nghệ đường Lý Chính Thắng
ăn sáng, uống cà phê , để lấy hứng để
viết tác phẩm mới. Lúc đầu tôi tưởng thật, anh chàng này đang dự tính viết oeuvre
posthume chăng ; song không phải vậy, anh tìm hứng từ cô biên tập có đôi
mắt đẹp , từng biên tập Kòn
Trô tái bản- nhưng đôi mắt kia lúc nào cũng bị cầm tù qua đôi kính râm rất vô duyên , khiến
tui chẳng bao giờ được thỏa thuê nhín ngắm?! Một lần, hai chúng tôi đang
uống cà phê, gặp giám đốc, sếp của Lê Duyên, sà vào kéo ghế ngồi chung bàn, tự
gọi đồ uống, rút điếu 555 để trước mặt Sâm, châm lưả hít một hơi :
- Uả, anh Hai Lý kiếm em ,sao không điện
báo trước cà? Ở bìa 4 Kòn Trô- in lời bình nhà văn Sài Gòn cũ,
em gạch bỏ tên chả, chỉ để lại texte
thôi. Anh Hai Lý thông cảm nghe!
–Tui đến đây
đâu phải kiếm chú ,mà chỉ tìm gặp cô Lê
Duyên , biên tập viên sách Kòn Trô
thôi. Mà bữa nay cô ấy có đến làm việc không, Nhã?
Một lát sau , Lê Duyên cùng hai người nữ chọn bàn gần đó, Sâm lau mắt
kính chăm chú nhìn. Cô biên tập trò
chuyện rôm rả, cười nói vui vẻ với bạn -tôi để ý, hình như chưa một lần gỡ cặp
kính râm ra khỏi mắt.
Tôi nói đùa
Hai Lý:
-Này ông ơi,
nói chơi nghe thôi - chỉ ngắm mắt đã tốn bao công khó, huống hồ coi mắt
được rồi giả thiết vậy- được người đẹp
chấp thuận- thì còn khó hơn lạc đà
chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu
vào nước Đức Chúa Trời.'
( Luca-18:25)
( Luca-18:25)
Xe chạy thẳng ra Cửa Lò, hướng dẫn viên thuyết minh: cuộc hành trình
này rất mệt, sẽ đi qua Ba Đồn, Hòn La, Cẩm Xuyên, Hồng Lĩnh… mới
tới nơi nghỉ. Lần đi ,sẽ không ghé huyện
Can Lộc- Hà Tĩnh, thăm Ngã Ba Đồng Lộc, như chương trình dự định- và lần về sẽ
ghé thăm mười cô gái thanh niên xung phong
làm đường bị máy bay Mỹ chôn vùi.
Xe bon bon chạy trên quốc lộ,
tôi đảo mắt nhìn cảnh bên ngoài, qua Ba
Đồn, Hòn La, Kỳ Anh, Nghèn, Hồng Lĩnh,
thì hướng dẫn viên cho biết:
-Núi Hồng Lĩnh có 99
ngọn, thi hào Nguyễn Du đã lội từ chân núi lên đỉnh đèo, chẳng biêt có qua hết
99 ngọn không? Dãy núi xa xa kia, chính là Hồng Lĩnh- chúng ta sắp vào ranh
giới Nghệ An, thành phố Vinh , và thêm
khoảng hai chục cây số tới Cửa Lò. Nơi đây có bãi biển đẹp, dân Hà Nội
thường đăng ký về đây nghỉ mát cuối tuần, tiện dịp mua hàng giá rẻ từ biên giới
chuyển về.
Bẩy giờ tối , xe ca tới đường Lê Hồng Phong –thành phố Vinh. Đường rộng thênh thang đã đành, đến vỉa hè cũng rộng, trồng tới hai
hàng cây song song thẳng tắp chạy đến
cửa khách sạn Phương Nam
. Xe chạy ngon trớn trên quốc lộ , từ lúc rẽ phải vào Cửa Lò thì gập ghềnh
toàn ổ gà, ổ voi, đèn đường chẳng
có , ánh sáng hai bên phố hoặc đèn ô
tô loang
loáng sáng, chỗ có, chỗ không. Xe ô tô lăn trên đường bộ lại có cảm giác lắc lư như đi trên biển -ông
Thành phát biểu :chúng ta đang viễn
du trong chuyến hải hành phong ba bão táp
biển Đông. Bụng đói, mệt đã đành
rồi – đường còn xa chân đã mỏi -
chẳng biết câu thơ này có phải của Tản Đà –Nguyễn Khắc Hiếu đang lởn vởn sống lại trong tâm trí kẻ hậu
sinh- mà còn hơn thế nữa kìa- trời tối, bác tài chưa thuộc đường đi, tay ôm vô lăng xoay dọc, ngang ; miệng kêu hướng dẫn viên xuống hỏi thăm đường.
Xe đậu lại giữa ngã ba đường ,
tôi vội xuống xả bầu tâm sự, bệnh hay lây dẫn tới các bà, cô, các ông- vậy nam
tả nữ hữu nhé, mà chẳng ai chịu
nghe. Một ông đang vạch quần tè lên bụi- nghe tiếng
phụ nữ kêu: thôi chết tôi rồi, ông ơi !- ông hoảng
quá, vội ôm quần trở lui, rối rít xin
lỗi. Và lần này, bác tài rẽ tay mặt mới đúng hướng đường Quang Trung ,
nơi tọa lạc khách sạn Đại Huệ -Cưả Lò. Tua gọi di động báo sửa soạn cơm
cho 36 thực khách, cứ bày lên bàn đi
chúng tôi tới ngay bây giờ!
Tám rưỡi tối, xe bắt đầu vào cổng
biệt thự , hai tòa nhà ba tầng xây
cất thật hoành tráng. Ở đây khách sạn rộng rãi, nhiều phòng, chẳng ai khiếu nại phải lên lầu ba, lầu bốn; song vẫn thích
chọn lầu một hơn .Tắm rửa xong, chúng tôi xuống phòng ăn, chỉ nhìn cách bầy
biện thức ăn, nhìn bát, đũa, chén, tô, ly, cốc, sẽ biết ngay bữa ăn này chẳng
ra sao rồi!. Và đúng vậy thật!
Gọi đại một ly cà phê phin đen , hy vọng uống sẽ đỡ nhạt miệng hơn, chỉ mới đưa lên miệng
nhấp một hớp ,mùi ngô rang khét lẹt,
thôi cũng đành ực ực cạn ly, sau đành phun ra– cà phê phin bốn nghìn đồng , của
rẻ xó xỉnh Cửa Lò làm sao ngon được !
Như
có tiếng ai gọi, nhìn xuống lầu một, lại bạn việt kiều tây mặc
quần sọoc mời ra phố ban đêm- tìm rượu uống trước, rồi thăm em cho biết sự tình. Đây chẳng phải lần đầu, đến đâu Đức cũng xông
xáo hệt nhà báo cần tư liệu sống viết bài , nhằm trúng nơi, đánh trúng đích ,
rút quân an toàn mới yên lòng hả dạ .Chẳng thế, ngay đêm đầu ở Quy Nhơn, anh rủ ngay vài bạn trẻ vào quán tươi mát lắc lư con tàu đi đến khuya
mới về khách sạn.
Chúng tôi thường đi ngủ sớm, ti vi chẳng có
chương trình hấp dẫn như Sài Gòn, nghe qua loa
dự báo thời tiết xong là leo lên giường; thật đúng tâm trạng lão già không chịu nhận già cứ tưởng bở
mình mới đà lớn tuổi đôi chút.
Sáng nay dậy rất sớm, nhìn đồng
bồ ba rưỡi sáng, thói quen ở nhà nằm
xuống tiếp hẳn sáng sau sẽ dậy muộn, nên
tôi thức luôn ,tập thể dục dọc hành
lang, nghe sóng biển giội vào, âm vang nhịp điệu đơn điệu hắt vào bờ rồi lại giội ra .
Bỗng có ánh sáng chiếc đèn pin ai đó soi lên hành lang hướng về phía
tôi – nhận ra ngay, viên quản lý đi tuần đêm, trang bị gậy gộc, lũ chó dăm con
gâu gâu theo sát chủ. Như vậy, đêm Cửa Lò không mấy yên tĩnh , ngoài đường
không ánh sáng, đèn tỏ ít, đèn lu nhiều. Nên khách sạn nuôi chó canh đêm, quản lý canh chừng trộm cướp đột nhập. Lúc này ,chắc đã bốn giờ hơn, lại nghe tiếng húyt sáo
ngoài cổng , vẫn là Đức cầm đèn pin rủ ra phố. Cổng còn khóa , chỉ mở
lúc sáu giờ sáng - Đức leo rào ra ngoài- hàng rào rất thấp – phân ranh giới
giữa hàng xóm với nhau thôi.
Và sáng nay, vẫn chỉ được ngắm mà không được tắm biển- tự an ủi- thôi thì chỉ hơi gíó biển lùa vào thân thể đã như thêm sức khỏe rồi!
Sáu giờ, chúng tôi ra biển dạo quanh
công viên Cửa Lò –gió biển rì rào thổi tung áo du khách -và như hầu hết các ki-ốt ở đây mở cửa rất muộn tôi lại gần một
ki-ốt quảng cáo bia ANCHOR- biết quán bán bia, có muốn uống đi nữa lại chưa
phải lúc.
Buổi sáng : chương trình đi thăm Làng Sen ,Làng Trù , và viếng mộ bà Hoàng
Thị Loan - thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trên
đường ra đất Hoa Lư, Tua thuyết minh, gia đình chúng ta sẽ qua Tĩnh Gia, nơi sản xuất mắm tôm tuyệt hảo, và cầu Hàm Rồng lịch sử -
bao tấn bom giội xuống đây như ném
xuống dòng chảy - cây cầu vẫn hiên ngang tự tại thách đố chú Sam.
Qua Tam Điệp tới thị xã Ninh Bình, ăn trưa quán
Anh Dzũng , đi thuyền dọc sông Ngô Đồng nước
biếc xanh phủ lên rêu xanh biếc, nhớ cúi đầu thấp xuống qua Hang Cả,
Hang Hai, Hang Ba-thắng cảnh có một không
hai, được ví von- một Vịnh Hạ Long trên cạn -rất ư hoành tráng độc nhất thủ
phủ Ninh Bình.
Xe lướt qua làng mạc, xã thôn, thị trấn thị
xã, phong cảnh thanh bình trên quốc lộ 1
A thật tuyệt vời, núi vẫn phủ mầu
xanh cây lá, sông nước mênh mang , dòng
sông nào mà chẳng đổ ra biển - tôi lại
nhớ hai
nghịch giang, nước chảy xuôi có khúc
đảo ngược hướng bắc- dòng Nhật Lệ-Quảng Bình mới đi qua, và sông Kỳ Cùng, Thất
Khê -Lạng Sơn chưa đi đến.
Tới
Hàm Rồng, nhìn sang tay trái , con đường dẫn tới Rừng Thông, tay phải đi vào bãi
biển Sầm Sơn nổi tiếng của Thanh Hoá.
Với tôi , hai tiếng Sầm Sơn âm vang bên tai
không phải nhìn lên bản đồ biết bãi biển này, mà được biết qua câu chuyện kể lại .Vì vậy , tôi rất háo hức hy vọng có một lần sẽ được ngắm mặt trời ngụp biển Sầm
Sơn, chiêm nghiệm vẻ đẹp thiên nhiên có
một không hai bãi biển trên đất nước
mình-như lời kể, từ bậc đàn anh
Nguyễn Đức Quỳnh.
Có
đến vài chục năm qua đi, chẳng biết Sầm
Sơn đẹp hoang vu ra sao, hoa
lông chông giống con nhím vàng hình tròn bay theo gió thế nào ?
Thời kháng chiến trên bãi biển
Sầm Sơn - khi ấy Nguyễn Đức Quỳnh ngưng tay ném đĩa trò chuyện tri âm với Đặng Thai Mai- còn Hoàng Lập Ngôn với chiếc xe ru- lốt Mê Ly lăn bánh giang hồ, và đến câu chuyện Đặng Thai Mai tranh luận sử học với giáo sư Nguyễn Thiệu
Lâu- nhà sử học danh tiếng lẫy lừng - đồng
môn Ngô Đình Nhu ở École de Chartres vv…
Tôi cứ nghĩ
vẩn vơ, bãi biển đẹp nước xanh vắt, bãi
cát trắng soải dài thoai thoải, độ
mặn cần và đủ, kia núi đồi, đây lạch nước ngọt chảy bên, có
biệt thự sang trọng, có phong cảnh hữu tình -
đẹp tựa hồ bãi Đại Lãnh; nếu không ẩn phía sau kỷ niệm, sự kiện nào đáng ghi nhớ trải qua từ một thời đoạn sống -khắc sâu tâm
khảm, trở thành ký ức không thể quên- thì
chắc gì làm người ta nhớ lâu được!
Và tôi không cần phải mong đến ngay bãi biển Sầm Sơn - vẫn biết được Sầm
Sơn - qua câu chuyện kể Cát biển Sầm Sơn
:
”… Buổi tối mọi người kéo nhau ra
biển ngồi tới khuya. Thuyền bè nằm ngủ san sát chờ ra khơi: phải chăng biển hồi
đó nhiều cá hơn bây giờ?Trăng sáng vằng vặc, vậy mà ngay giữa khoảng cát rộng
mênh mông, trẻ con chơi trốn tìm, chỉ cần ngồi thụp xuống là khó bị bắt. Người
lớn ngồi thành từng nhóm, chuyện trò, đàn hát. Những đứa bé
dân chài, mi mắt, tóc vàng hoe vì không bao giờ đội mũ, da đỏ như đồng, bưng
cái khay gỗ trên bày bán bánh pâté sô
hoặc bánh rơm đến mời mọc. Bánh rơm làm bằng khoai lang thái chỉ , tẩm bột sắn thành từng ổ
sợi vàng ươm như tổ chim, trên có rắc đường.
Đơn giản vậy mà bánh có vị thanh, thơm. Giấc ngủ ở biển thật sâu và bình thản. Nó( tác
giả Đặng Anh Đào) say tới mức có lần giữa
đêm nó thấy nằm lùng bùng như trên võng. Sờ quanh thấy mấy củ khoai, mới biết
là mình rơi xuống gầm giường mà vẫn mắc trong màn. Gầm giường thường để khoai
lang.(…) Biệt thự ( ba nó thuê biệt thự không tên của ông phó lý, năm 1944) nhìn ra dãy núi Người đàn bà chết đuối. Giờ đây, đi vào thị trấn Sầm Sơn, vẫn thấy
bà nằm với mớ tóc xõa dài khoảng mấy cây số, nét mặt cắt nghiêng in vầng trán,
cái mũi, cái cằm thanh tú trên nền trời vùng biển. Chỉ có phía bụng hơi phồng
lên – do uống nhiều nước quá. Chiều chiều, nó ra ngắm rỉa quạt xanh thẵm in
trên nền trời biếc cùng ngôi sao hôm trắng xoá long lanh, một giọt nước mắt của
trời đang sắp nhoà theo rặng núi. Mẹ nó phải đi
chợ Thanh bán đường phèn, đường
phổi, lụa tơ tầm và vải thô dệt bằng khung cửi. Lời lãi thế nào không biết, chỉ
biết là mấy chị em suốt ngày ngậm đường phèn và chị hai nó may những áo bằng tơ
và vải thô thêu tổ ong để mặc với quần đùi phồng mầu lam rất mốt thời ấy, gọi
là bouffant.(…) Trên bãi biển sáng
nào cũng có một người dài lêu nghêu đen kịt, trán hói bóng lộn đang ném
đĩa. Ông ta dừng tay để nói chuyện với
ba nó( nhà văn hoá Đặng Thai Mai) :
đó là Nguyễn Đức Quỳnh, một nhân vật của nhóm Hàn Thuyên. Dọc đường nhựa sát biển, chiếc ru- lốt Mê
ly đang lăn bánh cùng gia đình hoạ sĩ Hoàng Lập Ngôn. Trên kè đá ấy, một
lần, nó thấy một người trắng trẻo như khẩu giò lụa, đi qua mặt ba nó vẻ tình cờ
dừng lại nói nhỏ mấy câu. Sau mới biết đó là ông Phan Mỹ, lãnh đạo phong trào
sinh viên bị mật tham đuổi, đang tạm trốn về đây.
Những biệt thự đẹp nhất của Pháp
đang dần dần hoang vắng: Nhật đảo chính Tây.
Trước khi trường Lycée Albert Sarraut rút đi, họ tổ chức buổi lửa
trại cuối cùng. Các nữ sinh Pháp xinh
đẹp nhất múa điệu Tahitiennnes bên
lửa, mặc đúng kiểu các cô gái Tahiti . Những bông hoa trắng và tím năm cánh mọc dại( cũng được gọi là
hoa tứ thời ) kết lại thành váy khóac ra ngoài
xi líp, coóc xê, xâu thành
vòng đội lên đầu, rung rinh theo điệu lắc hông hoang dại. Chỉ còn nhà Navaret Tây lại nấn ná ở lại, họ mở lò bánh mì kiếm
tiền. Nhà đông con gái rất sexy, da luôm luôm, khá xinh nhưng quá bỗ bã, bị
cả tây lẫn ta coi thường. Tây đi, bãi tắm thôi không phân chia thành khu tây,
khu ta.Trước đây nếu không phải dân vào làng tây, hoặc đi với tây, người việt
nào lớ xớ đến tắm ở bãi đá sát chân chùa
Độc Cước - được gọi là terrasse- sẽ bị tây đuổi. Rồi nhà Navaret cũng phải rút đi...(…)
Trước khi rời Sầm Sơn, nó lên núi
ngắm tòa biệt thự Maiténa, biệt thự
vào loại đẹp nhất Sầm Sơn của một chủ ngân hàng Pháp vừa xây xong chưa kịp
ở. Và cũng không ai kịp ở. Vì sau đó nó
bị phá hủy ngay trong những ngày đầu năm 47. Khi phá hủy khách sạn Reynauld, người ta kéo được ở dưới giếng lên một thùng
kẽm chứa đầy bạc Đông Dương; phát hiện chậm chỉ ít ngày, một kho báu đã biến thành đống giấy lộn… Còn cái khách
sạn của viên công sứ tỉnh Ninh Bình, họ đào được một cái quan tài. Đập ra, ở
trong có một cái tiểu. Mở cái tiểu ra, họ tìm thấy hai thanh bạc, mỗi thanh bạc
mười lạng. Cạo lớp bạc đi, ở trong là
vàng.
Song ngày nó rời Sầm Sơn, tất cả
hãy còn nguyên vẹn. Cả những viên cát dã tràng, thủy triều xóa đi hàng
ngày, vậy mà lúc nào cũng vẫn hằng hà sa số những viên tròn trịa nho nhỏ.
Nó dậy trước bình minh. Trên nền trời đen sẫm như nhung chợt xuất hiện những
vệt đỏ thắm, hồng, vàng, xanh, xanh lá mạ, nâu… Dường như ông trời - hoạ sĩ
muốn phết bút thử màu lên cái pa lét
vĩ đại của mình, trước khi nhô ra khỏi biển.
… Giờ đây biển Sầm Sơn đông người
đến nỗi mạnh hơn cả thủy triều, họ giẫm nát hết những viên cát li ti, dã tràng
xe không kịp. Nhìn lại ngày tháng của mình, hóa ra đó cũng chỉ là những viên
tròn đơn điệu giống hệt nhau, thủy triều không xóa đi thì chân người cũng dẫm
lên mà không để ý. Nhưng con dã tràng là
tôi đây vẫn cứ viên những viên cát, hình như không thể làm việc khác một khi
sống nhờ biển” .
( trích ĐẶNG ANH ĐÀO -- TẦM XUÂN - NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 2005).
( trích ĐẶNG ANH ĐÀO -- TẦM XUÂN - NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 2005).
Sắp vào thị xã Ninh Bình, bác
tài cho xe đậu lại vệ đường, hai vợ
chồng ông Thành xuống nghỉ lại đêm, có lời bộc bạch:
-Tối nay chúng tôi ngủ một tối ở nhà con trai, sáng mai gặp lại tại khách sạn Kinh Đô cùng ăn sáng,
rồi tiếp tục lên đuờng xuyên việt nhé.
Ông Thành, cán bộ về hưu, người thuộc thơ Tố Hữu làu làu, nhắc tượng mẹ
Suốt Quảng Bình, nhớ ngay Tố Hữu có mấy câu hay nói về mẹ- nhìn hai câu thơ
in trên mũ tai bèo ( khuyết danh )- anh bạn
trẻ nhất định cho lục bát dở là vè - khiến
ông tức giận đỏ mặt, tía tai tranh cãi , quyết ăn thua đủ, dành phần thắng về
mình.
Thị xã Ninh Bình có nhiều khu du lịch, đi thăm cố đô Hoa Lư, khu Tràng
An, Vườn quốc gia Cúc Phương, suối nước
nóng Kênh Gà, Nhà thờ đá Phát Diệm ..vv,
nhưng chỉ đến đây dăm bấy tiếng đồng hồ,
thì gia đình Nimbus chỉ thăm được
Động Tam Cốc thôi. Và đa số chúng tôi chuẩn bị xuống thuyền thăm Tam Cốc.
Cứ bốn người một thuyền nan không gắn máy như thuyền máy trên sông Son-Quảng Bình. Bà lão chèo thuyền cho chúng tôi tóc bạc rồi, vẫn lam lũ kiếm sống trên dòng sông, hàng
ngày đôi ba chuyến, có khi bà ngồi không
cần dùng tay chèo, dùng hai chân chèo
như đôi tay thật điệu nghệ. Nước xanh
mầu lục, hai bên núi đá dựng như tường thành cao vút – sắp tới Hang Cả, nhìn
thấy trên đỉnh núi phía bên trái
tay tôi, có một đốm trắng lay động
ngoài mỏm đá cheo leo. Ánh nắng chiều
loang loáng trên núi, tôi không thể phân biệt chấm trắng di động kia là
vật gì- chưa kịp hỏi, bà lão đoán được ý khách- chú dê
trắng vươn mình ra ngắt nhánh lá
bỏm bẻm nhai trên ghềnh đá.
Ông bạn ngồi bên cạnh quay phim,
bấm nút review cho xem hình dáng chú dê đực cao lớn, bảnh bao, hoang đàng, lông
trắng như tóc bà lão chèo thuyền, bỏm
bẻm ăn lá cây tựa bà trầu. Không những dê hoang được săn bắt đem bán cho nhà
hàng, dê nhà nuôi cũng nhiều, thường
được quảng cáo ở nhà hàng đường Trần Khánh
Dư-Tân Định (Sài Gòn) – dê có xuất xứ từ Ninh Bình đem vào.
Thời chú bé họ Đinh chăn thuê bò cho chú, dám cả gan xẻ thịt một con khao lũ
bạn; thời đó chắc dê chưa là đặc sản Ninh Bình
.
.
Hướng dẫn viên giải thích- đến Ninh
Bình – thứ nhất : không xơi thịt dê
sẽ là thiếu sót lớn trong đời qúy ông- thứ
hai: ăn thử rồi biết hiệu quả : trên
bảo dưới tuân theo tắp lự, nhại lời một nhà cầm quyền than: trên bảo dưới không nghe, lệnh trên ban, dưới bất tuân .Cách nói
tưng tửng dễ gây cười ,vui vui, làm quên đường xa chân mỏi rã rời -cười lên cho răng dzàng lấp lánh. Anh chàng bẻm mép tự bạch , ăn chung, ngủ chạ , không bậy bạ ,
có con chính thức với cô vợ gốc bắc thường hay
xài : tắp lự , tất tần tật, cực kỳ
, thi thoảng, cứ vô tư đi , tự nhiên như
người Hà Nội, rất là .. vv… lại thanh minh-thanh nga, em chả dám pha tiếng bắc, mấy chú, bác, anh
chị đâu nhé!
Qua Hang Cả đến Hang II, rồi Hang III , trở về khách sạn trên đường Phan Đỉnh Phùng.
Phố xá đông vui, nhà cao, to
đùng không thể de xe vào, lại bốc di động cho người ra dẫn đường- nùi tí nữa đi bác tài.
Anh Năm đốp chát :
-…nùi gì mà nùi, xe tớ
thắng cái kịch, không phải phanh
không xơi đâu nhé!
Khách sạn Kinh Đô, … đường Phan Đình Phùng, nhà hàng to đùng xây hai
căn liền kề ba tấm rất ấn tượng, và gần đó còn nhiều khách sạn xây cất lớn ngang ngửa - phòng ốc ở đây trang
bị nội thất tối tân, giường, tủ, bàn phấn các bà, cô - gỗ gụ đánh vẹc- ni rất
bóng, toa lét bồn tắm đầy đủ nước nóng ,lạnh, ti vi treo tưòng, điện thoại bàn,
tủ lạnh nhỏ đầy đủ thức uống- phòng ăn,
hội trường rộng rãi, và quầy rượu
rất bắt mắt.
Thường ra dinh thự, khách sạn nguy nga, miền
bắc xây chóp trên nóc- với Kinh Đô Hôtel không khác hơn - hoặc bắt
gặp căn nhà bề thế ở Sài Gòn có chóp trên
đỉnh,đích thị chủ nhân gốc bắc.
Chủ nhân Kinh Đô tuổi trung niên , thân hình đẫy đà, dáng đi chắc chắn, mặc
quần aó ngủ hàng hiệu, ra lệnh nhân viên làm việc hệt lệnh cho lính. Hỏi ra, từng là sĩ
quan trung cấp về hưu, chủ họ Đỗ. Có thể
ông tổ Đỗ Thích không chừng, tôi định làm quen chủ nhân rồi lân la hỏi lai lịch
bố con họ Đỗ đầu độc vua cờ lau ra sao - thì tôi liên tưởng đến chuyện một nhà gia phả học đến gặp tôi , lấy tư liệu phổ
trạng dòng họ Đỗ- để viết: Phổ trạng các
nhà văn miền Nam đương đại
Đầu tiên ông hỏi lý lịch:
-Tên bố?
-Đỗ Văn Đức.
-Năm sinh?
-Hình như năm 1897.
-Năm qua đời?
- 1947.
-Tên ông nội?
-Tôi không còn nhớ, xin cho tôi có thời
gian coi lại gia phả, sẽ trả lời sau.
-Ông
nội không nhớ là sao, thế mà là nhà văn được à - thật lạ kỳ?!
-Nội tôi tên Đỗ Thích – bởi ông tôi thích gì thì làm nấy.
Khi
nhìn ông mở sổ tay ghi chép , nhận ra ngay cách đùa vô ý thức không nên có- và
tôi khai tên ông nội ra ngay.
Đã có
một lần trước bảy lăm , ông buộc đưa lại gặp bà cô ruột, chú dượng tôi-
để tra xét lý lịch chính xác hơn- nhờ
vậy bà cô ruột tiết lộ cho ông hay- cô ruột tôi Đỗ Thị Kha có đưa con trai ,
tên Lê Minh- Hoàng Thái Sơn, bỏ nhà
vào Nam giang hồ, xuất ngoại làm lính thủy, trở về Sài Gòn viết báo- từng là tay chơi, buôn lậu khét tiếng- vào thập niên năm, sáu mươi- anh
ta tổ chứcdu lịch bịp bợm , rêu rao đi Hồng Kông, Nhật Bản- du lịch cùng trời
khắp đất giá rẻ, hãy đến với chương trình đi
và sống đóng tiền trước đặt cọc. Thời kỳ ấy, anh ta là chủ
nhiệm Đi & Sống, loại báo lá cải
bán rất chạy - khách hàng đóng tiền không được đi du lịch, đưa đơn khởi tố kiện
vv.. vv . Tôi cũng không theo dõi
vụ án tòa giải quyết ra sao. Mãi sau này, nhờ ông Dã Lan, tôi mới biết Lê Minh ,
con cô cậu ruột mà ban đầu không hề hay
biết- anh ta hơn tôi chừng dăm, bẩy tuổi- có đôi lần gặp ở nhật báo Dân Đen (chủ nhiệm :Nguyễn Duy Hinh) - tướng tá cao ráo, mặt mày bậm
trợn, ít nói, lầm lì- đúng là tay mưu sĩ
giỏi hành động.
-Bây giờ
nhà văn đã phải khai tên ông nội rồi hả?
Viết phổ trạng là phải biết từ ba đời trở lên- làm việc này tôi đã trải
qua rất nhiều cực nhọc- phải biết nhẫn nại, có gia đình tôi đến bẩy tám lần mới
được tiếp đấy?
-Như với gia đình nào chẳng hạn? tôi hỏi.
-Gia đình cụ Trần Trọng Kim chẳng hạn, tôi đến lần thứ năm ,ì bàcụ đành mở cổng ,và
cô con gái duy nhất sử gia trách khéo mẹ- bác ấy là người đã giúp cho thế hệ mai hậu hiểu rõ
phổ trạng gia đinh ta, sao mẹ lại
thế? Và sau này, cô con gái đã
tặng tôi bản thảo viết tay Một thời gió bụi, với chữ ký của cụ rành
rành - viết xong ở Phnom Penh- đấy ông ạ! À này, mà tên ông nội
sao nghe quen quen, có trùng hợp với tên ai không nhỉ?
Và, quả thực, nhà gia phả học Dã Lan không còn nhớ ai tên là Đỗ Thích được chép trong sử đất Hoa Lư thật rồi !?* ( xem thêm
phần Phụ Lục: PHỔ TRẠNG ĐỖ MẠNH TƯỜNG
của Dã Lan- Nguyễn Đức Dụ)
Chủ
nhân khách sạn họ Đỗ như đang theo dõi tôi đọc bảng quảng cáo Kinh Đô Hôtel :
“Thanks for choosing KINH DO café tours, hopefully you
will give us the best ideas to help our hotel serves BESTER day by day have good time to you.Thank!”
Cách viết đích thị văn chương bình dân : tiếng tây viết diễn ý
ta -BESTER sai có đáng gì làm ầm ỹ !Cả tây lẫn ta đọc vẫn hiểu được hết- nhưng
chữ NOEL thì không, nếu thiếu dấu tréma trên
đầu chữ E-sẽ đọc là NOEN- chứ không là NÔ- EN. Tôi để ý, cứ dịp Giáng sinh, các
báo viết đều in chữ NOEL đủ kích cỡ, lớn
dùng co
chữ 48, nhỏ thì 6, 8. Lấy thí dụ, một bài báo được viết ra- bắt đầu là phóng
viên, chuyển qua biên tập, thông qua thư ký toà soạn, trình biên ủy, tổng biên
tập duyệt- dường như tất cả - một trăm phần trăm nhất trí diệt dấu chấm tréma* trên đầu chữ E. Vẫn là chuyện chẳng đáng gì,- nếu thiểu số độc giả biết thì sẽ không làm theo cái không biết-còn
đa số không biết sẽ vẫn làm theo điều báo chí viết – thì
hỏi xem, đã có ông tây, bà đầm xoè nào dám ti toe phản đối :… đồ dốt
đặc tiếng pháp đâu?
Lão luyện như nhà báo giá đời Phan Quang, hoặc tác giả sáng giá
Đặng Anh Đào-cũng không được miễn trừ?!
Thà phiên âm tiếng việt Nô-En tốt
hơn nhiều, vừa dễ đọc, chẳng ông tây nào cười mỉm, cũng không cô đầm nào đang
học tiếng việt bị bối rối- vì bé cái lầm này!
Nhớ lại đầu thập niên chín mươi,
từ nhân viên an toàn giao thông bị chuyển sang làm bảo vệ, rồi lại bị
tống ra phụ xe chấm công trực tiếp- chỉ vì
thư ký công đoàn Đăng Hải rắp tâm đì sói trán -tôi vào chấm
công, lại đụng đầu ngay giám đốc Công ty đang tiếp chuyện một người
Pháp qua thông ngôn. Ông ngoắc lại, đưa ngay cuốn Sciences et Communications, và ra lệnh sáng mai có mặt vào lớp học.
Giám đốcNguyễn Văn Minh chẳng cần hỏi ý
phụ xe ra sao, và cho biết
được học tiếng tây đã là đặc cách, vì học lớp bổ túc này chỉ tuyển cấp đội phó trở lên. Nay mai người Pháp
sang đầu tư ào ào, ta cần nhiều nhân viên biết
nói tiếng tây. Cầm sách, tôi mở trang ba: bên phải câu đàm thoại tiếng việt,
bên trái tiếng Pháp.
-Tên anh, chị ( ông, bà, cô) là gì?
: - Vous vous appellez comment?
Kỷ niệm xưa bật
dậy - gần sáu chục năm xưa - ba tôi bắt dịch câu tiếng việt sang pháp, hệt như câu trong sách hỏi tên
anh, chị, ông bà, cô cậu là gì? Tự mãn cho giỏi, không cần suy nghĩ trả lời: Vous vous appellez comment? rồi cười
khẩy . Nhưng không , ông đi vào bàn lấy thước bắt xoè ra đánh tới tấp liền tù tì , tôi đếm được một chục: con ơi là con , dịch với thuật giống
hệt bọn bồi tây! Quì xuống, úp mặt vào tường nhắc lại mười lần : Comment vous appellez vous?
--------
* dấu đặt cạnh hai nguyên âm đối nhau, như i, e, u- khi nhận biết vậy, phải dùng
dấu tréma ( hai chấm), người đọc sẽ
biết tách ra hai âm .Thí dụ: ci-gue
(cây độc cần) , na-if (ngây thơ, hồn nhiên), no-el
( giáng sinh) ( theo Larousse en
Couleurs (nouvelle édition-Paris 1994)
BA: TỪ ĐẤT HOA LƯ QUA HÒA BÌNH VỀ HÀ NỘI NGÀY 10 THÁNG 10
Từ giã thị xã Ninh Bình, xe ca lại bon bon từ Nho Quan theo đường 59 đi
Hòa Bình. Hướng dẫn viên thuyết minh, gia đình Nimbus bữa nay được thỏa thuê
ngắm cảnh núi rừng mầu xanh cây lá
bạt ngàn, cả nàng sơn nữ có nụ cười lấp
lánh, đôi mắt long lanh chết lòng du khách miền xuôi. Thấy đa số khách nghẹo đầu, rụt cổ lắc lư con
tàu đi theo nhịp lộ hành.
Tua bẻm mép kể tiếp
chuyện khôi hài dí dỏm gây cười có duyên ra phết. Nhìn sang bên đường
tay trái, xe đã qua Vụ Bản, đến Mường Khen thì trước mặt mũi tên chỉ: rẽ trái
đi Mai Châu, Mộc Châu đến Sơn La; còn rẽ phải leo Dốc Cún tới thị xã Hoà Bình.
Cảnh vật xa xa, có suối nước chảy róc rách, ven bờ lơ thơ dăm ba gốc chuối rừng hoa đỏ chói
chang , có chú chim mỏ đỏ nhỏ xíu ngơ ngác nhìn, bụi giang, rừng trúc chen chúc
mọc- nhìn thấy căn nhà sàn thân thuộc ló
dạng, tôi húyt sáo nhè nhẹ điệu nhạc : Ai có về bên dãy núi xanh lơ…Hiển nhiên nhạc sĩ
Tô Hải đã qua đây một mùa chinh
chiến xa xôi, từng ăn xôi đồ chõ cạnh bếp lửa hồng cùng cô gái Thái bản Kim Bôi , xin cho ngủ nhờ qua đêm lạnh lẽo , nhà
sàn tứ bề lộng gió! Chỉ tưởng tượng vậy,
chẳng biết đúng không; và mỗi lần nghe sơn
nữ ca, tôi như luôn luôn bị đánh thức nhớ chiều vàng đồi Việt bắc, với chú Quít lông
vàng ở nông trại Làng Bữu - xã Thượng Bằng La, huyện Văn Chấn-Yên Bái. Tuổi thơ rất ít bạn:
chó Quít, chú mèo xiêm lông vàng ve
vuốt, thêm con sáo nói tiếng người. Bài Con Mèo Xiêm - viết khi nhớ chúng.
CON MÈO XIÊM
Tôi lớn lên trên cót thóc
bạn bè thân thuộc
con mèo xiêm thiêm thiếp ngủ
quấn
lên đấu cổ
chiều vàng Việt bắc
lưng đồi nhạc diều
lá vàng xào xạc chân giầy
sao nói tiếng người
ba-bạn-vật-người
mẹ tôi roi vọt xua
giữ nhà săn sóc chủ
thoát chết gặp chó sói
chó Quít vàng theo sau
lớn lên rời quê hương
xa núi rừng tây bắc
đô hội lớn nghiêm trang
khói lửa mùi thuốc súng
chim sáo
nhịn ăn chết
mèo bỏ nhà thành cáo
Quít vàng chết mất xác
viên
đạn nào xuyên lưng
Tôi về qua cửa hẹp
Rừng chiều nhớ quê cũ
Xót
sa lòng rưng rưng
Đô thị ních chen vai
tình nhân đi xa bỏ
nhớ giọng hát câu ca
ví ( ví) dầu cầu dzán (ván) đóng đinh
cầu tre
lắt lẻo gập ghếnh khó đi
và đến
Hoà Bình đúng mười một giờ trưa. Nắng
chang chang, xe ca leo đồi Ông Tượng, địa điểm xây Thủy điện Hòa Bình được coi lớn nhất miền
bắc thời ấy. Nhìn Sông Đà dưới kia, nước
đục ngầu dòng chảy xiết, nhà cửa xây cất hàng hàng lớp lớp vuông vức, thẳng hàng trông thật đẹp mắt.
Cùng lên đồi tham quan, kỹ sư
Thắng thuyết minh rất bài bản ,thời kỳ xây
dựng, có sự giúp đỡ của nưóc Liên Xô anh
em , du khách đến đây không nhìn thấy
máy móc thiết bị bầy biện trước mắt như thủy
điện thời kỳ đổi mới- bởi lẽ hồi ấy rất sợ bom Mỹ ném ,các tổ máy thiết kế ngầm
trong núi - trên đỉnh dựng tượng Bác Hồ. Chúng tôi lên tham
quan, tượng cao 18 thước, nặng 400 tấn, 79 bậc thang biểu tượng tuổi thọ ,dưới
bệ tượng khắc bốn câu :
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào
núi và lấp biển
Quyết
chí ắt làm nên
HỒ CHÍ MINH
HỒ CHÍ MINH
Pho tượng lớn nhất do kiến trúc sư Nguyễn Vũ An, gốc người
Hà Nội thiết kế. Rất đông du khách chụp ảnh, quay phim. Lại có người thắc mắc chẳng thấy tổ máy thiết kế
như ở thủy điện Yaly -Gia Lai - kỹ sư Thắng lấy tay chỉ xuống chân:- các tổ máy nằm dưới chân chúng ta. Và quí vị
đến đây thật may, một trong sáu cửa xả
nước, chỉ một cửa thôi mà đã mù mịt tia nước bắn tung toé lên không trung trắng
soá.
Sau đó, thăm đài tưởng niệm , đây có một
cái tủ lớn chứa một bức thư rất đặc biệt. Đó là :
BỨC THƯ TÌNH THẾ KỶ
đựng
trong một hộp riêng - tưởng nhớ đến 17
kỹ sư Liên Xô đã thiệt mạng cùng một số nhân viên bản địa- đã góp công lao xây
dựng thành công Thủy điện Sông Đà. Vẫn
lời kỹ sư Thắng, bức thư lịch sử chỉ được mở vào năm 2100, quí vị nào sống đến
thời điểm đó tất được đọc mật thư nói gì, và chỉ duy nhất một người được biết trước
nội dung - tác giả bức thư: nhà báo Thép Mới chấp bút.
Tới giờ ăn trưa, xe ca xuống núi, qua cầu
chạy thẳng đến Nhà hàng Mai Lâm, phường Hoà Lâm. Thực đơn đặt trước, hai
bàn dài nối nhau kiểu ăn tập thể hội nghị, gia đình Nimbus Tourist đến đây chỉ cần rửa tay xong, ngồi ngay vào bàn là có cơm ăn. Một bữa
trưa chẳng có món gì đặc sản, không để
lại ấn tượng cần nhớ- tuy vậy vẫn là bữa
trưa không tồi! Tua tiếp tục thuyết minh,
ăn xong lên xe ca đi ngay, thời
tiết thuận lợi, bác tài tăng ga hướng thẳng về thủ đô yêu mến trước 16 giờ - xe 45 chỗ đến chậm sẽ phải xin phép mới được nhập thị . Tua luôn có nụ cười kèm sau lời dẫn giải, nhớ rằng tối nay đến Hà Nội đúng lần thứ 52 kỷ
niệm giải phóng thủ đô : 10.10/1954 -
10.10.2006.
BỐN : HÀ
NỘI, NHỚ CÔ GÁI, CON CHỦ NHÀ HÀNG PIGALLE.
Khác với lần trước đến Hà Nội bằng máy bay
–đi dường bộ thú vị nhiều, từ Hoà Bình men
theo đướng 6 tới Xuân Mai, Hà Đông thẳng tới thủ đô. Xe qua Chương Đức, nơi
tôi đã đến bằng xe đạp khi là học sinh, cảnh vật chẳng thay đổi bao
nhiêu -trừ đổi tên thôn, xã- tên gọi bây giờ Chuơng Mỹ.
Cũng
là nguyên quán Châu, bạn thân từng chung
sớt đồng bạc lẻ, ly cà phê xê chừng một đồng rưỡi thời ông Diệm trị
vì- chúng tôi in tác phẩm ronéo chui không giấy phép kiểm duyệt.
Sau năm 1975, Châu lắp một đài phát thanh chui bị
đưa vào trại cải tạo dài ngày, hình như chỉ
sau 30 tháng tư vài ba tháng. Cô
vợ còn trẻ , quen sống đồng lương chồng
cung cấp, không thể nuôi con thiếu chồng
,mặc dầu căn nhà hai tầng có vườn
cây ăn trái bán giá rẻ cho chủ cán bộ. Ít lâu sau, người vợ ngồi sau xe scooter ôm eo chặt cứng viên quản lý trị
sự báo, xưa kia Châu là chủ bút. Một tay
cầm lái, tay kia quàng ra phía sau cầm
tay vợ sếp cũ đặt lên trước bụng vỗ về -
cười típ mắt.
Châu nằm trong trại cải tạo không dưới mười
năm, được trả tự do, về lại Sài Gòn, ăn
chực nằm nhờ trong chùa sát cầu Trương Minh Giảng.
Bẩy
tám năm sau, cả gia đình sang Hoa Kỳ theo chương trình nhân đạo, nhờ sự can thiệp không mệt mỏi
của bà Khúc Minh Thơ.
Nhớ Châu cách tình cờ, khi qua Chương Mỹ, và trước khi vợ chồng tôi đi xuyên việt-Châu báo tin đang đi du lịch châu Âu, qua Paris , Copenhague,
Amsterdam …vv,chỉ vài năm Châu sang Virginia
đã in được một số tác phẩm văn chuơng cuả một số nhà văn quen thuộc.
Nguyễn Thụy Long với tác phẩm -Ma Trơi; Vương Đức Lệ-Mấy vần thơ còn sót lại; Mai Trung Tĩnh-
Ngoài vườn địa đàng; Văn Quang-Ngã tư hoàng hôn; Bùi Ngọc Tấn-Viết về bè bạn, (tái bản) ; Tạ Duy Anh –Đi tìm nhân vật (tái bản) ; Dương Hiếu Nghĩa-Việt Nam quê mẹ oan khiên (dịch); Trần Phong Vũ-Giáo hoàng Phao lô II;, Lê Mỹ Hân-Quê hương ngày trở lại, vv…
Nhờ Lê Mỹ Hân , tôi đọc và biết có một trại cải tạo sĩ quan Cộng hoà, nằm ở
địa danh huyện Phù Yên, ranh giới hai tỉnh Sơn La-Yên Bái. Và nông trại bố mẹ
tôi ở xã Thượng Bằng La-một khi muốn qua Phù Yên , chỉ cần theo đường mòn
vượt dốc Pú Khau Phạ- ngọn núi cao
hiểm trở , qua được là tới huyện Phù Yên.
Ngày
xưa ở nông trại, mở mắt thức dậy, tôi
thường nhìn sang hướng tây, nơi đàn chim
yểng mỗi sáng bay về hướng ấy; nơi có một giải trắng ngần từ lưng chừng núi đổ xuống từ ngọn Núi Sừng Giời. Thật kỳ bí, chẳng ai có thể ngờ thời hậu chiến, nơi
thâm sơn cùng cốc , đèo cao, gió lộng,
rừng thiêng , nước độc, bản làng heo hút
; lại có một trại cải tạo được
xây dựng bên cạnh đường đèo hung hiểm - đã có lần đoàn quân
thất trận Pháp bị Nhật
xua đuổi chạy qua đây sang Làng Bữu, ra Ba Khe, qua Nghiã Lộ, ngược Tú Lệ , Mù Cang
Chải, lần đường tỉnh lộ 4 D tới được Sapa-Lào
Cai cuối cùng sang Vân Nam nương náu. Phù
Yên- nơi bạn tôi, một sĩ quan Cộng hoà sáng tác nhạc, đi học cải tạo dài hạn ,
gia đình vợ con chỉ liên lạc qua hòm thư.
Có
một lần, vợ một người bạn tôi cho biết : anh ấy đã qua đời ở Phù Yên,
Sơn La.
Chị
ấy hỏi địa danh này ở đâu, có thể đến đó được không? Từ lâu, tôi không nhớ tới Phù
Yên nữa, đến khi có người hỏi, mới bật
nhớ : muốn đến Phù Yên phải vượt qua Pú
Khau Phạ ( tiếng thái: pú: núi, khau: sừng, Phạ: Trời ).
Giả dụ, một cải tạo viên nào đó có ý muốn
vượt trại, nếu không được đặc xá ,thì cách duy nhất tồn tại sống ở
thác về cũng Phù Yên mà thôi .
“N.
ơi, có lần vợ mày hỏi Phù Yên ở đâu anh?- em tìm
chẳng thấy trong bản đồ hành chính?
Tao không giải thích địa danh này , có nói đi
nữa vợ mày cũng không thể tìm được ! Nói
với vợ mày, tao có một mơ ước nhỏ nhoi thôi, giá có một ngày nào đó được trở về
thăm nông trại Làng Bữu, tao sẽ cố vượt
đèo Pú Khau Phạ vào Phù Yên tìm cho
được mộ mày thì sung sướng biết chừng nào?
Cứ yên
nghỉ đi nhé N., hãy đợi, tao mong sẽ có một ngày đến tìm thăm mộ mày!
Càng gần tới thị xã Hà Đông ,tôi càng nôn
nóng như chờ đợi một cái gì đó! Ô kìa ! sao lại có bến đỗ xe khách Nghĩa Lộ-
chợt nhớ quê hương Nghĩa Lộ -Yên Bái cuả
tôi ; và ở Quảng Ngãi cũng có một phuờng Nghĩa Lộ. Nhớ một lần , tôi mang mấy bó sách văn học đến ký gửi ở một nhà sách trung tâm, một nữ nhân viên gốc Quảng, cầm Cô gái Nghĩa Lộ lên, hỏi: chú
viết chuyện cô gái Nghĩa Lộ ở tỉnh Quảng
Ngãi của cháu , phải không?
Thì
ở đây, trên đướng tấm bảng lớn treo trước cổng, chỉ THÔN NGHĨA LỘ xa hun
hút kia, tôi vừa ngạc nhiên vừa thích
thú!
Xe
ca đến Ngã Tư Sở, tôi chẳng thể nhận ra
nữa, phố phường sầm uất, nhà cửa chen chúc mọc lên cao nghều nghệu ,nghếch mắt nhìn mỏi cổ chưa
nhận diện được tầng chót- xe cộ nườm nượp chẳng có chỗ chen chân cho người sang
đường.
Nhìn bảng Phố Lê Duẩn, tôi nhận ra ngay Ga Hàng Cỏ, và Cửa Nam đây rồi , rẽ trái
phố Nguyễn Khuyến, xe ca đậu xịch thả
khách trưóc khách sạn Volga. Đường
nhỏ hẹp, phố chật, nhà đông, tầng lầu san sát, khách Nga nườm
nượp đăng ký tại phòng tiếp tân - bảo vệ đứng nghiêm quan sát không nhúc nhích, cứ tưởng ma-nơ-kanh
dựng trước nhà may.
Toà
nhà ba tầng lầu thiết kế theo phong cách Á đông gồm 24 phòng
đầy đủ tiện nghi, tiêu chuẩn quốc tế hai sao, nằm sát Khu Văn Miếu, Bảo tàng Mỹ thuật, nhà
ga tàu hỏa, tiện việc giao dịch trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế, thương
mại, ngân hàng, ngoại giao, công sở, các nơi cần tham quan du lịch. Mới đọc tờ
rơi; tôi chưa dễ tin ngay, bởi tờ rơi vẫn là
hình thức quảng cáo, mà quảng cáo thì cần phải so sánh thực tế đã mới có
quyết định sau cùng .
Và thật sự khách sạn này gần khu trung tâm , chú Trang và
vợ không cần gọi xe tắc xi, chồng dắt tay vợ cùng nhau đi bộ ra Tràng Tiền ăn kem.
Bây giờ cô
Huyền mới trao chìa khóa phòng
306 lầu ba, với câu thòng : cô chú yên
tâm nhé,
sử dụng thang máy cho khỏe thân. Ăn
xong, lên giường ngả lưng,
tiếp tân báo có khách đợi.
Cùng
đến một lượt với Kiều Liên Sơn, anh xe ôm chừng bốn mươi đứng trước cửa khách sạn chờ. Nhìn Kiều với
sắc mặt lợt lạt, tóc rụng nhiều - có lẽ ung thử phổi thời kỳ cuối - chạy hết thuốc tây đến thuốc
nam; cuối cùng chưa thuốc nào trị tiệt nọc căn bệnh gần đất xa trời này. Sinh, bệnh, lão , tử -thì Kiều đang đến ba nấc thang cuối cùng. Có lẽ chẳng bao
giờ Kiều quên được căn nhà nhỏ gác xép
khu Nghĩa Tân bị rỡ bỏ, quận giao nền nhà cho một công thần khác nặng ký hơn- trong khi Kiều đang
đau ốm - nên càng sốc nặng . Nó nhắc chuyện mười hai năm
trước khi ra Hà Nội họp với cùng các nhà văn từ Pháp sang, nó cho ngủ trọ trên gác xép, sáng ra tôi quen đứng phắt dậy đụng mái
u đầu. Bây giờ căn gác thân
thương chỉ còn được nhìn thấy trong đôi ba tấm ảnh, và đôi ba dòng chữ
ghi vội
trong một tập bút ký:
…. Về
đến thị trấn Nghĩa Tân, thuộc huyện Từ
Liêm, căn nhà Kiều lọt thỏm trong dãy nhà nhiều tầng. Nó dành cho tôi một căn
gác xép đụng đầu, cứ coi giang sơn nhỏ bé này so sánh với phòng khách sạn, chưa chắc tôi đã quí bằng! ' ( THẾ PHONG - HÀ NỘI BỐN MƯƠI
NĂM XA- NXB Thanh niên ,1999, 2006).
Anh xe ôm tên Khánh chở tôi chạy sau theo xe Kiều chở vợ tôi . Nó dẫn giải
mỗi khi qua phố nào - đây Văn Miếu
dấy chị Khê ạ- đường đang đi phố
Nguyễn Thái Học, xưa kia quen gọi Hàng Đẫy , rẽ tay trái đường đôi Hoàng Diệu, thẳng tới Quảng trường Ba Đình, rẽ
đưòng Cổ Ngư sẽ được ngắm Hồ Tây ban đêm,
còn đây chùa Trấn Võ, kia Trấn Quốc, kia
nữa đê Yên Phụ ;đi quanh vòng đai lại ra thẳng Hồ Gươm.
Buổi
tối thật đông vui, hàng quán bày bàn ghế
tràn lan trên vỉa hè chật ních cô, cậu
đang chen chân tìm một chỗ ngồi giải
khát tâm sự chẳng dễ dàng gì. Đêm nay ăn mừng thủ đô được giải phóng, cờ xí
ngập phố phường, đèn sáng hơn sao trời lấp lánh.
Qua phố LýThái Tổ, anh xe ôm chỉ căn nhà
năm tầng mới xây xong đẹp tân
kỳ, được báo chí nhắc đến, nhà văn phòng
cơ quan bỗng chốc ông phó ký giấy biến thành tư thất thủ trưởng, rồi phá đi xây lại , ngoại kiều mở văn phòng hốt
cả đống đô la bỏ túi ngon ơ. Báo chí làm rùm, dư luận
xôn sao, thủ trưởng bày cách hạ
nhiệt dư luận- xin được trả nhà lại không
có điều kiện nào kèm theo- độc giả đọc báo tưởng thật, thể nào cũng bị mất chức, mất nhà , bị
quy tội tham nhũng tư hữu hóa công sản
vv…. Nhưng bác cứ chờ xem sẽ hạ cánh an toàn thôi , và màn trình diễn ồn ào sẽ chẳng mấy lúc chìm nghỉm, đi vào quên lãng .Quả thật,các cụ dạy chớ có sai- muốn an phận đừng mó dái ngựa- cứ mũ ni che tai hay nhất đấy bác ạ!
-Đến Hồ Gươm , Nhà Thủy Tạ rồi bà Khê ơi, tôi mời ông bà vào nhà hàng Thủy Tạ ăn kem nhé! Kiều mời.
Trước 1954, quán này , xưa Nhà Thông tin thường
triển lãm tranh ảnh thời sự, nơi dán Tuyên
ngôn gửi thanh niên quốc gia Việt Nam , thống tướng De Lattre De Tassigny kêu gọi thanh niên Việt nhập ngũ, cầm súng ra trận sát cánh cùng quân
đội Liên hiệp Pháp giữ vững bờ cõi.
Chuyện thanh niên việt thay
máu lính tây -mấy chục năm sau lại
được tổng thống Nixon- Hợp chủng quốc xài lại, mở hội nghị hoà đàm, đẩy binh sĩ
Cộng hoà thay máu G.I ngoài mặt trận xem ra giống hệt cách xài
bình cũ thay
rượu mới .
Thời kỳ tôi còn là học sinh - có một buổi
sáng nhìn vào cửa hàng bánh kẹo số 45 Hàng Lọng-nhà Vũ Thị Thanh Thúy- bạn học
Kiều Liên Sơn, Nguyễn Đăng Khải, Cao Bá
Ân, Nguyễn Gia Vinh và tôi ở Trung học
chuyên khoa Phan Đình Phùng, bỗng nhiên được
thay bảng tên phố De Lattre DeTassigny.
Vậy ra viên thống tướng từng ký tên trên
bản tuyên ngôn hôm nào đã chết rồi
sao? Súng vẫn còn nổ, đạn pháo vẫn ì ùng đêm đêm nghe vọng từ phía
bắc lẫn phiá nam Hà Nội- và nước Pháp đã
đóng góp vào mặt trận Bắc Việt cả hai sinh mạng cha con- đưá con độc
nhất , báo tây gọi là enfant unique,
mang lon trung úy bỏ mạng trên pháo đài chiến trường Ninh Bình –còn cha , tướng
năm sao đi thị sát mặt trận Vĩnh Phúc, ban
lệnh thả bom tiêu diệt hai bên trực diện
; rồi một phút đột nhiên máy bay C&C ( Command and Control) quay đầu về hướng Hà Nội. Và
cùng năm 1952, thống tướng qua đời ở Paris .
Với
tôi, khoảng thời gian ấy, Hà Nội là nơi
dung thân buổi đầu làm văn, viết báo đầu đời- nơi tôi đã gặp lại người cô ruột-
bà ĐỗThị Thảo đã nuôi cháu ăn học- nơi ghi lại mối tình học trò tha thiết với Nàng Oanh- nơi tôi có nhiều bạn thân -thằng Khải cưu mang tôi- cho một ngàn đồng mua vé tàu thủy vào Sài Gòn-
thằng Kiều Liên Sơn chở tôi đi khắp Hà
Nội - thằng Khánh, con nhà tư sản dân tộc bộc tuệch, bộc tọac cùng tôi
lên rèn luyện thân thể ở Septo-
thằng Hiển cho ngủ trọ đêm không nhà,
giặt lén quần áo khi chưa có tiền trả
thợ giặt là - còn bạn học nữ Nguyễn Thị
Hoàng đẹp như đầm ,cho tôi biết thế nào
vẻ đẹp mẫu mực người nữ- và Lê Bá Hùng-
Hàm Long đạp xe rủ đi tập đánh bốc lò Vĩnh Tiên- thằng Duật mắt
trắng-môi thâm, lá mặt lá trái hại bạn bè xất bất xang bang - thằng Bách,
con thầy Bùi Đắc xin bố cho bạn chịu
tiền ăn- vì nó mất liên lạc với mẹ ở Nghĩa Lộ tháng 11 vừa qua- thằng Chiểu xã Đường Lâm-
Sơn Tây ,cho biết thôn Mộc Phụ có một dòng họ Đỗ - gà luộc cúng chiều ba mươi cổ vẫn cất cao như đang tập gáy - vậy mày có phải dân họ Đỗ -Mộc
Phụ không? vv…
Gọi thức uống thật lâu, ba ly kem
cốc được bưng ra – Khánh xe ôm nhất định
không chịu vào quán, đậu xe nơi góc phố Lê
Thái Tổ chờ -Kiều giải thích xe
ôm ở đây là vậy. Lại nhắc đến Vũ Thị
Thanh Thúy, Kiều nhớ cô nữ sinh thân
hình mỏng tang, rất ư yểu điệu thục nữ , hình như có
một thời là bạn gái Khải; còn Oanh, bạn
gái Tường - nói tới đây nó bật cười
- có đúng vậy không? Nói xong,nó nháy mắt nhìn sang phía vợ tôi.
Rủ Kiều,
hay chúng ta cùng đến 16 Phố Hàn Thuyên thăm vợ chồng Khải cho chúng nó ngạc nhiên? Cả ba chúng tôi đồng ý , khi tới Phố
Hàm Long Kiều định rẽ , thì anh xe ôm ngăn lại, bác ơi rẽ xuống phía dưới mới là phố Hàn
Thuyên – tôi thầm nghĩ, xưa nay Dzư được tiếng
thổ công - như lần đi đêm xuống
nhà vợ chồng Tạ Vũ ở Hoàng Mai, đường đi ngoắt ngoéo , lòng vòng , nó cho xe
quẹo trái, rẽ phải, nay giữa phố đường thông thoáng thế này bị lạc ; vậy sức khoẻ và thị lực
mắt Kiều có vấn đề thật rồi !
- Phố Hàn Thuyên
đây rồi, nhà số chẵn bên tay phải đấy-lời
anh xe ôm.
Có
mấy cái chuông, chuông chủ nhà tầng
dưới- chuông chủ nhà tầng một :KHẢI-THÁI
–bấm chuông chỉ đợi ít phút đã gặp chị Thái xuống mở cổng. Vợ
chồng Khải đã có lần vào Sài Gòn thăm chúng tôi từ mấy năm trước, nên đã biết
nhau. Chị mời đi lên cầu thang gỗ, lên
nhà sàn gỗ, dấu tích nhà xây dựng
từ thời tây. Căn biệt thự hai tầng được
chia hai, gia đình anh chị của Khải tầng trệt, còn vợ chồng Khải tầng một và một căn phòng khác ở tầng trệt,
Khải cho vợ chồng người Pháp thuê dài
hạn. Chúng tôi ngồi trò chuyện, thì Khải bốc điện thoại gọi Vinh- tới ngay đi
thằng Tường ở Sài Gòn ra đang ngồi đây . Mày gọi giùm tao nhắc thằng Ân ở Định
Công bảo nó đến ngay!
Cao Bá Ân đạo mạo trong bà ba lụa trắng, kiểu lang ta hay mặc- khuôn
mặt chữ điền, dáng mập mạp, khỏe mạnh, da hồng hào, ăn nói nhỏ nhẹ như 56 năm xưa khi còn là học trò.
Thời đi học, ngồi bàn đầu với Khải, hai lục cá nguyệt là hai lần nhất -hạng 1 :Cao Bá Ân 2: Nguyễn
Đăng Khải, 3: Đặng Ngọc Oanh... - còn tôi và Dương Đức Dzư ( Kiều Liên Sơn sau này) xếp
loại trung bình .
Dzư ngạc
nhiên -xưa nay thằng Tường vẫn nhất môn
Pháp văn cơ mà!
Cao Bá Ân kể vanh vách cho vợ chồng Khải,
vợ chồng tôi, Vinh, Dzư nghe chuyện gia
đình Đặng Ngọc Oanh. Nó kể lại rất tự
nhiên , không ngại ngùng , không cần biết liệu vợ tôi có phiền lòng khi nghe chuyện
người tình cũ của chồng không?
Vợ tôi trả lời Ân, anh cứ kể, tôi quen nghe chuyện này rồi, không phải chỉ một cô
Oanh đâu, mà còn nhiều cô Oanh khác nữa kìa. Ân
được mở đường, càng kể mạnh miệng hơn. Cô Oanh da nhuôm nhuôm, đẹp gái, răng khểnh cười duyên,
thân hình đẫy đà, so với tôi khi ấy như người chị từng trải vậy. Cô là
con gái bà chủ nhà hàng Pigalle phố Đội Cấn, chẳng biết có phải cô
thường giao thiệp, ăn nói với tây
hay không, nhưng tiếng Pháp lại đứng hạng nhất nhì trong lớp, và đối thủ đáng gờm là chàng Tường này .
Chẳng biết hai gia đình quen biết ra sao, ba mẹ tôi hứa hôn với mẹ Oanh thế nào (hình như ba Oanh mất sớm thì phải?) - một lần Oanh đến nhà cô
tôi phố Mai Hắc Đế gặp tôi nói vậy. Tự
biết hãy còn con nít, dầu tôi chi kém
Oanh một tuổi, nhưng con gái trưởng
thành sớm hơn, già dặn nhiều .Tôi nhắm mắt lại, tụt quần cộc xuống, rồi hé một
mắt ra nhìn, qủa ớt mới bằng ngón tay,
thì làm ăn cái nỗi gì mà lấy vợ, sinh
con. Sau, đem chuyện thật tâm sự với bà cô ruột - so với Oanh- tôi như cậu em bé mọn- vậy đúng
bà chị Oanh đề cập chuyện này chưa
đúng lúc rồi.
Sau
đợt di cư vào Nam , cô Oanh đi Sài
Gòn học nghề y tá, ra trường làm ở Nhà thương Chợ Rẫy thì phải?
Ân
quay sang hỏi tôi hỏi, có gặp lại bạn cũ
không? Không trả lời thẳng câu hỏi Ân,
tôi chỉ gật đầu ghi nhận, không nói gì
thêm, và không cho biết chuyện tình dang
dở giữa tôi và Oanh –nàng có
một đứa con gái với tôi mang họ mẹ. Cao Bá Ân hỏi dồn, không gặp thật sao- tôi chỉ ừ hứ lấy lệ ,cố ý đánh trống lảng , hứa
sẽ gửi một copy tiểu thuyết
Nửa Đường Đi Xuống đã in ở Sài
Gòn từ thập niên sáu mươi cho Ân đọc. Như
chỉ muốn thầm nói vơi bạn : Con gái tao và Oanh đã 49 xuân
sanh; tệ thật, hai bố con cùng ở
Sài Gòn bấy nhiêu năm mà chưa hề biết mặt nhau –giờ này có mặt vợ tao ,nên
chưa phải lúc kể cho mày nghe đó thôi Cao Bá Ân ạ.!
NĂM :
HÀ NỘI- VIỆT TRÌ- KM9: YÊN BÌNH- LÀO CAI- SAPA -HÀ KHẨU.
Ăn sáng xong ở khách sạn Volga lên đường tinh mơ, từ Hà Nội đến Lào Cai - Sapa trên dưới ba
trăm cây số, đường chỗ lồi , chỗ lõm
nhiều hơn bằng phẳng thênh thang. Qua phố Nguyễn Thái Học, rẽ trái lên
Hoàng Diệu- tôi cố ngoái cổ tìm Trường Trung Học Phan Đình
Phùng (bây giờ: Phan Chu Trinh ) số nhà vẫn là 40-42 Hàng Đẫy- cách ngã tư vài căn mà chẳng thấy.
Hình
ảnh cậu học trò 18 tuổi từ Nghĩa Lộ về Hà Nội năm năm mươi trọ học, ấn tượng nhất
vẫn là cái tết ta đầu tiên, cả ký túc xá chỉ còn mình tôi ở lại, sau
khi xin phép thầy Bùi Đắc.
Ngôi trường đồ sộ hai tầng xây kiểu tây, tường phía trươc đổ
những tấm auvent cách nhau có khoảng trống vừa phải, nên cậu học sinh không cần phải theo lối cầu thang
xuống nhà, mà nhảy lò cò trên mươi tấm auvent,
sau cùng leo ống máng xuống sân đi chợ kermesse
bờ Hồ Hoàn Kiếm.
Có một
lần giữa giờ ra chơi vào buổi chiều, ra trước
vỉa hè, tôi gặp một ông chở vợ trên xe
mô tô Terrot đen đỗ xịch trước mặt
cậu học trò ,bà vợ xuống xe lại gần hỏi:
- Xin
lỗi cho tôi hỏi thăm, cậu có biết học
sinh nào tên Tường ở Nghĩa Lộ-Yên Bái về trọ ở ký túc xá này không?
Chưa
vội trả lời, nhìn tướng tá giống hệt đàn
ông, đúng tinh tướng mô tả trong văn Vũ
Trọng Phụng ( bài văn mới học) bà có tướng đàn ông xấu trai , da bánh mật, khuôn
mặt hao hao giống bà nội, cao hơn ông
chồng một tấc– trong đầu cậu học sinh nghĩ, chẳng lẽ cô Thảo?
-Xin lỗi bà có phải là bà Thảo? cậu học sinh hỏi mà không trả lời câu hỏi .
Bà gật đầu và ôm chầm cậu học sinh:
-Thôi đúng là con bác Đức rồi, cháu chóng lớn quá!
Bà
hỏi hàng chục câu hỏi một thôi
một hồi, chẳng hiểu đứa cháu có kịp nghe không- bà kể bữa đi Chợ Hôm gặp bà Phó
Vọng ở Nghĩa Lộ tản cư về mua nhà phố Huế, cho biết bà giáo Đỗ Văn Đức
Nghĩa lộ nhờ ông giáo Bảo chạy giấy tờ cho cháu Tường về Hà Nội học hiện ở ký túc xá Trường Phan Đình Phùng, 42 Nguyễn
Thái Học- gần Khu Nhà Tiền, đối diện Trường
Huấn luyện Cảnh sát ấy.
-Bà Thảo
ghi lại địa chỉ: I Ngõ Liên Trì, (Reinach
cũ),bảo đưa cháu tối nay lại ăn cơm, cô sắp sẵn một lô quần áo cũ của chú tha
hồ mặc cho đẹp.
- Cơn tự ái cậu học sinh nổi dậy đùng
đùng, như vậy cô khinh cháu ăn mặc luộm
thuộm, đúng tác phong thằng Thổ mừ rồi.
Cậu nhớ lại thời kỳ học ở École de Garcons
de Yen Bay, đã gặp bà cô
đang chuyển về Hà Nội, chú dượng chef de train được đổi nhiệm sở, cô thấy
cháu ăn mặc hệt tên nhà quê thổ mừ,
áo ngắn cũn cỡn, quần tây rộng thùng thình- bây giờ cậu dưới mắt bà không mấy
khác!
Thời kỳ đó, có lần bà cô hộc hơi đuổi theo cháu gọi nó về, vì lần
đầu tiên thấy ô tô chạy trên phố, nó chạy theo sau ô tô mà sao mãi không bắt kịp. Tuy tự ái, cậu bớt
lo tiền ăn, tiền trọ nợ ký túc xá- từ khi
phủ Nghĩa Lộ rơi vào tayViệt Minh,qua chiến dịch thu đông năm hai, cậu mất liên lạc với mẹ từ đấy. Thầy Bùì Đắc thật rộng lượng- thương
sót giúp đỡ kẻ gặp hoạn nạn .ThầyĐắc dạy anh văn lớp vỡ lòng lại kiêm
quản lý ký túc xá. Hiệu trường là thầy
Bùi Quang Tời , gốc Sài Gòn, nói rặt giọng Nam kỳ. Còn các thầy Trần Mộng Chu,
Nguyễn Xuân Hiếu dạy việt văn, riêng thầy Bùi Ý cao lòng khòng dạy anh văn lớp
trên, học trò nói sau lưng : giọng nói
đặc mít cứng khòng, văn phạm
dạy hay hết chê!
Xe ca ra tới vành đai, bác tài cho biết đi
đường tắt qua Chèm- huyện Mê Linh, rồi qua xã Hương Canh tới Phúc Yên. Hướng dẫn
viên chọn đĩa DVD cho vào máy bấm nút ,bắt đầu Cẩm Ly và Quốc Đại song ca. Tua giới thiệu, cô bé này, em ca sĩ ngoại- nhưng
nội hát hay hơn , nổi tiếng kiếm tiền nhiều
hơn chị ở Cali . Và ca sĩ em mới sinh một cháu gái, đúng là gái một con
trông mòn mắt.
Tới giọng ca Đàm Vĩnh Hưng, Tua lại có lời bình, tuy không
giống mấy MC truyền hình nói văn hoa,
bóng bẩy, nội dung trớt lớt chẳng biết nội dung nói gì?
Này nhé, năm 1990, gia đình ở Đà Nẵng xảy
ra biến cố, hai anh em Đàm Vĩnh Hưng lếch
thếch kéo nhau vào Sài Gòn tá túc nhà
ngoại. Ngày tết, gia đình nhà bên sum
họp, con cái nhận bao lì xì, còn hai anh
em chẳng được ai lì xì, bánh mứt thì
không, thế là anh trai, em gái ôm nhau nằm trên gác xép khóc rưng rức thương
thân tủi phận hẩm hiu. Rồi anh trai đi tìm lối thoát, đăng ký dự thi tiếng hát truyèn hình. Chẳng biết dự thi ca
sĩ truyền hình thành phố mấy lấn , hình như lần cuối ôm giải ba tư gì đó, từ đây có permis
xin đi hát lót dịp tết nhận được nhiều sô , chậu
- hát một bài bốn chục nghìn ở quán này, lại sang quán khác- khuya lắc khuya lơ
về gác hẹp, hai anh em giở ra đếm bộn
bạc. Không ai ăn tiền hớt tóc cho mít tơ
Đàm được, vì mít tờ cắt tóc giỏi như thợ có tay nghề , lại từng mở dăm hiệu hair cut; cũng khó ai ăn
tiền may áo quần ,vì mít tơ mua quần áo hàng hiệu trả tiền đô
, tính ra tiền việt cớ vài ba chục
triệu. “ Sô nhỏ, chậu lớn, mít tơ Đàm “ hát
ở Huê Kỳ chỉ đứng sau Mỹ Tâm-một vạn đô la / sô - thì mít tơ Đàm tám nghìn chứ có it gì đâu?
-Ôi!
đời ca sĩ ,có phải ai hát bài Limelight
thì khổ mãi mãi đâu? đời
ca hát ngày tháng cho người mua vui
-với ngôi sao thượng thặng hốt bạc mỏi tay luôn!
Đến lượt Mỹ Tâm hát, ông Thành yêu cầu
có lời bình ,Tua lắc đầu:
… người đẹp tóc nâu thì chịu, cháu chẳng
biết background cô ấy sao cả, chỉ
biết cô ấy thích bỏ mì tôm vào bát - rót
nước sôi đậy vung lại- ngồi chờ đưa lên miệng mà thôi.
Sắp tới thành phố Việt Trì, nhìn đồng hồ: 8
giờ 5 sáng. Xe ô tô chạy song song đường
tàu hoả, bỗng dưng bác tài phanh
lại. Phía trước một xe container
ra dấu xe bị hư, yêu cầu xe sau dừng.
Tôi bước xuống xe, ra ven đường
giải toả khối nước khỏi bàng quang, tưới cây cỏ, lá hoa trên quê nội- tự
nhắc với chính mình. Bây giờ, chẳng biết nhà ông nội dòng họ Đỗ nằm ở chỗ
nào? Bà Thảo, cô ruột chỉ kể cho
nghe cách mơ hồ, từ nhà ông nội đến caserne
không xa mấy, và trại lính tây nằm song song với đường tàu hỏa. Nhìn xuống đôi
chân tôi đứng, đường tàu cách xa hai thước, xa hơn Khu Vân Phú có doanh trại
quân đội – đúng là caserne tây đóng
quân xưa kia rồi. Chỗ này hiện giờ doanh
trại quân đội và Nhà bảo tàng Quân Khu II.
Điều này dễ hiểu thôi một khi quân , cán
vào nội thị tiếp thu , ngành nào tiếp quản theo ngành nấy.
Vậy
nhà ông nội -tên Đỗ Văn Phác -thật sự
chỗ nào? Xưa, nội từng làm nghề giặt là
quần áo cho lính tây, mỗi lần giao hàng chỉ mất chừng dăm phút đi bộ. Ba tôi ,trưởng nam kiêm trưởng tộc, tốt
nghiệp Trường Bưởi đi dạy học khắp miền
xứ Bắc Kỳ- một đôi lần theo ba về
thăm nhà nội, chỉ nhớ mang máng trước
nhà có bụi tre gai cao vút –đi hơn sáu chục năm trôi qua , làm sao tôi
có thể nhớ và tìm lại được? Thôi cũng đành, nhắm mắt lại ngủ vùi , và chỉ bừng
tỉnh khi xe ca vào ranh giới Phú Thọ-Yên Bái.
Anh Năm đậu xe lại bên đường. Tua mời gia
đình Nimbus xuống xe, lại nam
tả nữ hữu- tôi nhớ tới đêm nào có bà (hay
cô) kêu oai oái , nghe tiếng sè sè tả
bên nam, trời tối đi nhầm sang hữu-bên
nữ. Ban ngày thì chẳng có chuyện này rồi. Tua bẻm mép ra lời , ai từng ăn
bưởi Năm Roi Lục tỉnh Nam Kỳ, giờ ra Bắc, ngược xuôi qua miền trung du lên vùng tây bắc, và Đoan Hùng- thị trấn ranh giới cuối cùng Phú Thọ - nơi có thứ bưởi tuyệt vời
trên cả tuyệt với, bưởi đường phèn
ngọt như mía lùi- không mua sẽ chẳng còn
cơ hội trở lại nơi này lần hai thưởng
thức bưởi Đoan Hùng. Câu kinh thi dân
gian chè Thái, gái Tuyên –ai nghiện
nước chè ngon tất biết chè Thái , ai có
bà xã đẹp người, tốt nết, lưng
ong vừa khéo chiều chồng lại giỏi nuôi con, hẳn không thể không biết gái Tuyên. Cứ như thể hướng dẫn viên bẻm mép đã có ăn chia với nhà vườn trồng bưởi Đoan Hùng
vậy.
Tôi
bước vào căn nhà lá bên đường
phía tay trái, từ ngoài vào trong bếp
bưởi là bười chồng chất cao như
núi. Chủ rao giá nhỏ ba/lớn năm, sống
trên đời ô trọc, cần ăn miếng bưởi Đoan Hùng hương vị ngọt thanh tao, một mai này ai chẳng xuôi tay,
nhắm mắt, nếu chưa ai vuốt- bởi chết đi chưa
được xơi múi bưởi Đoan Hùng. Bưởi ngọt, mỏng cùi, ruột dầy, lại nhiều nước,
mua về không thể ăn ngay, phải chờ da bưởi săn lại , càng héo càng ngọt, cứ để
vài tháng da bưởi sẽ vàng óng, đó đúng thời kỳ vừa ăn. Bây giờ đầu tháng mười dương lịch đến tháng hai tây
là đúng tết ta, lau sạch đặt vào đĩa đưa
lên ban thờ. Có một điều cấm kỵ trong nghề trồng bưởi, sở dĩ qúy khách miền nam
không dễ gì mang giống bưởi Đoan Hùng về trồng đất nhiệt đới , có trái bưởi Đoan Hùng
ngon ngọt như ở đây- nên chúng tôi mới
nói điều này. Khách lắng tai nghe, chàng
bán bưởi trạc tứ tuần lưỡi nhọn chẳng
kém gì Tua bẻm mép. Vậy điều cấm kỵ ấy
là gỉ? Mà thôi, để khi quí khách từ Sapa
trở về mua bưở i chúng tôi ăn tết nói ra ch ưa muộn. Tôi
không phải dân vườn, chẳng mấy quan tâm,
anh nói cho nghe thì nghe, hay không
bao giờ nói cũng mặc! Tôi nghe
chủ nói nhỏ vào tai ông Thành câu gì đó ,rồi quay sang tôi đưa bốn trái, những trái này đã bẻ xuống khá lâu, ăn ngọt
vừa miệng , bác là người có tuổi, cháu
đâu dám dối trá!
Cầm
mấy trái bưởi mới mua, ông Thanh rỉ rả, nghề nào đều có bí truyền cả, khâu quan trọng nhất giữ cho
trái bưởi Đoan Hùng ngọt , khi hái không được phép cho bưởi rơi xuống đất- đã rơi rồi coi như bỏ, buởi không còn vị ngọt nguyên thủy nữa.
Nhìn đồng hồ 11 giờ 35 tới Yên Bình- Km9, bác tài đậu xe bên đường . Hướng
dẫn viên mời khách xuống xơi cơm trưa.
Restaurant Quân Oanh nằm phía tay phải- hai căn liền nhau xây hai tầng, căn bên trái nhà hàng ăn, bên phải khách sạn ngủ. Tôi đưa
máy lên bấm, bỗng một cô trạc ba mươi chạy ra, miệng cười rất tươi, đứng kế ngay vợ tôi rất tự nhiên- Bấm máy
đi, cho em chụp chung với chị. Anh nhớ gửi
cho em một tấm đấy nhé, em tên Oanh, Km9 Yên Bình-Yên Bái. Xưa kia ba mẹ em kể
lại, thời tây đến thời Bảo Đại, Yên Bình
vẫn thuộc Tuyên Quang.
Cô chủ quán dáng người đẫy đà, da trắng trẻo,
một răng khểnh duyên cười
tươi, thấp hơn vợ tôi nửa cái đầu. Giá
mầu da cô này nhuôm nhuôm hẳn là giống hệt Nàng Oanh - mà tối qua Cao Bá Ân
nhắc đến. Tự nhiên, tôi có cảm tình với cô chủ quán Quân Oanh này thật
rồi!
Rời thị trấn Yên Bình, tôi chào cô chủ Quân
Oanh lần chót, vẫn nhớ món gà luộc lá chanh chấm muối ớt, còn gì tuyệt hơn, gà đi
bộ thịt săn ,thịt không bở như gà công nghiệp. Tôi đã không muốn hỏi thêm
nhân thân cô chủ Quân Oanh, như muốn ghi nhớ lâu hơn hình ảnh cô bạn đồng hương nữ Yên Bình- với bộ đồ đen, làn da
trắng , nếu còn sức trai thuở chưa vợ,
ao ước được một lần vỗ bì bạch ngã ba Km 9: Yên
Bình – tôi xin ở lại mãi mãi.
Tới ranh giới địa phận Lào Cai, nhìn đồng
hồ đúng 14 giờ chiều. Nhiều nhà thấp lè
tè nơi sườn đồi thoai thoải, mái lợp bằng tấm fibrociment lại đặt máng nước hứng nước mưa giọt gianh. Lại nhớ đến
ngày ở Khu gia binh không quân Tân sơn nhất, nhà đều lợp bằng tấm fibrociment
– sau được khuyến cáo không nên hứng
nước mưa làm nước ăn; kể cả rửa rau, vì chất amiant trên tấm lợp này rất độc, cộng thêm khí thải bụi bom đạn gây
độc hại cho sức khoẻ. Không buồn ngủ-
tôi ráng thức nhìn ra bên ngoài,
phong cảnh núi rừng, sông suối miền tây bắc, quê hương thời niên thiếu như được sống lại.
Hướng dẫn viên thông báo, từ Yên Bái đến
Lào Cai 218 ki lô mét- chúng ta thấy đường vụt qua nhanh - trăm hay không tày tay quen , bác tài .
Tôi
nhìn đồng hồ; 16 giờ 30, buổi chiều nơi đây có đám mây xám đang bay lơ lửng
trên dòng Hồng Hà đỏ ngầu cuộn sóng. Và đây Lào Cai, nhìn sang bên kia Cốc
Lếu-Hà Khẩu- Trung quốc; nhìn qua trái ,một
dòng sông nữa chảy ra sông Hồng,
dòng nước màu vàng quyện lẫn mấu đỏ đục
ngầu Hồng Hà lại trở thành mầu đỏ hung hãn mùa bão lũ.
Từ đây đến thị trấn Sapa 38 cây số đường đèo hiểm trở sẽ mất nhiều thời gian
hơn, chúng ta sẽ tới khách sạn Bình Minh
II trước 19 giờ tối nay.
Trời bắt đầu mưa lất phất, xe chạy chậm lại
giúp tôi ngắm ngoại cảnh kỹ hơn.Cánh đồng bậc thang trùng điệp thấp thoáng sau
mây mù sương, bên đường phất phơ những
đoá hoa rừng hoang tịch mịch đang khoe sắc man dại!
Sapa
trước mắt tôi lần đầu tiên, một Đà Lạt
thu nhỏ thơ mộng hệt tranh thủy mạc Tàu, lại có nét kiến trúc phương tây. Khách sạn ở Sapa thật hoành tráng, nguy nga ,một
toà lâu đài cắm trên đồi, phía trưóc
công viên trồng hoa rực mầu đỏ.
Đi
trên đường Thủ Dầu Một, cứ ngỡ đang
thả bộ dốc đường thành ủy ở Bình Dương, lướt qua Hải Yến Hôtel ,bước vào khách sạn Bình
Minh II- nơi chúng tôi ngủ lại hai đêm.Cửa lớn vào khách sạn, một băng đơ rôn đỏ :
HƯỞNG ỨNG PHONG TRÀO XANH SẠCH ĐẸP
với
tôi-hẳn là chẳng mang ý nghĩa gì? Tuy vậy, nó gợi lại trong
tôi ấn tượng mạnh mẽ về Sapa.
Sapa
không khí trong lành, rừng xanh biếc ngút ngàn, đường sá sạch boong, vẻ đẹp
thiên nhiên Trời ban tặng; vậy thì cần
gì phải HƯỞNG với ỨNG? Nghĩ xa hơn chẳng
mấy sai, phong trào do Ủy ban hô hào mà
thôi , và nói thật chẳng phong trào nào
tồn tại bền lâu?
Như thời kỳ
tổng thống Diệm trị vì, ông bộ
trưởng thông tin Trần Chánh Thành kiêm chủ
tịch Phong trào cách mạng quốc gia vung
tiền ra báo ngày,báo tuần, báo tháng, thuê chủ bút cỡ Lê Văn Siêu (nhóm Hàn Thuyên tiền chiến) đánh trống thổi kèn , hô hoán cao trào văn hoá cách mạng
phải thế này thế kia ,các tác gia danh tiếng được mời viết trả nhuận bút sộp. Sau
cuộc đảo chính 1963, phong trào văn hoá cách mạng quốc gia cũng bị khai tử cùng
lúc với các văn tài bồi bút gia nô . Trên báo chương xuất hiện bài viết ngắn lạy lục
nhân quần xã hội, dư luận
thế gian, xin tha mạng chết thân
trâu ngựa, túng đói làm càn có tiền
nuôi vợ con; từ nay xin chừa không bán rẻ lương tâm , cán bút trên trận bút
trường văn nữa. Tôi nhớ mang máng -nhà báo Hiếu Chân thành khẩn nhất- trong số Lê Văn Siêu,Vũ Bằng, Nguyễn Mạnh Côn… mặt dạn
mày dày đổ tội hoàn cảnh khách quan, thế này, thế kia- cứ làm như bị bắt buộc
làm tôi đòi, gia nô văn bút cho chế độ Ngô Đình Diệm vậy.
Phòng 206 nằm trên lầu hai nhìn ra mặt
đườngThủ Dầu Một- như tờ rơi quảng cáo ,thì khách sạn này gồm nhiều phòng đủ
tiêu chuẩn quốc tế, phòng nào cũng air
conditioning system, phòng ăn, hội trường
đẹp, phòng ăn sang trọng, quầy rượu không thiếu rượu ngon quốc tế, trang
bị quạt cũng chẳng cần bật làm chi, vậy
cái gọi là trang bị hệ thống điều hòa không khí đúng
là chơi chữ cho vui, dụ khách mà thôi – hình như chẳng khách sạn nào ở Sapa
trang bị máy lạnh cả - vì thượng đế rất ưu ái
ban nhưng không một cái máy
lạnh thiên nhiên khổng lồ . Sapa hấp dẫn du khách phương tây thường tìm đến bản làng người Dao tắm lá thuốc tẩm, bài thuốc cổ
truyền được khai thác bài bản
thành lập một công ty , ông chủ trẻ
người Dao giúp cho hàng trăm dân thiểu số có công ăn việc làm.
Sáng hôm sau, chúng tôi được xe đưa đến
Thác Bạc, cách 12 cây số trên đường 4D đi Lai Châu. Nhìn bản đồ, rẽ trái theo
tỉnh lộ 32 đi Mù Cang Chải , Nghĩa Lộ-Yên Bái.
Nhìn NGHĨA LỘ chữ in - hỏi lòng và tự nhủ , nếu có dịp nào thuận tiện, tôi đi ngay về thăm Nghĩa Lộ, mới chỉ tưởng tượng thôi , tôi đã thấy hạnh phúc biết bao nhìn cảnh cũ, nhớ người xưa – trải nghiệm một
thời đoạn sống vui, buồn, sung sướng, và
tủi cực lại càng không dễ quên!
Cơn mưa sáng vẫn rả rích đều hạt, tưởng
chừng sẽ chẳng ai muốn ra đường- thì một quán cóc đầu tiên hiện ra – một cô gái
trẻ nhẫn nại nép mình trong lều chăm chỉ
quạt bếp nướng khoai lang mật, đốt ống cơm lam bên ngọn than hồng. Cả hai cô người Dao không
mặc áo mưa, miệng cười tươi chào khách mua hàng thổ cẩm. Ông Đặng chống gậy đi
lại chọn sấp vải, như có ý định mua
thêm vài thứ khác - thì đúng lúc tôi đưa
máy ảnh lên bấm . Nghĩ trong đầu ,các cô, bà, trẻ em người thiểu số thấy khách
bấm máy xong ,xoè bàn tay đòi tiền – tôi đưa năm ngàn tặng ,hai cô lắc đầu. Ông
Đặng hỏi một cô người Dao:
-Ngộ
muốn mua cái mũ cô đang đội trên đầu thôi, chứ không mua đồ thổ cầm trên tay
đâu? Cô pán pao niêu, ngổ trả đúng giá pấy niêu.
-Không
bán đâu, đây là sỡ hữu riêng mà.
Ông Đặng như không hiểu cách cô người Dao dùng chữ, hỏi lại:
-Sỡ
hữu riêng là cái gì dzậy? tôi
không hiểu.
-Là cái Trời ban cho, cái mắt, mũi, tai,
miệng, thân hình, tiếng nói, sắc đẹp, cái duyên, cái hấp dẫn người khác từ nơi người con gái dậy thì, còn là cái mũ,
cái áo, cái váy này tôi đang mặc. Nếu
bán cái mũ này là bán tất cả thân thể
linh hồn tôi rồi, không thể bán được đâu! Mua cái thổ cầm này đi, đẹp lắm đó,
mua về làm quà kỷ niệm nguời Dao Sapa mà.Tôi nói thật đấy!
Khen cô người Dao thông minh, ăn nói sắc sảo,
có đôi chút đáo để- quay sang nói với tôi, ông muốn được chụp tấm ảnh đứng giữa
hai cô Dao làm kỷ niệm.Trả lời- tôi đã
chụp trước khi ông yêu cầu .
Trở về ăn
trưa tại khách sạn, vào đầu giờ chiều đi thăm Nhà thờ Đá Sapa. Chợ
Sapa, Núi Hàm Rồng, Cổng Trời vv… Tua
cho biết , chương trình ghi hạng mục THĂM CHỢ TÌNH SAPA .
ĐÊM THỨ BẨY không thực hiện được, cũng tại
bão Xangsane ập tới- buộc phải lùi
ngày khởi hành, thay vì 30 tháng 9 đến
ngày 5 tháng 10 lên đường.
Chợ
tình đêm thời tiết đẹp còn vui, chứ mưa
lai rai như đêm nay chẳng hạn ,chẳng có ma nào đâu- cũng vẫn một số cô cậu tham
dự trước sân Nhà thờ Đá Sapa – cô gái múa
may trong bộ váy thổ cẩm cực kỳ công phu nhiều mầu, rực rỡ nhất mầu đỏ trên mầu chàm, cậu trai
vận bộ quần áo mầu chàm tượng trưng bộ
tộc xuềnh xoàng, đơn giản, cầm khèn thổi
theo nhịp chân múa may. Nhảy múa xong, cô
gái cầm mũ đòi tiền khách ủng hộ, thấy
nhiều tiền cười vang thoả thích , nhảy múa
tiếp- tiền thưởng ít mất vui, xịu mặt, có khi không nhảy múa hát hò xung độ như ban đầu.
Tua than, ôi đồng tiền là tiên là phật, sức bật
tuổi trẻ, sức khoẻ tuổi già, cái đà danh vọng, cái lọng che thân, cán
cân công lý…có sức làm tha hóa tính tốt con người trên rẻo núi cao, đồng tiền tác động thực tế rất lớn đời sống thường nhật- cô em người Dao gặp
khách du lịch thường níu kéo tặng sợi
giây thêu may mắn bằng thổ cẩm, chúc may mắn, mạnh khoẻ - được khách tặng lại
đồng hào khứa quanh viền thì nhận ngay ,
đồng hào viền láng, lắc đầu từ chối .
Cũng
chẳng hoàn toàn vậy, tôi đã gặp
một cô người thiểu số mang gùi sau lưng, chân quấn xà cạp đi bộ đầu cúi
nghiêng phía trước, dáng người thon
thon tuổi
mới mười ba ngực đã bồng, làn da
trắng mịn, tóc bạch kim , mũi dọc dừa cao- chắc đứa bé được sinh ra vào thời kỳ
đổi mới- khách phương tây cặp kè, bén duyên mẹ cô, nơi chợ tình lãng mạn không
chừng? Cô đi chợ mua hàng quẩy về bản thì phải, không ngước mắt nhìn ai, không
chào mời mua thổ cẩm, kỷ niệm, phong cách chững chạc, rất ư chừng mực, thật đáng
kính trọng!. Tôi dừng lại trước mặt xin phép chụp một pô ảnh – cô cười đồng ý- sau gật đầu chào lặng lẽ bước nhanh tới
bến xe khách Sapa-Lào Cai. Cô ngồi lên
xe khách cầm tờ hai chục ngàn mua một vé Sapa –Lào Cai, vậy ra cô này không
thuộc loại dân nghèo – hai chục ngàn giá
trị bằng tiền công được trả cho một lao động phổ thông quần quật tám tiếng đồng
hồ. Tôi xin cô địa chỉ gửi ảnh, cô lắc đầu:
-Cháu ở trong bản, thư từ gửi đến chẳng
nhận được. Xem chừng chú là du khách bình thường, nếu có ý định in ảnh cháu lên báo ,thì không nên đâu, cháu xin chú đấy!
Vẫy
tay chào lần cuối đúng lúc xe lăn bánh rời bến đỗ, nếu có một ngày nào lại rất tình cờ được
gặp tại nhà cô, cô sẽ mời nước trà theo
đúng tập tục người Dao : tao thích thì tao mời mày nước chè, tao ghét sẽ không mời mày uống
nước chè đâu? (miền bắc: chè là trà).
Liệu cô bé này có cho uống trà hay không
đây, còn phải chờ có ngày gặp lại.
Trở lại khách sạn giờ nghỉ trưa thật bất
tiện, giờ này vợ tôi đang quấn chăn bông ngơi nghỉ giấc trưa – tôi tạt vào gần
đấy , gọi ly cà phê đen . Quán đối diện
khách sạn, bán nước mía giải
khát, khoai lang nướng, mía cắt từng khúc chưa dóc vỏ, phía trong nhà có kệ bán
tạp hoá, rượu táo mèo.
Một cậu bé chừng chín mười tuổi đi cạnh bà mẹ Dao vào hỏi mua miếng xà phòng thơm. Chủ quán
đưa miếng Lifebouy, cậu gật đầu, bà
mẹ trẻ hỏi giá rồi lắc đầu kêu đắt, có
miếng khác nhỏ rẻ hơn không? Hai mẹ con đi ra với miếng xà phòng tắm nhỏ xíu
bằng hai đầu ngón tay, bà chủ cho biết họ cần kiệm vì nghèo, đứa con
đang theo học trường nội trú dân tộc có
trợ cấp, vẩn phải bù thêm tiền mua đồ dùng cá nhân: xà phòng tắm, bàn chải,
thưốc đánh răng, khăn mặt. Bà chủ cho
biết thêm căn nhà một trệt, một lầu mới xây từ tiền đất nhà nước bồi thường cho gia đình chính sách cũng
khá, mẹ con tần tảo buôn bán lặt vặt sống qua ngày. Bố sĩ quan công an mất
tích thời chiến tranh ở Quảng Trị năm
bẩy hai, nay chưa tìm thấy xác, con gái độc nhất chưa hề một lần vào thành cổ dò tìm tin tức.Rồi
hỏi đoàn du lịch từ Hà Nội đến hay từ
miền Nam ra , thuê phòng khách sạn đắt lắm
không, giả dụ gia đình chú lên du lịch Sapa vào dịp tết ta sẽ tha hồ ngắm tuyết
rơi đỉnh đèo Ô Qui Hồ.
Và rút tấm danh thiếp trong hộp đưa cho
tôi, dặn dò thêm, căn nhà đầu tiên mang
số chẵn, đường Thủ Dầu Một, và quảng cáo rượu thuốc ngâm táo mèo, uống vào bổ
tì vị, nếu là dân nghiền ( ngưng nói nhìn tôi từ đầu đến chân) phong độ như chú đây ,chỉ cần uống một ly
thôi , sẽ được cô nhà tấm tắc khen đấy!
Nghe bùi tai, tôi đặt mua một bình với giá
hữu nghị trăm ngàn đồng. Nhìn khúc mía
vỏ trắng bắt mắt, nhờ dâu bà róc vỏ, đưa lên miệng nhai –quả thực danh
bất hư truyền, chất ngọt rất thanh, không gắt, nuốt xuống cổ nhận được dòng
chảy vào ruột.
Nhắc
tới mía Lào Cai ngọt danh bất hư truyền - nhờ bố vợ tôi kể lại. Vợ tôi - thứ nữ
được sinh ra ở Thất Khê ( Lạng Sơn) năm 1937- trước đó bốn năm chị vợ tôi được khai sinh, đẻ ở Bát Xát - bố vợ tôi đang
dạy học tại đó.
Nói với vợ, giá chúng ta đến thăm Bát Xát
thì tuyệt- đi theo đoàn lại quá ít thời
gian, không thể tách đi tùy tiện- vả lại
xe pháo khó khăn – ngay thị trấn Sapa tuyệt nhiên không thấy một anh xe ôm
nào đón khách – muốn thuê- phải nhờ
người quen giới thiệu. Tôi đem bản đồ ra
tìm nơi chị Thư sinh ra - Bát Xát cách Lào Cai nửa centimét theo tỷ lệ 1:
1.750.000 -vậy chừng trên dưới bốn chục ki lô mét -nằm trên ranh giới Việt
Trung. Bố vợ tôi sinh 1908 ở Lạng Sơn,
tốt nghiệp Trường Bảo hộ sau bố tôi mươi lăm năm- tuổi kém một giáp; nhẩm
tính bố đẻ sinh năm 1896. Còn bố vợ tôi lại thẳng tính, đôi chút ngổ ngáo, gặp chuyện bất bình đối xử
giữa quan thuộc địa và bản xứ, hay dính mũi can thiệp. Có một lần đánh tennis với quan thuộc địa, ông nghịch
ngợm quất trái banh chui tọt vào chiếc váy
phu nhân Công sứ (quan đầu tỉnh ). Bà la ré lên, quan
ông nhìn thấy vợ ngã bổ nhào ,rất tức
giận tên giáo viên bản xứ vô lễ, buông lời
trách cứ quở phạt.
Không ai ngờ
tay giáo viên bản xứ Nguyễn Quốc Bảo dám cãi tay đôi với quan ông – và quan
bà can thiệp cho là chuyện nhỏ -khiến quan ông càng ghen tức hơn - ra lệnh Nha Học chính làm
giấy thuyên chuyển ngay tức khắc.
Chỉ ít ngày sau, bố vợ tôi nhận được giấy thuyên
chuyển lên mạn ngược , nơi rừng thiêng, nước độc, đèo heo hút gió: địa danh Bát
Xát-Lào Cai- tiếp theo, lên Lạng Sơn- Thất Khê, Tràng Định, Nghĩa Lộ, Tú Lệ-
Yên Bái… cả hàng chục năm sau mới về lại
Hải Dương -một năm sau đất nước phân
chia, ông di cư vào Nam.
Trong tập album lưu ảnh gia đình, có chân dung một cô gái khuôn mặt giống
hệt bố vợ, chẳng con cái nào được biết tên, tuổi, gốc gác –hỏi mẹ, bà chỉ lắc đầu: có thể vai chị hay em chị Thư -con
ngọai hôn ông giáo.
Tôi nhớ
lại , năm 1981 ông qua đời ở Đà Lạt,
vợ tôi lên dự đám tang, không đủ tiền mua vé xe về lại Sài Gòn đành
phải đi bán máu. Thời bao cấp ai cũng khổ, bác Phòng ( quen
gia đình) chỉ hút 180 c/c máu
-thay vì 200c/c -đến lần bán máu lần hai
, cũng lấy tiền mua vé xe đưa mẹ về Sài Gòn - em trai không thể nuôi – và bà qua đời đang
khi khỏe mạnh, chỉ nghẹn cơm mà con gái lớn không hay biết.
-Ôi thôi lại một cái chết rất oan uổng của
bà mẹ vợ!
Có lần, cậu Ba bênh vợ con mắng mẹ xối xả,
vợ tôi lau nước mắt định từ con –nhờ chậm
nóng giận, nghĩ lại bản thân chẳng làm gì cho bố mẹ vui ngày cuối đời, mẹ nhai bát bo bo trệu trạo mong có
chiếc khăn vuông quàng cổ trời đổi gió thì con gái không mua nổi- tích cóp từng đồng mua gạo nuôi con ăn học lớn lên thành người.
Bây giờ con thành đạt rồi , có đứa bất kính
với mẹ đi nữa, thì :… dầu cho mày bất hiếu mấy đi nữa, mẹ cũng chỉ cầu nguyện Chúa tha tội
cho
con
bất kính cha mẹ, bởi mày chính là cái
giằm Chúa găm lại để phạt mẹ xưa kia đã bất kính với ông bà ngoại!.
Nhìn
vợ đưa tay lau giọt nước mắt ngậm ngùi- mỗi lần nhớ lại, tôi chưa hết xót xa- nhất là ghi lại chuyện rất
khó viết này!
Còn bố ruột tôi bị đổi lên mạn ngược Yên
Bái-từng lần dạy học ở Thân Uyên (thời tây: Thân Uyên thuộc tỉnh -Lào Cai ) sau thuyên chuyển về Làng Bữu
- Văn Chấn, Đại Lịch-huyện Trấn Yên, tiếp
theo được trở lại Trường Sơ học Hạnh Sơn- Văn Chấn- và một thời gian
sau được chuyển ra tỉnh lỵ, dạy ở École de Garcons de Yen Bay
vào năm 1932- nơi tôi được sinh ra ở
Nhà thưong Yên Bái-phố Yên Thái. Có một điều mà tôi ân hận nhất, tôi không thể hình dung được
khuôn mặt bố và mẹ tôi ra sao cả. Không còn
lưu giữ được một tấm ảnh nào của bố - hỏi bà cô ruột tả chân dung anh
Cả- vẫn chỉ cảm nhận cách mờ nhạt. Còn
mẹ tôi, ảnh người trong mắt tôi vào thời gian Nghĩa Lộ-trước giờ lên máy bay hãng Autrex về Hà Nội học- tôi chẳng hình dung
nổi khuôn mặt mẹ tôi , chỉ nhớ khuôn mặt
tròn phúc hậu , tóc mẹ quấn đuôi gà-
bà con gái Sơn Tây- chẳng nhớ ở Quảng Oai hay Quốc Oai – nên tôi phịa câu chuyện tưởng tượng thế này – ông
bố nguyên quán Việt Trì, một buổi đẹp trời qua bến Trung Hà sang chơi xứ Đoài-
gặp cô
gái Sơn Tây yếm thủng tày giần/ Răng
đen hạt nhót má hồng chôn niêu-mê như điếu đổ xin cưới bằng được!
Mẹ tôi
họ Phùng, tên Mùi ( ông bà ngoại đặt tên
theo năm sinh chăng?) và dân Sơn Tây
có nhiều gia đình mang họ Phùng thì phải
–mỗi khi gặp người họ Phùng, không hiểu tại sao tôi qủa quyết là đồng hương với
mẹ.
Năm
1974, ban chủ biên NXB Vàng Son thực
hiện Tập thơ, trưyện không quân thời chiến (Sài Gòn, 1974) in bài thơ Nguyễn Cao Kỳ khóc mẹ qua đời ở Sơn Tây :
… Mái tóc bạc sương bao năm khổ hạn
Kiếp phù du mẹ cay đắng ngược xuôi
Lắng nghe xem dòng nhạc giữa dòng đời
Ai gẩy hộ một cung đàn êm ái….
THƠ NGUYỄN CAO KỲ
THƠ NGUYỄN CAO KỲ
tôi lại quyết đoán bà mẹ tác giả Kinh
sám hối quê Sơn Tây , họ Phùng. Sau kiểm
tra lại , ít nhất Sơn Tây cũng có hai bà
mẹ họ Phùng- một, bà mẹ tác giả Kinh sám
hối- bà kia , mẹ người biên tập – và cả hai bà mẹ qua đời - chẳng ai được
nhìn ai vào lúc đậy nắp quan tài?
Bỗng nhiên, bà chủ quán cho hay , có một bà
người Dao nào đó đứng trên hành lang
khách sạn gọi- tôi nhìn lên thấy vợ đang vẫy tay.Vợ mặc áo váy dân tộc Dao, trông đặc sệt
người Dao- chỉ tay ra dấu đoàn sửa soạn
lên xe ca dạo phố Sapa.
Chẳng ai đến Sapa lại không đi thăm Nhà thờ Đá
làm bằng đá khối trên khu đất rộng vuông vức tĩnh lặng lạ kỳ! Cánh cửa vòm lợp
mái phụ hệt dáng vòm Nhà thờ Con Gà Đà
Lạt, bước qua vòm vào thánh đường ,
bên trái một dãy nhà dài ,cổng phụ , lối đi riêng hàng rào sắt thiết kế giống hệt bất cứ công thự ,phòng ốc nào xây dựng cuối thế kỷ XIX ,đầu thế kỷ XX.
Tôi
bấm nhiều pô ảnh sân nhà thờ đá, được
lót bằng đá thiên nhiên mầu xám thẳng hàng ngay lối phẳng lì.
Nằm
trên sườn đồi thoai thoải ở phía sau , những căn biệt thự xây dựng trong khu
đất riêng biệt, thường ra là hai tầng,
sân trước, vườn sau, cây cối cổ thụ . Hai lớp cửa sổ, cửa kính phía trong,
ngoài cửa chớp, sơn nâu ,xám, tường quét vàng, từ phòng hắt ra ánh sáng đèn
bóng tròn thật ấm cúng. Đem lại cảm giác bớt lạnh gía khi khách trang bị áo len trong, áo khoác
ngoài đi dạo phía ngoài. Khu chợ, sân
vận động bao quanh Nhà Thờ Đá, rất đúng với lời thơ Vũ Hữu Định, Phạm Duy phổ : đi năm phút trở về chốn cũ - áp dụng cho Sapa bây giờ đúng hơn Gia Lai – Gia Lai bây giờ phố
phường xây dựng mới, nhà cửa đông đúc, người người lớp lớp chen chân trên vỉa
hè mở rộng hơn nhiều.
Bỗng dưng hình ảnh ông bố vợ hụt, cũng từng là
công chức thời tây ở Sapa trở về trong trí nhớ tôi khi đứng trưóc sân Nhà Thờ Đá. Nghĩ lại
rất lôgic
-chữ nghĩa thời thượng miền bắc vẫn xài -đã nhắc bố vợ , bố đẻ dạy học ở Sapa-Lào
Cai hà cớ gì anh quên
ông bố
cô gái sinh ở Sapa–nguồn cảm hứng rạt rào cho tập thơ Nếu anh có em là vợ ?
.
VÀI HÀNG VỀ CÔ BÉ : NÀNG THƠ CAO MỴ NHÂN
Sinh
năm 1939 ở Sapa, Hoàng Liên Sơn, Bắc
Việt. Học tiểu học tại Trường Tiểu học Lệ Hải- Hải Phòng. Năm 1954 , di cư vào
Nam, học Trung học Trưng Vương Sài Gòn, sau đó học cán sự xã hội Caritas. Ra trường gia nhập quân
đội Cộng hoà. Năm 1975, thuộc thành phần sĩ quan cấp tá, đi tập trung cải tạo,
đến cuối năm 1991 sang Hoa Kỳ định cư theo diện tị nạn, hiện ở thành phố Hawthorne,
California .
Sapa, nơi
nghỉ mát lý tưởng từ xưa đến
nay không hề thay đổi: đèo thì cao, gió lộng thổi qua thửa ruộng bậc thang -
Thác Bạc ngày đêm giội đổ ào ào từ đỉnh núi xuống ngang đường 4D đi Lai Châu, rẽ
phải Mù Cang Chải, Nghĩa Lộ- Yên Bái…
Nàng
thơ được sinh ra năm Mão, cầm tinh con mèo theo con giáp, làm thơ tình tính ra hàng nghìn , thơ đã in trên dưới
dăm, bẩy tập. Tập mới nhất tôi
đang có trên tay in ở Hoa Kỳ : Thơ Mỵ II
(phân biệt Thơ Mỵ- Sài Gòn 1961) nhà
văn Duy Lam ( cháu ngoại chủ soái Tự Lực văn đoàn) săn sóc in ấn, hoạ sĩ
tài tử Phan Diên kiêm phó nháy, chụp
chân dung.
NHÂN VẬT THƠ
Hỡi
ơi nhân vật của em
Chỉ
là hư ảnh sau phiên chợ chiều
Khi
em ngó sững tịch liêu
Thì
nhân vật ấy vội dìu em đi
Tưởng
như một khách tình si
Từ
nơi xa thẳm tìm về chốn xưa
Suốt
tuần bão nổi giông mưa
Em
say huyễn mộng nhặt thưa đợi người
Khách tình si rất tuyệt vời
Chờ
em chạy tới chân trời sám mây
Dang
tay ôm gọn thân gầy
Ru em
giấc ngủ tình đầy văn chương
Hỡi ơi, nhân vật thơ vương
Từng
trang kỷ niệm yêu thương chân thành
Thế
thì, đố nhân vật anh
Là ai
trong cuộc viễn hành của em.
CAO MỴ NHÂN-
Hawthorne , 11-1-2005.
( trích Hội thơ Tài tử Việt nam Hải ngoại
xuất bản, Cali 2006)
Trên đỉnh Cổng Trời sương mù dầy đặc, sương bay mờ gương mắt mất
rồi! cô bé giọng Huế thật dễ thương!
Thế
mà vẫn có ba công nhân nữ và một nam mặc
áo xanh trồng hoa trong vườn góc Cổng Trời. Hoa đỏ kết thành chữ SAPA vẫn nở rộ phía sau chân dung vợ chồng tôi vào
chiều lộng gió trên đỉnh đồi hoa. Gần đó
,chợ chồm hổm mấy cô người Dao và mấy em bé chạy lăng xăng mời chào khách
mua thổ cẩm lưu niệm. Trời mưa hạt mỏng
hắt lên cánh tay trái cô bé Dao cầm dù xoay xoay, tay phải giỏ thổ cầm
lúc lắc rao bán .
Ông Đặng chống gậy leo núi dáng điệu bơ phờ, khiến bà vợ , khóac tay
dìu- tôi nhớ ban sáng
đôi mắt láo liên nhìn hai cô gái Dao ,đòi mua cái mũ đang đội, bị chối
từ- đây là sở hữu riêng. Ông bạn người Hoa sống rất lâu ở Chợ lớn, quốc tịch Pháp, thường trú Nam Vang,
chân gỗ bên trái kỷ niệm cuộc chiến 75 Sài Gòn-Chợ Lớn- thấy cô gái xinh xắn
vẫn đam mê, và quay sang phía tôi ,
chúng ta ưng cái bụng khi nhìn cô gái đẹp, phải không?
Rời
Sapa sau bữa sáng ở khách sạn
Bình Minh II, gia đình Nimbus
lên xe ra thị xã Lào Cai, ăn trưa Hà
Khẩu- hướng dẫn viên cho biết đại tiệc gồm mười món, vịt quay Beijing hẩu xực nổi tiếng Trung quốc. Cô Huyền thông báo phải đóng thêm một
trăm ngàn đồng/người/hộ chiếu tạm thời
sang nước bạn. Tấm hộ chiếu này mỏng manh hơn hộ chiếu Cục Quản lý Xuất nhập cảnh trung ương cấp, tôi cầm trên
tay tự nhủ chắc chắn sẽ được xuất
ngoại xuôi chèo mát mái thôi – bởi không
cần phải trả lời phỏng vấn như hai lần trước xin sang Huê Kỳ đều bị từ chối tại Tỗng Lãnh
sự Hoa Kỳ tại thành phố Bác.
Lần một, chính xác ngày 25 tháng 9 năm
2001, đúng sau hai tuần lễ Tháp Đôi, Trung
tâm Thương mại quốc tế- New York bị đánh
sập, người chết vô số , kẻ bị thương
nhiều vô kể, gây chấn động toàn cầu. Tôi cầm hộ chiếu vào quầy B - nữ nhân viên
giọng người Hà Nội thanh lịch ngọt ngào hỏi- sao tờ khai nhân thân mang tên The
phong lại không được hỗ trợ dấu
tiếng việt? Nghĩ bụng thôi- cô dùng chính xác từ công nghệ-thông tin - tôi trả
lời:
-Thưa cô, người Mỹ không cần hỗ trợ dấu khi đọc tiếng việt, phải không ạ? và
Thephong có dấu hay không, có gì quan
trọng đâu?
-Sao lại không hở bác, Thephong cần được hỗ trợ dấu
việt- tôi nhắc lại.
-Thưa cô, chỉ là dấu Ế, mong cô tự thêm vào, xin
đa tạ.
-Bác phải tự ghi lấy rất quan trọng đấy.
-Thưa cô, tên Thếphong chẳng là cái gì, đâu phải chỉ riêng tôi dùng – một phóng
viên ảnh báo Yêu Trẻ - tên Thế Phong- anh ta chụp người mẫu rất đạt, in trên bìa tạp chí Phụ
Nữ/Tp.HCM- Và con dâu nhà chúng tôi giống hệt cô, mách mẹ chồng: bố già thế bồ bịch lung tung, người mẫu này,
cô nhà văn kia vv… May mắn sao vợ biết tính chồng thông cảm.
-Bác nói ngoài lề, dài dòng như rễ rau
muống - bác là NHÀ- VĂN- Ế chứ gì- mỗi dấu Ế làm mất thời giờ -thôi
được tôi viết giùm vậy. May không nhiều người đứng sau chờ ( cô xin lỗi người xếp hàng phía sau) bác giải thích dâu tây
nhà tôi giống hệt cô, là sao?
-Con dâu nhà chúng tôi được sinh ra ở Hà
Nội - con trai tôi cưới về , ngoài việc đẻ cháu nội kháu khỉnh -cầm tinh con
cọp, có biệt tài chỉ huy gia đình – còn liêm sỉ lễ nghĩa, nấu ăn ,dạy con cái, ứng xử nàng dâu mẹ chồng ( kém)- và chỉ sở hữu giọng
nói thanh lịch cực kỳ Hà Nôi giống hệt
cô.
Vợ
chồng tôi phán :mày đúng là dâu tây con ạ !
-Cô phát số 267 cho tôi xong, mời cô bác đứng chờ tới quầy:
-Mời
cô bác hàng sau, và riêng nhà- văn-
ế Thếphong có sách in ra, nhớ
tặng tôi với chữ ký tác giả - bởi tôi cũng họ hàng dâu
tây nhà bác!
Vào phòng chờ, di dộng tắt cài chế độ rung, không ồn ào làm mất trật
tự, nghe xướng danh mời vào đúng quầy.
Lại nghĩ trong bụng, thằng Hoàng bạn
mình tốt thật mời sang Mỹ chơi, thủ tục
thật rườm rà, tôi cảm thấy như lới nói
rất ư lịch thiệp sứ quán xem ra vẫn ẩn chìm vẻ trịch thượng ban ơn. Phỏng
vấn cho đi, ừ đi- nếu không, vẫn Sois
remercié l’Amérique! ( tạm dịch: Cứ
hãy cảm ơn nước Mỹ đi!) chẳng có
gì bận tâm!
Khách mang số 269 được phỏng vấn trưóc-
cười hỉ hả- chiều lên đóng tiền làm visa.
Còn bạn ngồi cạnh số 268 , hỏi tôi sang Mỹ
làm gì? Giấy tờ bên đó bảo lãnh ra sao –và 268 chỉ có duy nhất lá thư ở Mỹ -
mời bố ở xã Nguyệt Biều-Thừa Thiên-Huế sang thăm con trai hiện ở Dallas .
268 hỏi tôi có biết Dallas
ở mô?- Mô, tê, chi, răng, rứa, anh
có nghe tên tổng thống John Kennedy bao
giờ không? -Biết
/ -Dallas là nơi tổng thống
đẹp trai từng quấy nhiễu tình
dục đệ nhất giai nhân Mỹ quốc Marilyn
Monroe, bị bắn chết .
Anh chàng 268 lại thắc
mắc nhìn xấp giấy tờ bảo lãnh cuả tôi từ Mỹ gửi về dầy cộp, nào chứng nhận
trả đủ thuế, chứng nhận công chức Mỹ cơ quan xác nhận, giấy chứng minh lương bổng, tiền gửi nhà băng vv… nên 268 ái ngại chuyến đi hy
vọng rất mỏng manh. Tôi an ủi cho xong việc, sẽ không sao đâu, lãnh sữ Mỹ ở Huế
chấp thuận cho đi Sài Gòn vào gặp Tổng lãnh
sự Sài Gòn thì anh sẽ được đi thôi. Anh
không tin vậy cho tôi sẽ chắc chắn được chấp thuận đến Mỹ ,
vì có nhiều giấy tờ của người bảo lãnh ở
Mỹ hơn là anh chỉ duy nhất một thư mời.
-Tôi ngóng chờ hết số 266, 270, 271- vẫn chưa
thấy gọi số 267 và số 268 Nguyệt Biều. Bỗng loa gọi mời số 268, anh Nguyệt Biều cầm giấy tờ đến
quầy 4, phỏng vấn viên Mỹ da trắng hỏi vài câu
gật đầu lia lịa, mời chiều trở lại đóng tiền lấy visa. Trở lại chỗ ,vỗ vai tôi chúc may mắn.
Tôi gục đầu ngủ gật, bỗng loa gọi: quí vị nào mang số 267 đến quầy số 4 làm
thủ tục.
Giụi
mắt cho tỉnh ngủ, đưa xấp giấy dầy cộp cho phỏng vấn viên da trắng còn trẻ, nói
tiếng việt sõi, giọng đặc sệt tây:
--Mục đích của ông sang Hợp chủng quốc?
-Tôi sang chơi thăm bạn bè cũ, và con tôi
cũng mới sang Hoa Kỳ, tiện thể thăm luôn.
-Ông sang Hoa Kỳ thăm con hay bè bạn?
-Trưóc lúc bảo lãnh có ý định thăm bạn bè cũ,
bây giờ tiện thể thăm con.
-Con ông được bảo lĩnh theo diện nào? từ bao gìơ?
-Ngày 11 tháng 9, diện đoàn tụ gia đình.
-Xin ông nói rõ thêm đoàn tụ gia đình thuộc diện nào- thí dụ bố mẹ
bảo lĩnh con cái, con cái bảo lĩnh bố mẹ, vợ bảo lĩnh chồng, chồng bảo lĩnh vợ
…và ngày 11 tháng 9 năm nào? Xin ông nói cho rõ.
-11 tháng 9 , ngày quân khủng bố không muốn nhìn thấyTháp Đôi-Trung tâmThưong
mại thế giới tồn tại. Còn con trai chúng tôi được vợ bảo lĩnh.
-Hiện con ông ở bang nào , thành phố?
-Bang
Texas , thành phố Houston .
-Ông không đủ điều kiện đến Hợp chủng quốc. Cảm ơn, và cuộc phỏng vấn tới đây chấm dứt. Tôi cầm hộ chiếu cười cười, không tỏ vẻ gì bực
bội , nói bâng quơ:
-Thank too!
-Ông cũng
nói được tiếng anh sao ?
-Chút ít, không giỏi như ông nói tiếng
việt nghề.
-Sao
ông lại cười ,khi phỏng vấn đã bị từ chối?
--Ông muốn biết sao tôi cười và cười kiểu
nào, tôi mới trả lời ông được. Có nhiều kiểu cười : cười
chua chát, cười bể bụng, cười gằn, cười giả dối, cười khanh khách, cười hóm
hỉnh, cười khằng khặc, cười khoan khoái,
cười lẳng lơ, cười ngạo, cười dòn, cười
duyên dáng cười nhoẻn
miệng, cười mỉa mai, cười trắng trợn, toe toét, tinh nghịch, tức bụng,
tủm tỉm, lấy lòng vv..và vv. –ông thấy tôi cười kiểu nào nào?
-Ông cười kiểu a bitter smile đúng vậy
không? và tại sao ông lại cảm ơn, ông trả lời được không ạ?
- Được, chứ sao không? A bitter smile chỉ đúng tâm
trạng ông- khi nhìn tôi cười .Thôi bỏ qua chuyện nhỏ, còn cảm ơn -tại
sao ư? Dễ thôi, cảm ơn nước Mỹ giúp tôi sẽ không phải tiêu đến đồng đô la thứ 46 . (năm 2001,
lệ phí phỏng vấn 45 USD/người)
Đi rồi còn nghe phía sau lưng Why,
Who is him ?- hình như anh ta hỏi cô phụ tá người việt bên cạnh. Và nếu anh ta hiểu được 20 kiểu cười kia , lại hiểu tận tường ngôn ngữ việt, tại sao mèo đen không gọi mèo đen,
ngựa đen không gọi ngựa đen, đũa đen
không gọi đũa đen,chó đen không gọi chó đen vv…chắc anh ta sẽ không hỏi
người này là ai, và tại sao lại nói
thế?!
Lần thứ hai, ngày 3 tháng 5 năm 2006, hai vợ chồng tôi xin phỏng vấn qua Sacramento,
thủ phủ bang California dự Đại hội Thơ lần thứ 4 -Hội Thơ Tài tử Việt Nam Hải ngoại, lại bị khươc từ.
Vẫn quầy số 4 -một nữ nhân viên có giọng
nói ngọt ngào lịch lãm Hà Nội hỏi vài
câu , khẳng định: nếu để ông bà sang Hoa
Kỳ thì sẽ không trở lại Việt Nam
nữa. Xin lỗi, cảm ơn!
Nhiều bạn bè mách nước, cứ thế tài sản ,xong
ngay. Không được đi cũng có cái tốt- bởi đây là sự sắp xếp quá vội
vàng - trưởng nam ở Houston không thể lo đủ ngay tài chính- dầu ông bà nội được gặp cháu đích tôn Đỗ Minh Quân-William cũng tốn cả mấy ngàn tiền vé!
-Xin quí vị cầm hộ chiếu trên tay, xếp hàng
một theo cán bộ hướng dẫn.
Lần này Tua không sang Hà Khẩu, còn lái xe Năm căng võng tòng teng trên xe nghe nhạc . Chún g tôi bước vào sảnh hải quan nước bạn - lần đầu tiên được nhìn thấy nam nữ
cảnh sát mặc cảnh phục Trung quốc, dáng
người cao, đi đứng chừng mực, nề nếp, qui củ - và chỉ có đôi mắt làm việc nhiều
nhất, tựa luồng ánh sáng quét từ đầu đến chân ố nàm nhần thăm Hà Khẩu. Nữ cảnh sát hành chính mặt bầu bầu, đong đưa đôi chân dài dưới ghế, đóng dấu trên hộ chiếu rất
nhanh, đóng dấu cụp cụp ,đưa mắt liếc
nhìn so sánh ảnh và người thật- hảo lớ-
cười tủm đứng dậy nhìn khách cuối cùng bước qua cửa khẩu .
Có một điều vui vui, tôi mới khám phá ra - khi nghe xướng tên Huỳnh Hòatới
hai lần - chẳng ai nhúc nhích lên tiếng có mặt – hoá ra ông Đặng người Hoa chống nạng ẩn tên Huỳnh Hòa mà chính ông cũng quên phắt. Cán bộ Công ty xuất nhập cảnh Lào Cai tới níu áo ông Đặng dẫn lên đứng vào hàng điểm danh. Sau được biết -trong
số bốn, năm người đi cùng ông bà Đặng - mang quốc tịch Pháp, hoặc Campuchia - rất dễ gặp khó khăn vào đất bạn- công ty nẩy ra mánh
lới đội tên việt là hay nhất.
Qua Hà
Khẩu, chúng tôi được đưa lên những chiếc xe lam chạy bình , tôi đã nhìn thấy ở
bên này cửa khầu Lào Cai, chạy thẳng vào phố Hà Khẩu. Cán bộ hướng dẫn thu ngay
hộ chiếu tạm thời, dặn dò cách thức mua, bán mặc cả giá ở siêu thị, sẽ chẳng có
gì lạ , giống hết siêu thị bên ta , và đa số mậu dịch viên đều nói tiếng việt, mua hàng trả tiền việt.
Đường xá rộng thênh thang, kể cả vỉa hè, xe
gắn máy, mô tô đều gắn hai biển số trước và sau. Nhà chung cư xây dựng từ năm,
sáu tầng trở lên. Giống hệt chung cư Rạch Miễu-Phú Nhuận ở Sài Gòn ,phòng nào
nhìn ra mặt đường đều cơi nới chuồng chim,
chuồng cọp, lưới rào kín phơi quần
áo, trồng cây kiểng.
Ở
tầng một chung cư gần cửa khẩu nước bạn, một poster nữ diễn viên Hàn quốc Lee
Young Ae kéo dài suốt một dãy tường, chiều dài chừng mươi thước, bề cao 4, 5 thước, trông thật bắt mắt vời nét kiều diễm rất ư lộng lẫy! Chẳng
biết dòng chữ Hán quảng cáo cho bộ phim nào đó đang được chiếu ở đây, diễn viên
hàng đầu Hàn quốc được khán gỉa khắp châu Á mến mộ qua Nàng Dae Jang Kum chăng? Đối diện bên kia, chú Ba mặc may ô, quần soọc hệt như đang ở Chợ Lớn xuống xe, khóa ba gác đạp vào trụ điện bằng sợi giây lòi tói mảnh dẻ -đi bộ
vào phía trong, đi khá xa còn ngoảnh lại
nhìn xem chiếc xe còn đó không?
Sao
chú Ba Tàu này giống hệt thằng
tôi năm 1957 ở Sài Gòn quá vậy? chỉ khác tôi khoá chiếc xe đạp cà tàng mà thôi. Dựng xe đạp vào cột điện trên vỉa hè đường Nguyễn Trung Trực,
đối diện trước mặt Nhà hàng Thanh Thế ( Saigon 1) tôi
đến quán Kim Sơn -góc Lê
Lợi-Nguyễn Trung Trực- chọn bàn sát lề nhìn ra đường, ,vừa ngồi
xuống đã có người bưng để ly cà phê đến trước mặt. Uống xong, thả bộ đến trụ điện lấy xe đạp – bất ngờ có tiếng ai gọi,
tôi quay lại - hoá ra thằng bạn khá thân đồn trú ở Lục tỉnh, rủ tôi đi Cần Thơ
ngay tối nay. Ấy thế là đi luôn, tôi chẳng hề bận tâm nghĩ đến chiếc xe đạp liệu có
còn, khi về?
Sau ba đêm, bốn ngày thì phải, tôi trở về
lững thững đến trụ điện, hé mắt rình, vẫn nhìn thấy chiếc xe đạp khóa ở cột điện
như chờ đợi chủ đón.
Loanh quanh thăm vài siêu thị ở Hà Khẩu, vợ
chồng tôi tậu chiếc sắc du lịch loại tốt
và chiếc đồng hồ báo thức loại xịn-cũng phải cảm ơn cán
bộ hướng dẫn mặc cả tới lui bằng tiếng phổ thông mới mua được giá rẻ.
Cảm tưởng sau khi thăm siêu thị Hà Khẩu,
tôi nói với vợ, em vào chợ An Đông giống
hệt thôi, được cái mua nhiều gía bán sỉ rẻ nhiều, một tá dù xếp các cô bà
thường dùng khỏang trăm ngàn tiền việt..
Đến giờ ăn trưa, chúng tôi tập trung lại đi
bộ đến ngôi nhà rất bề thế hai, ba tầng lầu.Trưa nắng chang chang, quạt điện
chạy vù vù hỗ trợ máy lạnh vẫn không ngăn được giọt mồ hôi lăn tăn túa trên mặt khách. Đa số người
phục vụ là nữ, ăn mặc rất mốt, biểu hiện phong cách riêng nhà hàng. Cũng chẳng
biết tên nhà hàng -toàn chữ Hán. Những chiếc bàn tròn giống hệt Chợ Lớn bầy
trên mặt bàn có thể xoay quanh đến trước mặt mỗi đĩa muốn chọn- thức ăn thì nhiều, trang trí đẹp mắt, lạ - món cải bẹ xanh sào nấm nước sốt - với tôi ,món
ngon nhất- rồi gà nướng Tứ Xuyên, vịt quay Beijing
lại được ông bà Đặng và bạn bè người
Hoa thi nhau gắp. Cả một hội trường ở
lầu hai dùng làm phòng ăn được xé lẻ ra ngăn thành phòng nhỏ
tách biệt phù hợp với số khách.
Gia đình Nimbus chiếm bốn bàn tròn,
mỗi bàn mười thực khách.
Chúng tôi có cảm tưởng như đang ăn
ở nhà hàng ăn quen thuộc quận năm Chợ Lớn cũng không sai, nếu nữ phục vụ ở đây
biết tiếng việt. Từ lầu hai bước xuống đường, tôi ngoái cổ nhìn lên, chỉ thấy
có bốn máy điều hòa; vậy làm sao chẳng nóng cho được, một khi thời tiết ngoài
trời ở Hà Khẩu ngày 13 /10 là 34 độ C.
Lên xe trở về Yên Bái, đồng hồ chỉ 13 giờ
30 chiều., thời tiết mát dịu, không nóng như trên đất bạn. Anh Năm cho biết, xe
chạy nhanh nhất cũng phải năm , sáu tiếng mới tới khách sạn Đồng Tâm. Lần này,
tôi được thỏa thích ngắm cảnh thiên nhiên, nhìn từ bên trái, này là cây bương
(một
loại nứa, thân lớn, cao tới 10 thước trở
lên thường dùng làm cột nhà), nứa,
giang, tre, vầu chen chúc mọc trên đồi thoai thoải của miền trung du.
Yên Bái nổi tiếng với chè Suối Giàng – người Mèo ( nay: Hmông) hái chè Shan,
cây hàng trăm tuổi , có cây lớn hai
người ôm, xum xuê, lá to, xanh thẫm mọc trên núi đá đầu ngọn suối Cửa Nhì, dưới
chân núi huyện lỵVăn Chấn - chè mang nhãn hiệu Suối Giàng nổi tiếng độc đáo có
một không hai.
Dưới kia là suối, nước trong vắt, nhìn thấy
cá lia thia bơi trên cài ( cài: suối
có đá sỏi) nhìn cảnh nuí rừng, sông suối thì lòng càng háo hức hơn, mong sao
đến sớm
còn đi dạo thăm cảnh cũ ,tất nhiên người xưa thì không còn. Quả thật hy vọng quá mỏng manh ,bởi chỉ nhìn cái lắc đầu lái xe Nguyễn Văn Năm, biết là không thể!
Cô Huyền trao chìa khóa phòng 201 lầu một
Đồng Tâm – khách sạn lớn bốn năm tầng
xây dựng trên một triền đồi thoai thoải , phiá trước có vườn- công viên trồng
hoa nằm trên đường Yên Bình giáp ba mặt đường. Phía sau Ngô Gia Tự là Bưu điện
,phía trước đường Đinh Tiên Hoàng dẫn
tới Nhà ga Yên Bái, phía trước cũng là quảng trường gần dẫy khu Trung tâm thương
mại, Đài Truyền hình… đi năm phút đến ngân hàng, trung tâm văn hóa ,10 phút đến
các trạm xe búyt, nhà ga… thì đúng khách
sạn này
được xếp hạng ở trung tâm là đúng .Thật ra, tôi đã đi đến những nơi đó
đâu, chỉ đọc và nói vanh vách theo tờ rơi in đẹp mà thôi.
Tám giờ tối ăn uống xong lên phòng nằm. Giờ
này, rủ vợ đi chắc không thích hợp- đề nghị
chỉ một mình ra phố tìm cho bằng
được nhà thương, nơi mẹ sinh ra tôi vào
đêm mưa gío, bão bùng, nước lũ ngập vào nhà thương dăm ba ngày chưa rút kịp. Xuống
sảnh trước, lội bộ ra cổng, đèn đường chiếc
tỏ, chiếc lu; cứ ngữ này đi bộ hẳn không mấy bảo đảm an ninh. Dạm hỏi một trong
hai anh xe ôm neo trước cổng trên đường Yên Ninh, đường Yên Thái nằm ở khúc
nào? Tìm được đường Yên Thái là tìm thấy
nhà thương Yên Bái- tiểu sử trích ngang đã chẳng ghi: Sinh 1932 ở Yên Bái- Nhà thương Yên Thái sao? Biết hỏi ai bây giờ,
tốt nhất là hỏi xe ôm.
-Này anh, chạy xe lòng vòng hai tiếng bao nhiêu?
-Ba chục nghìn.
Ngồi lên xe -tôi chỉ đường:
-Đến Bệnh viện Đa khoa Yên Bái trước, rồi cầu Âu Lâu, sau chót Cà phê Nhân đường Điện
Biên.
-Đây có hai bệnh viện, một Bệnh viện Đa Khoa tỉnh Yên Bái , hai Bệnh viện Thị xã, bác đến
chỗ nào?
- Bệnh viện nào nằm trên đường Yên Thái?
-Cháu không
thấy tên đường này, nếu có thay đổi-, khi đó cháu chưa được sinh ra bác
ạ.
Nghĩ trong bụng, chắc Nhà thương Yên Bái
xưa- tiếp quản trở thành Bệnh viện tỉnh , caserne
tây ở Việt Trì là doanh trại quân đội, giống hệt khách sạn Victory
Hôtel (Sài Gòn 3 dành cho nhân viên CIA Mỹ, sau 30 /4/75 - nhân
viên KGB nưóc bạn thoải mái ngủ nghỉ - chuyển sang thời kỳ đổi mới lấy lại tên cũ Victory Hôtel - quán ăn, nhà nghỉ dành cho khách du lịch rủng
rỉnh xu hào.
Anh chạy vèo trên đường phố như làm xiếc, còn
hơn Kiều Liên Sơn chở tôi đêm nào ở Hà Nội , xuống Hoàng Mai thăm Tạ Vũ. Tôi
thấy ớn, bảo giảm ga để tôi còn ngắm cảnh đêm.
-Bác ơi, muốn ngắm cảnh đi vào ban ngày, lỡ
đi tối thì đèn phải sáng như Hà Nội mới sướng, ở đây đèn đường tù lù mù thế này
thì ngắm cảnh cái nỗi gì?
Khi
đến Cầu Âu Lâu, anh hỏi có nghe thấy
nước chảy róc rách không-cầu Âu Lâu đấy
bác ạ. Thả tôi xuống đứng trên thành
cầu nhìn xa xa, trời tối như bưng , nhớ
đến bài hát năm 1945:
Đêm
tối qua trời tối đen mịt mù/ trông về
Nam
( đổi
thành: Nghĩa Lộ) ôi biết bao thảm thương - thì ngắm cảnh,
tìm đường cái nỗi gì ?
-Anh đưa tôi trở lại
Bệnh viện Đa Khoa nhé!
Đến
nơi anh xe ôm hỏi tôi có xuống không?
Bước
xuống, nhìn vào, một tòa nhà hai tầng, lối xây cất cũ kỹ chắc xưa kia chưa
bị bom Mỹ phá hủy, người ra vào
khá đông, kẻ cầm phích đỏ Trung
quốc thăm vợ đẻ, người khác xách túi đựng thức ăn cho bà xã-đích thị đây là nơi
tôi đã đưọc sinh ra ngày 10 tháng 7 năm 1932.
Tôi chụp mấy pô hình- có một
anh xe ôm trẻ tuổi ngồi trên yên xe Honda-
mặt láu cá, ăn nói bậm trợn, tay cầm
điếu thuốc cháy dở.
- Ê
mày bắt được khách sộp hả, Hà Nội hay việt kiều Mẽo?
Phản
ứng tự nhiên, để anh xe ôm này chở vào
đại lộ không đèn , thì quả thực là phiêu!
-Chở tôi về Café Nhân, anh biết quán này
chứ!
- Dạ biết, trên đường anh kể:
- Đại lộ Nguyễn Thái Học lớn nhất, rồi Hoà
Bình, tới Điện Biên, ta đi qua cho biết bác nhé. Thế bác là khách thành ủy từ Hà
Nội lên?
-Sao biết?
- Sao
không chứ, khách sạn Đồng Tâm thành ủy làm kinh tế , sang trọng đẹp nhất
thành phố này.
-Sai bét, tôi phó thường dân thôi.
- Cháu không tin , du khách lên đây ở nhà
nghỉ đỡ tiền; còn bác thuê phòng to
đùng, tất y bác có nhiều Bác * rồi- nói thật
nhé ,cháu không tin đâu?
-Sao không?
-Khách du lịch thăm Yên Bái ban ngày, còn bác đi đêm chẳng khác gì vi
hành.
-Bây giờ làm gì còn vua với
quan mà vi với hành?
-Ấy cháu xem phim Trung quốc mới suy luận thế
thôi.
Khi xe chạy trên đường Điện Biên, tôi bảo
xe ôm thả xuống Cà phê Nhân, và nửa tiếng
sau lại đón .
Vào quán , duy một tôi là khách, gọi cà phê phin đen, mặc áo sọc đen, qua quãng đường
tối đen, số đen chưa biết có tìm đúng
Nhà Thương Yên Bái nằm trên đường
Yên Thái không đèn tối đen như mực không đây? Dầu vậy, tôi cũng chụp được vài tấm, và được nhìn thấy nơi tôi sinh ra
trước đây 75 năm –lại nhớ đến Nguyễn Khôi, nhà
thơ- cựu quan chức thủ đô- cũng được sinh ra ở Yên Bái:
-Bác
và tôi, chúng ta đều được sinh
trưởng ở Yên Bái, bác trước sáu năm- như ông cụ tôi đoán vận mệnh : tương lai khá nhờ sinh ra ở Yên
Bái, và thành đạt ở nơi không phải là Yên
Bái- thực hư chưa biết có
điều về thăm Yên Bái lần này vào ban đêm, và nhớ lại tôi được sinh ra ban ngày.
----
* giấy bạc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, in hình Chủ tịch Hồ Chí Minh - mặt trước.
Và, Tố Hữu cũng có câu: Bác ở đó lòng con yên
tĩnh.
SÁU : YÊN
BÁI- ĐỀN HÙNG-PHÚ THỌ- HÀ NỘI .
Lên
xe ca rời Yên Bái, hướng dẫn viên thuyết minh chương trình trong ngày: thăm Đền Hùng-Phú Thọ, cơm trưa Việt Trì, đến
thủ đô sớm viếng Nhà sàn Bác, chùa Một Cột, Trấn Quốc- cơm chiều: ăn bánh
tôm Cổ Ngư, tối ngả lưng khách sạn Phùng
Hưng-Đường Thành.
Vậy
là khách sạn Phùng Hưng nằm trên phố
Đường Thành (xưa kia : Rue Citadelle) thuận
tiện hơn cả Volga- đây mới đúng trung
tâm phố cổ, chỉ cần đi bộ dăm bước sang
phố Hàng Bát Đàn ăn phở gia truyền nổi tiếng ngon -mà chủ hiệu lại
coi thường khách- qua phố Hàng Điếu mua bột sắn dây hảo hạng nhà tổ trưởng số 4, thêm dăm bước nữa đến số
10 thăm cô Ninh, em gái Kiều Liên Sơn. Năm 1994, Kiều đưa tôi đến đây, lúc cô
đang quấn khăn đại tang chồng, khóc lóc
sướt mướt, tưởng như chồng qua đời thì
tương lai mẹ con cũng chết theo !
Hà Nội chưa có nhiều nhà cao tầng chọc trời
như bây giờ- hình như tôi chỉ nhìn thấy
hai toà nhà to đùng, một cái
trụ sở Ủy ban thành phố, cái kia
xây theo kiểu lô cốt cuối phố Đinh Tiên Hoàng, cạnh dốc lên Hàng Đào- xe ô tô
ít hơn xe gắn máy, và xe gắn máy lại rất ít so với xe đạp, nhiều nhất xe xích lô đạp, thấy khách lạ là
gọi í ới mời lên xe dạo phố phường .Chú Hai ở Sài Gòn mới ra ư, nếu thích tươi
mát có tươi mát, thích cà phê ôm có ngay
phục vụ, chú muốn gì có thứ đó tất tần tật - nhưng với điều kiện cần và đủ đầu tiên- là tiền đâu lại nhiều mới đạt tới đỉnh cao sảng
khoái.
Lần
đầu được nghe anh xích lô trạc ba mươi ngoài ,để ria mép, ăn nói liến thoắng,
tí ti láu cá, tí ti manh mún, tí ti sành đời, tí ti trình độ, tí ti dạy đời , tí ti khoa
trương… lại có tí ti a-mua, tí ti la hen kiểu Trần Dần - trước kia chàng này kiêu ngạo vung vít phê thơ Việt
Bắc kết cuộc chẳng ăn giải rút gì, chỉ rước bại
hoại theo sau . (un peu: tí ti-
l’amour: tình yêu- la haine: thù hận- tiếng
tây).
Giả
thiết thôi nhé , chàng xích lô ba hoa này gặp tổng biên tập Nguyễn Ngọc Lan tạp chí Đứng Dậy sớm hơn, hồi đất nước mới thống nhất, anh ta sẽ giúp tác
giả khỏi mất chức ,vẫn có thiên phóng sự
người thật việc thật về Hà Nội khoảng
cuối 75 ,đầu 76.
Thời đó,
ba bố con tôi đi Đà Lạt thăm ngoại, mừng húm có Giấy đi đường , ra đường ngủ vật vờ tại bến đậu Lê Hồng Phong, chờ
số thứ tự mua vé – có một vị khách Tân
gia ba đọc cho nghe:
-Chú Hai ơi, biết vua Hùng Vương là ai không nhỉ? Vua Hùng
sống lại về Phong Châu cũng giống con
cháu bây giờ thôi, đi đường phải được ủy ban cấp phép. Chẳng biết kẻ sĩ nhát gan nào giấu
mặt tỉ tê ngâm nga :
- Hùng
Vương tựa gốc bồ đề/ Chờ xin giấy phép để về Phong châu/Trời mây ảm đạm một mầu…
(còn ba câu sau
quên tịt).
Lúc
đó nhà báo cỡ tổng Lan, mới được đi đây đi đó bằng máy bay ,cùng phái đoàn miền
Nam
ra tham quan thủ đô là số một. Trong lúc
mọi quan chức ăn , ngủ, họp hành theo lệnh trưởng đoàn – thì cựu linh mục Dòng Chúa Cứu Thế ,vốn có máu dân
chủ truyền thống phương tây, thích làm theo ý riêng- tách đoàn lẻn vào chợ Đồng
Xuân-Bắc Qua - thăm dân cho biết sự tình . Về lại Sài Gòn viết ngay cái
gì nhìn thấy tận mắt, nghe được tận tai , hiểu, cảm được từ bộ óc bén nhậy - cộng thêm suy nghĩ riêng đều viết ra giấy trắng mực đen công bố huỵch toẹt. Bài phóng sự tổng biên tập
Đứng Dậy chỉ sống được được vài hôm, dư luận xôn sao , bàn
tán ồn ào - sếp quân quản ban lệnh hạ ngay bảng hiệu
:- cất chức tổng biên tập Nguyễn
Ngọc Lan báo Đứng Dậy tức thời, chuyển
sang làm thinh ở báo Ngồi Xuống - tout
de suite! (ngay lập tức).
Có một sáng qua hẻm Tân Phước, tôi lại bắt gặp lão niên tóc đen nhánh, thân gầy xác ve, quần
áo chỉnh tề, đôi mắt tinh anh dưới cặp kính
cận chăm chú đọc báo, bút đỏ gạch dọc ngang, đôi lúc đứng dậy đi qua đi lại,
khi thì lại gần lồng sắt châm lúa
vào hộc cho hai con két [vẹt] biết nói
tiếng người.
Rủ đi
café sẵn sàng leo lên ngồi , thân dáng cò bay nhẹ tênh- đôi khi tôi nghi ngờ, ngoái cổ lại nhìn-
cảm ơn Chúa – chàng vẫn còn đấy, hai tay nắm càng xe rất vững an.
Có một lần đi cùng Ý Nhi , Hoàng Vũ Đông
Sơn, Nguyễn QuốcThái đến viếng mẹ vợ lão
niên qua đời. Thâm tâm có mục đích hoà giải sự bất đồng giữa X…,biên tập viên
cũ - thì tổng Lan bắt tay X… hờ hững , giữ vững quan điểm kẻ hại ta không thể người ngoài- và nhắc
khéo tôi: -lần sau ông đến, xin đừng cho X… bám. Trước khi nhắm mắt , vẫn
không quên dặn vợ con: Hãy đóng nắp quan tài lại, khi nhìn thấy mặt
X…
.
Có một buổi tối năm 2000, chàng lại ngồi phía sau xe ôm chặt lấy tôi tôi phóng
vù vù quanh kênh Nhiêu Lộc từ quận một ( nhà tôi) qua quận ba , sang quận Phú Nhuận lẻn vào ngõ sau
, mắt la mày lét như kẻ trộm sợ ai theo. Đưa tay
thọc ô vuông cửa sắt ,gạt chốt cửa , đi vào quen thuộc hệt chủ nhà . Gặp Thực, cậu trao ngay một bó sách đâu
chừng mười cuốn Chủ nhật hồng
trong mùa tím, tác giả ôm
vào nách thoát cửa sau Hội thánh Báp Tít Ân điển- ra đường hẻm.
Chẳng có ai theo phía sau, chàng cười thật tươi:
- Ông ơi, con trai mục sư Lê quốc Chánh can đảm có thừa , dám nhận in thuê hàng nghìn cuốn mang danh nghĩa NXB Tin Paris . Ông nhắn cậu con ông mục sư chở
thẳng về địa chỉ … Tân Phước, có gì tôi
chịu trách nhiệm. Sách mình viết về tôn giáo, xã hội, không phạm qui, chẳng có gì mà sợ! Sách đẹp như in offset ,chỉ dân
trong nghề cầm sách lên ngửi mùi dầu hôi mới phát hiện in lụa thôi.
Và một
đêm sau cùng- cuối tháng 2/2007 -
đôi mắt tinh anh khép lại, tiếng nói hào sảng tắt hơi, Chúa giơ đôi tay
bồng ẵm tôi tớ Ngài về chốn vĩnh hằng.
Một rừng bè bạn, kẻ yêu, người
ghét, kẻ bạn, người thù , kẻ buồn thật
lòng, kẻ lau nước mắt cá sấu- có vị khóc kẻ qua đời đâu đó dăm bẩy câu, kể lể
bản thân thì dài dằng dặc rễ rau muống!
- Ngày
mai đưa tang, anh có đi tiễn anh Lan không? Hôm ấy cha Ý Vinh Sơn sẽ đọc điếu
tang đấy.
Cô Nguyễn Thị Chiên ( cựu nhân viên báo Đứng
Dậy) nói vậy. Quay lại nhìn, mắt cô đỏ hoe, đầu chít khăn tang, tôi nhận mảnh giấy trắng có bốn câu :
Một mai đến
tận đường cùng
Hỏi chiều sương xuống hỏi sương hỏi chiều
Bao nhiêu lòng kể là nhiều
Thập hình ngả bóng càng chiều càng xa
NGUYỄN
NGỌC LAN
Sắp tới Đền Hùng, nhìn trước mặt có bảng
chỉ dẫn- Khu Công nghiệp Thủy VânViệt Trì 1 km -chạy thẳng Đền Hùng còn 4 km
nữa. Nhà cửa xây san sát ba bốn tấm trở lên, nóc nhà nào cũng chóp, xe cộ đủ loại, container, xe tải, xe con,
xe khách 45 chỗ, xe chở hàng – nhìn là biết đời sống cao lên, dân thị xã sống sung túc.
Lần đầu tiên đến thăm Đền Hùng, dầu nguyên
quán Việt Trì- thủ phủ tỉnh Phú Thọ thật, nhưng từ xưa đến nay,tôi chưa một
lần biết đền vua Hùng ở chỗ nào. Thời
còn nhỏ, theo ba đi tàu hỏa từ Việt Trì
lên Trường Tiểu học Động Lâm- đến ga Thanh Ba hay Đoan Thượng , tôi
không còn nhớ rõ - thì xuống .
Một
đoạn dĩ vãng tuổi thơ sống lại khoảng thời gian 1942, 43 gì đó, buổi chiều xếp
hàng vào lớp học là y như tiếng động cơ
ầm ầm rền vang trên bầu trời, lại máy bay Mỹ thả bom doanh trại lính
Nhật bản. Chúng tôi được lệnh của thầy tổng giám thị nhảy xuống tăng xê
trú ẩn (tranchée- abri) nấp, máy bay đi khỏi ,xếp hàng lại, quần áo lấm lem
đầy cát, miệng vẫn ong ỏng Maréchal , nous voilà !, cứ làm như là thông chế Philippe Pétain đội nón kê-pi
(képi) đứng lừng lững trước mặt , lấy tay xoa đầu khuyên họs sinh
an nam ngoan ngoãn học hành. Tôi vốn nghịch ngợm- sau
mỗi câu Maréchal nous voilà !, tôi nối
điệu mais nous ne mangeons pas caca.
Bạn học cười ồ, tổng giám thị chạy lại tra hỏi, cậu nào nói gì, ra khỏi hàng
được giảm khinh nhiều lắm chỉ ăn vài chục tay thước thôi- nếu không tự thú thầy
hiệu trưởng khám phá ra, tội này có thể bị
bắn bỏ, vì đã hỗn xược với đại thống chế.
Tự
tin con thầy hiệu trưởng thì sẽ không sao, tôi giơ tay ra khỏi hàng,
sau đó bị nằm trên băng ghế dài, mỗi lần
tay thước đét vào mông, không dám kêu con đau quá, mà chỉ cắn răng chứ không
dám hít hà – về nhà có thể bị trận đòn thứ
hai không chừng!
Khi ấy, ba tôi thuê căn phòng nhỏ gần
trường, hai bố con đi chợ nấu ăn lấy. Còn nhớ như in, ông nấu cơm rất ngon, hột
cơm chín không được phép nát quá, không khô quá, gọi cơm con
ong trộn mắm tôm rang với thịt ba
chỉ- thì chẳng còn gì ngon hơn nữa!
Có một
lần đang ăn cơm nghe thấy tiếng máy bay Đồng minh , lại nhẩy xuống tăng xê trú ẩn, tay đang
cấm miếng cơm cháy óng ánh vàng phết mắm tôm, cứ cho bom rơi trúng hầm chết
chẳng có gì tiếc! Ba tôi kể, lính Phù
tang rất ghét cơm cháy ,thì nhất định chúng chẳng biết gì nghệ thuật ăn uống
cả, làm sao thuyết Đại đồng Phát xít Nhật làm bá chủ Đại Đông Á được! Rồi ông cười thật ròn, nụ cười hiếm hoi thấy nơi ông- với tôi, ông lại càng nghiêm khắc và tần tiện từng nụ cười ,
lời ăn, tiếng nói. Mỗi lần ông đưa tờ năm
cent tiền giấy- có ảnh bà đầm xòe
mua thuốc lá , mấy phong bánh đậu xanh, không cần nói ra lời, ông chỉ lấy hai ngón tay đưa lên miệng, sau giơ
tay lên như đang cầm chung trà- là biết ngay ông sai đi mua thuốc là đen hiệu Job cùng năm phong bánh đậu xanh.
Phải chọn bao thuốc lá nào thẳng thớm, không méo mó, bánh đậu phải lấy nguyên phong ; rồi bẻ đôi
lấy một nửa, năm cái. Thường ra, mỗi lần như thế, ông cho tôi một phong, miệng
nuốt nước bọt thèm thuồng bóc ra cho vào miệng, sao ngon đến vậy- nhưng không hiểu
sao tôi lại đem cất để dành.
Và một buổi tối chiều mưa, ăn cơm xong, ông
ước ao giá có phong bánh đậu xanh tráng miệng thì tuyệt!
Tôi
vào bếp mở tủ lấy phong bánh đậu ông cho
bữa nọ, đem ra đưa hai tay với lời thưa :
-Thưa
ba ,con không thích ăn bánh đậu xanh cho
lắm, con xin biếu ba, mong ba nhận
cho con vui!.
Lúc đó, giản dị lấy lòng bố sẽ đỡ phải ăn
đòn hơn, vì ông đánh ,có trận thừa sống thiếu chết, nhẹ thì được nằm lên băng
ghế dài ăn hàng chục chiếc roi mây, sau đó cho phép đứng dậy, xin lỗi ba với
lời hứa không tái phạm.
Mỗi lần trở về nông trại Làng Bữu, mẹ hỏi
có bị ba cho ăn đòn không, tôi vẫn lắc đầu xác nhận không- dạo này ba thưong con lắm!.
Có một lần , thầy giáo X… ( tôi quên tên) ở xã Hiền Lương xin hoán chuyển về trường
Động Lâm và ba tôi lên trên đó xem
trường ốc ra sao, dặn tôi trông nhà cẩn thận, không được đi đâu, ai hỏi không mở cửa, ở trong nhà hỏi
vọng ra, phải lễ phép xin ghi lại phương
danh khách đến giờ nào, ngày nào, lý do
đến, rồi về trình lại.
Trời mưa như trút, gần tối vẫn chưa thấy ba về, vừa sốt ruột vừa
sợ, tôi đành liều khóa cửa đi tìm. Gần
đến trường Hiền Lươn, có một chiếc cầu khỉ ,chỉ có một cây gỗ bắc ngang, dưới
kia nước chảy xiết- tôi đành liều bò qua, hai tay truớc bám vào cây cầu, hai
chân sau nhích từng bước hệt chú chó - nhờ ánh sáng lễ hội trống chiêng từ Đền Mẫu
Âu Cơ gần đó. Qua được cầu, đưa tay lau mồ hôi giỏ giọt trên trán, vì quá sợ
hãi- chẳng hiểu ba tôi đang ngồi dự tiệc nhìn thấy. Ông gọi vào, chẳng hỏi han
gì, giáng mấy cái tát nổ đom đóm mắt. Tôi đỡ đòn ôm mặt, không dám khóc. Và
lòng đầy căm giận. Ba tôi lại trở lại
bàn dự tiệc tiếp các bô lão chức sắc trong đền-
hàng năm sau tết ta vào ngày mồng bẩy giêng- xã Hiền Lương gióng chuông trống, mổ lợn gà, đãi tiệc thật lớn, kỷ niệm Mẫu Âu Cơ đưa
50 con trai lên rừng, còn lang quân 50 xuống biển.
Lợi
dụng thời cơ, tôi lẻn ra bến đò huyện Hạ Hoà xuôi Làng Vần-
huyện Trấn Yên-Yên Bái, rồi qua Đại Lịch về nông trại Làng Bữu. Chỉ nghĩ được gặp lại mẹ , tôi bất chấp gian
nguy dọc đường, dầu hổ báo vẫn thường
xuất hiện cũng mặc, tôi đem theo mấy nhánh
tỏi soa vào mũi thì cọp sẽ không thể ngửi
thấy hơi người, tự nhiên có sức mạnh lạ kỳ. Giả thiết lần này về nhà bình an, tôi sẽ xin mẹ cho ở nhà không theo ba nữa.
Vừa bước xuống bến, có người nắm cổ áo giật
ngược , tôi quay lại , thì ra là ba.
Giật tay ông, định tháo chạy, không kịp nữa – tôi đang chắc mẩm thế nào
tối nay sẽ được ăn trận đòn thừa sống chí chết đây- nhưng ông nói rất dịu dàng:
-Ba xin lỗi để con ở nhà một mình, trời mưa
gió như thế này con sợ là phải. Thôi ta về, ba sẽ không đánh con đâu, đừng sợ.
Đó là kỷ niệm cuối cùng với ba- một lần duy
nhất ông có lời nói nhẹ nhàng, vuốt đầu con, ôm chặt vào lòng nựng nịu của đêm
nào mưa gió ở xã Hiền Lương, huyện Hạ
Hoà- Phú Thọ.
Vào năm 1946, một buổi chiều nghe tin đoàn
quân Pháp sắp tràn về xã Thượng Bằng La ,
rút sang Vân Nam – chiến dịch vườn không nhà trống , dân chúng tản cư, người
chạy vào rừng, kẻ theo đường mòn ra xã Đại
lịch, Làng Vần –Trấn Yên trốn chạy. Và từ ngày đó ba tôi bị cầm
giữ, người ta sợ ông giáo Đỗ Văn Đức làm thông ngôn cho quân
viễn chinh Pháp chăng?
Tôi chụp rất nhiều ảnh Khu di tích Đền
Hùng, Bảo tàng Hùng Vương- chúng tôi và
bà già trầu Nam Bộ đi loanh quanh trong khu vườn cây cối um tùm, màu xanh mướt
vài khóm cọ mới trồng – và Phú Thọ vốn nổi tiếng nhiều đồi cọ - dân trung châu
Phú Thọ, Yên Bái thường dùng lá cọ lợp nhà, lá cọ cuốn dầy hơn lá cọ sẻ, lợp
mái nhà cọ cuốn có thể trụ được dăm mùa
mưa mới phải lợp lại.
Nông trại gia đình tôi ở Làng Bữu, như đã
nói, có đồi cọ cao vút mười mấy thước,
chim yểng về làm tổ hót líu lo mỗi chiều
đất lành chim đậu. Cho đến một buổi sáng
đầu xuân, chúng bay đi, chiếu không về lại tổ - giữa năm ấy cuộc kháng chiến
bùng nổ. Và chủ, tớ, vợ, chồng, con cái
thất lạc nhau trên đường trốn chạy, phong trào tiêu hủy kháng chiến,
chấp hành nghiêm ngặt lệnh
nhà bỏ trống, vườn không.
Và lần này, chúng tôi về lại Đền Hùng thật
thoải mái, tự do, đến không cần báo, đi
chẳng ai hay, không còn nạn giấy
phép trước, đi đường sau- nên thông cảm thời khó khăn, đến đỗi dân gian râm ran
câu vè phúng thích ,đến như vua Hùng về Phong châu không phép cũng bị đuổi về .
Bữa cơm trưa tại nhà hàng Lồng Đỏ- 2195 đường
Hùng Vương- đại lộ thênh thang của Khu Công nghiệp Thủy Vân-Việt Trì- thật vừa
miệng. Số nhà mang bốn hàng số, tôi ghi
đủ-chỉ chứng tỏ trục lộ không nhữngdài
tăm tắp, hai làn đường rộng mênh mông
chiều ngang mấy chục thươc, khác xa đường cách mạng thêng thang tám thước-nay
đã lỗi thời. Xe hơi nối đuôi nhau chạy
khiến người muốn băng qua đường vất vả hết nhìn xuôi, lại nhìn ngược, đôi mắt láo liên
canh chừng tìm khoảng cách an toàn tối
thiểu bảo đảm sinh mạng khỏi què, cụt, có khi mất mạng như chơi. Còn ngước mắt nhìn lên, phải rướn mỏi cổ chưa
thấy tầng chót lâu đài khách sạn - cảm
tưởng hệt anh nhà quê lần đầu ra phố được
mô tả trong truyện La Lettre Persanne.
“Và cô
Thảo của cháu ơi, cháu đã về nguyên quán, hệt như tên mất gốc, bật rễ chẳng tìm thấy nhà ông
bà nội – vì Việt Trì hoàn toàn đổi mới,
với cháu - một thành phố rất ư xa lạ !
Cô Thảo của cháu ơi, cháu định viết một lá thư ngỏ gửi kèm cùng những tấm ảnh chụp khu
Công nghiệp Thủy Vâ n Việt Trì-Phú Thọ, gửi bà Đỗ Thị Thảo hiện đang sống vật
vờ trong khu nursing home nào đó ở Vancouver. Chồng bà qua đời, bốn trai, một gái ( ba
trai thành đạt, hai kiến trúc sư, một thạc sĩ khoa học, trai út công nhân , gái bị tâm thần nhẹ-nghề: baby-sit. Còn trưởng nam sang Hoa Kỳ trước 75, có 3 căn nhà cho thuê dài hạn- dành một phòng cho bố mẹ
từ Việt Nam
qua, đầu tháng không quên thâu tiền trọ
400 đô la/ tháng. Bà cụ ấy nay sống thui
thủi nơi trại dưỡng lão, không con cái
thăm nom – ai hỏi , chỉ lắc đầu: -tôi vốn dĩ tứ cố
vô thân, sang Mỹ theo chương trình
nhân đạo, chồng qua đời , con cái thì không, chẳng họ hàng thân thích , nào có
còn ai đâu mà nương với tựa?”
-Anh Năm ơi, xe sắp qua ranh giới Việt Trì
phải không ? Cảm ơn thật nhiều!
Chẳng hiểu tại sao tôi cảm ơn, và cảm ơn ai-
cảm ơn cái gì - tại sao cảm ơn ? chẳng ai
hiểu kể cả bác tài. (lẽ đương nhiên như
vậy rồi!)
14 giờ 15 đến thủ đô.
Nắng còn gắt giữa một chiều rực rỡ.
Chụp một bức ảnh thứ hai toàn đoàn trước
Lăng Bác - một phó nháy lém lỉnh, láu
cá bậc thượng thừa, chốp thời cơ thỏa
thuận rất nhanh với hướng dẫn viên thực hiện bài bản chớp nhoáng. Tất cả anh chị em ,cô
bác tập trung tại đây xếp hai hàng, cô
bác nhiều tuổi đứng sau, các vị trẻ tuổi
hoặc già gân ngồi hàng trước. Đứng hay
ngồi xin cô , bác, ông, bà, anh chị luôn luôn ở tư thế vui vẻ, đời người chẳng ai
tắm hai lần trên cùng một dòng
sông, vậy quí vị đây sẽ chẳng bao giờ được chụp tấm ảnh thứ hai đông đủ ,
vui vẻ, hào hứng như buổi chiều ngày 13/ 10 trước lăng Chủ
tịch.
Còn
chương trình vào thăm Lăng không thực hiện được, lăng đang trong thời kỳ tu sửa. Chúng ta khẩn trương thật nhanh để còn có thời giờ
thăm Phủ Chủ tịch, xin nhớ cho-- tự thân đến đây không có cơ hội thăm riêng lẻ -
chỉ phái đoàn hoặc đoàn du lịch mới được chấp thuận đăng ký thăm mà thôi.
Chúng tôi ngồi ăn kem căng tin khu Nhà sàn Bác Hồ, đã nhìn thấy thợ ảnh có
mặt , tay cầm một lô phóng ảnh huơ huơ, miệng giẻo quẹo :
- Mời
cô bác, anh chị nhận phóng ảnh 13x18 thật đẹp, tấm ảnh lịch sử có
một không hai , một lần đến thăm thủ đô và một lần về đem theo tấm ảnh kỷ niệm đã đặt chân lên thủ đô đúng lần thứ 52 Hà Nội được giải phóng. Cô bác nhanh
tay lên, số phóng ảnh được in ra có hạn.
Vừa cầm ly kem vừa chạy tới, tôi xoè tiền ra chốp ngay một tấm. Ảnh chụp rất nét, mọi người vui vẻ, trừ hướng dẫn viên Tua đứng hàng đầu góc bên trái
không cười. Chẳng biết có phải cô vợ rất là Bắc
Kỳ nho nhỏ ,đang bế con nghe di động, sao giờ này chưa thấy phu quân về hoan
hỉ với vợ cùng con ?
Ăn bánh tôm Cổ Ngư phía bên hồ Trúc Bạch,
nơi hoa tiêu John Mc Cain lái B 52 rơi
xuống hồ , ai tinh ý vẫn nhìn thấy tấm
bia lưu niệm giặc lái Mỹ đầu tiên rơi xuống
đây vào… ngày.. giờ, tháng… năm…
Phi
công sinh năm 1935, nếu ông ta ứng cử tổng thống Mỹ khóa tới, có khi lại
trúng cử với mác phi công Mỹ đầu tiên, được ngơi nghỉ an dưỡng
tại Khách sạn Hilton Hà Nội, biết đâu
dân Hoa Kỳ nhớ tới hội chứng chiến tranh
Việt Nam lại dồn phiếu không chừng? (Khách sạn
Hilton: Nhà Tù Hoả Lò nơi giam tù binh chiến tranh}
Di dộng reo, Nguyễn Đăng Khải hẹn thết bánh
tôm tối nay trên đường Thanh niên, có cả
vợ chồng Kiều Liên Sơn, Cao Bá Ân, Nguyễn Gia Vinh. Nhớ đúng năm giờ chiều tại
quán, đến trước ngồi vào bàn đợi chúng
tao. Tao ban lệnh ,đứa nào không đem vợ theo không được ăn bánh tôm Cổ Ngư cùng
vợ chồngTường đâu nhé. Thằng Dzư hẹn cô giáoThái ( vợ nó trùng tên vợ tao) bữa nay thằng Khải thết, em đến dự cho
biết mặt vợ Thế Phong.
Tôi nói với vợ, chúng ta đành từ chối thôi,
chẳng lẽ ăn bánh tôm Cổ Ngư rồi lại ăn nữa được sao?
và Khải
hẹn sẽ gặp lại ở khách sạn Phùng Hưng sau tám giờ tối.
Hướng dẫn viên
mời đoàn du lịch sang thăm chùa Trấn Quốc. Với tôi, bây giờ chùa đã có
bộ mặt khác sau mười hai năm trước - giờ đây nhìn thấy một tháp cao ngất
ngưởng mới xây ,đếm được mười một tầng –
mấy cây cọ gần đó cao vút, nhìn từ ngọn cũng chỉ ngang tầng thứ tám – vậy ra cây cọ lão niên còn thấp hơn đến bốn tầng so
tháp mới. Tất nhiên tháp mới này hấp dẫn
mấy cặp tây đầm, họ đang chen
chúc đứng trước tháp chụp ảnh, chúng tôi chờ mãi mới tới lượt bấm lia lịa vài pô,
vì phía sau còn lô nhô vô số khách chờ. Vậy ra hoà thượng trụ trì viên tịch chùa này được sùng bái đến phát khiếp!
Vợ
hỏi, vậy Petit Đồ Sơn xưa đâu? Là
nhà hàng nổi to đùng dập dềnh trên sông nước đầy ắp thực khách đấy thôi,
tôi lấy tay chỉ về hướng đó. Xa xa hơn còn mấy tòa lâu đài khách sạn năm sao
mới xây trên dốc Cổ Ngư nằm trên hành
lang đê Yên Phụ, vợ tôi nhìn theo khen hoành tráng vô cùng!
Trở
về khách sạn Phùng Hưng nhận phòng, cô Huyền sắp chúng tôi ở lầu hai- tắm xong leo lên giường nằm, thiu thiu ngủ
thật khoan khoái- bỗng chuông điện thoại bàn reo- tiếp tân báo phòng 201 có
khách đợi dưới nhà.
Chắc chắn
vợ chồng Khải- Thái, Ân, Vinh, vợ chồng Dzư (Kiều Liên Sơn) rồi. Hụt
thết bữa bánh tôm, thiếu vợ chồng Dzư – lại có thêm Nguyễn Khôi –Ngã tư Vọng.
Chị
Thái giở gói cốm vòng, nải chuối tiêu vỏ
lốm đốm, chuối này ở Hà Nội không có, vậy có ai nhận ra xuất xứ không?
Vợ
tôi sống ở Đà Lạt khá lâu, nên chẳng lạ
gì chuối dẻo quánh, đem đi xa không dễ
bị dập, để vài ngày thời tiết nóng chuối
vẫn không bị nẳng.
Còn
vợ chồng Dzư-Thái, ( vợ Kiều Liên Sơn cũng tên Thái, trùng tên vợ Khải) thì Khải
giải thích, nó lấy cớ xóm Xuân Phương đi
về trên hai chục cây số, ăn bát cháo lội ba
cánh đồng, xin kiếu- lần sau vợ
chồng Tường ra Hà Nội chơi, gặp lại chúng nó, thì đã chết thằng tây, con đầm
xoè nào đâu mà sợ ? Khải có lối nói dễ xa
nhau, nếu không hiểu bản tính bộc trực, nghĩ sao, nói vậy của Khải bạn bè
chấp nhất dễ giận lẩy.
Trò chuyện hồi lâu, chụp ảnh lưu niệm xong,
một số các cô trong đoàn cùng thưởng thức cốm vòng ngon, dẻo, bùi. Còn hướng dẫn viênTua ngồi thừ một góc, vừa nhai cốm vừa thở ngắn , than dài, chẳng
biết có đúng đang nhớ cô bắc kỳ vợ nho nhỏ, hay nổ
chơi cho khách đỡ buồn ngủ trên xe? Giữa lúc đó, con gái Cao Bá Ân từ Định Công lên đón bố, vậy
thì cuộc vui giải tán cũng vừa rồi – đám bạn học cũ gặp lại nhau, đứa tóc bạc, đứa
da mồi, buồn buồn, tủi tủi, xiết tay nhau thật chặt sau 56 năm dâu bể biến
thiên- vẫn hy vọng đây không là buổi gặp
gỡ cuối.
-Chúc
vợ chồng Tường sáng mai lên xứ Lạng vững an!
Khải nói xong dắt vợ lên tắc xi.
__
* tân: mới / gia:
nhà / ba: ba mươi tháng tư. Trước 75, miền Nam
phiên âm Singapore sang tiếng việt làTân Gia Ba, Indonésia: Nam Dương , Malaysia:
Mã Lai, Indonesia: Nam Dương , Skri Lanca: Tích Lan, Afganistan: A phú hãn vv…
BẢY: HÀ
NỘI-LẠNG SƠN : NGỌN NÚI CHUNG THỦY
Xe qua cầu Chuơng Dương, hướng dẫn viên cho
biết, hôm nay đã là ngày thứ mười một chuyến xuyên việt, gia đình Nimbus đến Lạng Sơn: trưa, tối, ăn ngủ ở
Nhà hàng Đông Kinh, 2..đường Nguyễn Du.
Thay
vì tham quan Núi Mặt Qủy, Ải Chi Lăng, chúng
ta đến thăm chợ Tân Thanh biên
giới, một chợ đầu mối lớn nhất tuồn hàng từ nước bạn về Lạng Sơn. Đề nghị cô bác, anh chị một việc cỏn con thôi, mọi thứ hàng chỉ nên mua một cái; giả thử
trên đường bị kiểm tra đột xuất- điều này ít xảy ra- thuế vụ thấy quí vị mua thứ
hàng nào có hai cái trở lên sẽ bị tịch thu hoặc đóng phạt nhận hàng.
Nào ai đi ngược về xuôi, đến Lạng Sơn- không
đặt chân đến Trung tâm Thương mại Du
lịch Lạng Sơn- thì coi như trăm phần trăm chưa biết gì Ngọn
Núi Chung Thủy- xin nhớ đây cách giải nghĩa hai chữ Lạng Sơn cuả một ông tây nhà báo từ thập niên ba mươi đấy quí vị ạ.
Tua có tài vặt, nói lưu loát hấp dẫn người nghe, tán tụng quốc lộ
1A đi Lạng Sơn láng coóng như giải lụa thắt lưng tiên nữ mượt mà – cô bác, anh
chị ngồi trên xe không hề bị nhồi lên giập xuống- như xe lăn bánh gập ghềnh đường
biên giới Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ.
Vợ tôi nôn nóng mong chờ được về thăm nơi
đã sinh ra cách đây 69 năm- khi ông giáo Nguyễn Quốc Bảo dạy học Thất Khê, bên sông Kỳ Cùng ( một trong hai dòng sông không đổ ra biển chảy ngược về hướng bắc)
huyện giáp gianh tỉnh Cao Bằng.
Qua Bắc Ninh- di dộng reo, chị Hoàng Lương
Thái ( vợ Kiều Liên Sơn) trách móc vợ
chồng anh Khải mời ăn bánh tôm thết bạn
học cũ hủy bỏ- quả tình chúng em có giận
bác Khải thật. Hôm qua, nhà em nằng nặc
bắt em nghỉ ,sẽ dạy bù học trò ngày
khác, ăn sáng xong chúng em ở nhà luôn,
không nấu cơm trưa đợi đến bốn giờ chiều ăn bánh tôm Cổ Ngư khoái khẩu, vì đã
từ lâu chúng em không bén mảng tới nơi
này. Gần bốn giờ chiều, bác Khải điện tới
báo hủy, vì hai bác vừa ăn bánh tôm ở
đây, hẹn lần sau hai bác về Hà Nội sẽ đi
ăn cũng chưa muộn, và lại hẹn tám giờ
tối thế nào vợ chồng em cũng phải có mặt
ở khách sạn Phùng Hưng – Đường Thành .Em bực mình đã đành, thôi không nấu
nướng gì cả, tối chẳng hẹn hò gặp gỡ ai làm gì, em lên giường ngủ. Cháu
Trung kêu đói, thế là bố nó phải lăn
lưng vào bếp nấu cơm ,mãi đến chín giờ đêm mới ngồi vào mâm. Em thật tiếc không được gặp chị , lần
sau hai bác ra Hà Nội nhớ báo cho nhà em
biết, mời hai bác đến ăn bữa cơm rau ở
xóm 4 Xuân Phương. Nhà em đi từ sáng
sớm, mấy hội thơ trong xóm mời bình thơ. Thôi em cúp máy đây, chúc hai bác thượng lộ bình an.
Bây
giờ tôi mới hiểu hết đầu đuôi câu chuyện tối qua vợ chồng Kiều Liên Sơn thất
hẹn.
Qua Bắc Ninh một chập tới Bắc Giang, rồi
Kép- chẳng mấy lúc tới Đồng Mô bắt đầu vào
ranh giới Lạng Sơn. Đa số khách ngủ vùi lấy sức, có thể tối qua đi chơi khuya – riêng việt kiều Đức thì tôi chưa thấy
anh ngủ trên xe bao giờ, anh lăng xăng chạy từ
hàng ghế cuối lên chỗ tôi lấy lại tấm bản đồ, vui vẻ hỏi vợ tôi cần
rượu ngâm mật gấu, cứ cho biết , sẽ có ngay. Đức luôn luôn mang rượu theo, có khi cầm chai
whisky Polignac nhỏ xíu tu một hơi,
lấy tay quệt miệng thản nhiên.Thường ra đến các nơi dừng chân, Đức tổ chức bàn rượu, đôi ba bợm nhâm nhi vừa trò chuyện rôm rả. Lần nói chuyện đầu tiên khá lâu với Đức, hỏi tôi có biết nhà văn Mai Thảo
không- lần qua Cali - Đức uống rượu tay đôi- thằng Mai Thảo tửu lượng đáng nể; còn
Nguyên Sa chỉ uống Coke- riêng Hoàng
Anh Tuấn nốc vài lon bia ,phét lác thành thần.
Được cái thằng Tuấn rất đáng yêu, mỗi khi nói chuyện với nó, cái đầu nghiêng nghiêng, đôi mắt hiêng
hiếng- bố mẹ cho sang tây học điện ảnh nửa chứng bỏ dở,và chỉ được cái đạo diễn
mồm giỏi là giỏi, thơ phú chẳng học ai
lại hay ra phết! Tuấn cầm tinh con khẹc, ( khỉ) hay rung cây nhát khỉ-thằng nào yếu bóng vía nghe nó bốc tá hoả tam tinh ngay.
-Sao
, anh quen tất cả chúng nó chứ?
-Đến thị trấn Chi Lăng rồi!
Nhìn sang hướng tay trái, ngọn nuí đá chênh
vênh dựng thẳng- chân núi có tấm bảng đá tạc thật lớn ẢI CHI
LĂNG- nhìn đồng hồ đúng 8 giờ sáng. Một đàn cò trắng muốt chừng trên hai chục
con soải cánh vỗ bay theo lớp lang, như
đang được tập dượt thuần thục cho ngày biểu diễn
- con sau nối đuôi con trưóc chênh
chếch bay về hướng phía trước- tôi bật
nhớ cuộc phi diễn rất đẹp mắt không lực Sài Gòn năm nào!
Xe vẫn chạy, tôi không để ý đến đàn cò nữa, và khoảng mười phút sau quay sang
trái nhìn ra xa xa, tôi lại thấy đoàn cò
trắng vẫn bay phía trưóc nhịp nhàng như
đội phi cơ cánh sắt lấp lánh hướng dẫn du khách với tín hiệu Follow me! (Hãy theo tôi
!) như các xe cảnh sát hay quân cảnh đi
trước hướng dẫn phái đoàn.
Nhận phòng ở lầu hai- thẻ mang số 206- nhìn
thẳng ra đường Nguyễn Du- phố xá luộm thuộm. nhà lợp tôn tuềnh toàng tạm bợ-
bảng hiệu buôn cái lớn, cái nhỏ, quệt tên bảng hiệu -đủ loại
mầu sơn : xanh đen, trắng đỏ, tím xẫm, vàng quạch, đỏ rực … bán đủ loại hàng. Chỉ nhìn vỉa hè trưóc hiên hàng hàng lớp lớp
xe gắn máy dựng san sát vào nhau chật
ních, biết có nhiều khách hàng, kẻ mua người bán .
Khách sạn Đông Kinh như một tòa lâu
đài ba tầng lầu xây cất đã khá lâu, mặt tiền nhìn ra phố Nguyễn Du bệ rạc, cửa phụ bên
hông lại là cửa chính đông kẻ vào ra.
Phòng ốc rộng rãi, nhà tắm vệ sinh riêng, drap
giường trải nệm bèo nhèo ố màu- có lẽ trước
khi chúng tôi nhận phòng đã có cặp đàn
ông đàn bà nào đó mới trả , khách sạn chưa kịp thay drap, nệm gối- khách mới tiếp quản cả vết tích dư thừa trận cuồng
nộ ân ái. Còn ti vi, tủ lạnh lại hiện đại
mới cáu cạnh – hàng lậu chuyển lậu từ biên giới nước bạn tuồn qua giá rẻ
bất ngờ.
Chúng tôi vào chợ Đông Kinh gần đó, hàng
hoá ê hề, đủ chủng loại, thứ gì cũng có, tuy giá rẻ vẫn phải mặc cả đôi chút-
khách vãng lai dễ nhận diện trước mắt nhà buôn- nhiều nhất hàng kim khí điện
máy hằng hà sa số. Lội bộ từ đường
Nguyễn Du qua chợ- hai bên đường nhiều
cửa hàng buôn bán- sở dĩ tôi chú ý đến hiệu may ,vì đọc bảng hiệu quảng
cáo :
cáo :
CHUYÊN MAY CẮT COM LE- VESTON
tiếng
tây chẳng ra tiếng tây, phiên âm sang tiếng ta chẳng ra ta. Mà chẳng cứ gì ởđất Lạng sính dùng tiếng tây- viết sai
giống y chang bảng hiệu may- tôi nhìn
thấy ở nhà may nhỏ thuộc thị trấn Phú Lợi-tỉnh Phú Thọ.
Chuyện này cũng chẳng có gì đáng làm ầm ỹ-
như tôi đã nhắc ở trên- cứ mỗi lần Giáng sinh về, con mắt bị xốn xang, vì nàng dâu kiều diễm NOEL thiếu vương
miện trên đầu – NOEL vẫn không có dấu chấm trên
E(L)! (kể cả Từ điển
tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học -bản tái bản lần 7- năm 2000 )
Qua mấy trục đường chính thăm dân cho biết sự tình, thời giờ thăm
dân cần nhiều thời gian, vẫn chỉ như
một thoáng qua thăm cảnh phố phường. Chỉ nhìn dãy trụ sở làm việc
Ủy ban tỉnh, đã thấy ngay lâu đài rất ư đồ sộ xây cất từ thập niên năm mươi, kìa
Ngân hàng Công thưong Việt Nam, tường còn
mới toanh nước sơn vàng, du khách đánh giá ngay được tiềm năng kinh tế phát triển
tỉnh biên giới này giầu có chừng nào?
Chúng tôi chụp một số pô
ảnh trên các tuyến đường, nhiều nhất chụp cảnh sinh hoạt phố Nguyễn Du- danh nhân văn hóa
thế giới nếu bạn có đi dạo ban đêm trên con đường
này -nhớ mang chiếc đèn pin theo chiếu sáng tìm lối đi. Cũng chẳng riêng gì Lạng Sơn- Nguyễn Du được đặt vào phố khiêm
nhường- ngay thủ đô, phố Nguyễn Du được kế thừa tên quan thực dân Riquier, cũng nằm trên phố khiêm nhường cạnh hồ Thuyên Cuông.
Trở về
với Sài Gòn thanh lịch, từng mệnh
danh Hòn Ngọc Viễn Đông, thì Nguyễn Du thư sinh mặt trắng chỉ mới đậu tam trường ( tương đương: tú tài một)
cũng chỉ e lệ nép tên sát cạnh Dinh Thống nhất thôi. Ăn trưa xong, chúng tôi về
lại phòng 206, đi lại bàn nước gặp mấy chú chuột đuổi nhau kêu chí choé.
Chợ Tân Thanh nằm sát biên giới, cách Ping Xiang ( ta gọi: Bằng
Tường) chừng trên dưới mươi cây số là đến nước bạn.
Trước khi xuống xe, hướng dẫn viên thuyết
minh giá cả hàng hoá, kim khí điện máy,
nồi niêu, xoong chảo, bình thủy, bếp từ, mua hàng rồi kiểm tra hàng kỹ lưỡng mới trả tiền , các vị được thong dong mua bán trong vòng hai tiếng đồng hồ, đúng 11 giờ 30 trở về bến đỗ lên xe ca về
Lạng Sơn.
Khu
thuơng mại rộng nằm xoay quanh bốn mặt
đường, tấp nập kẻ mua, người bán, hàng rong vây quanh khách du lịch mời gọi,
chào hàng. Cũng đúng một khi bạn nhìn
lên trời, dớời chân chợ Tân Thanh là hàng hoá, từ chiếc va li
to đùng cùng kích cỡ mua ở Hà Khẩu tính
ra cao hơn ở đây trừ ba chục ngàn
đồng trở lên . Một đôi giầy nam đế đúc bán bốn mươi tám ngàn (
đã trả giá) người bán rong xin thêm hai ngàn đồng lời- tương tự siêu thị Big C -Sài Gòn, bán ra một trăm hai mươi ngàn- bếp điện từ loại rẻ
nhất hai trăm năm mươi ngàn đến bốn trăm ngàn loại tốt.
Bà
mẹ trầu Nam Bộ nhiều tuổi nhất trong
đoàn kéo chiếc va li giây kéo to đùng,
khen lấy khen để hàng chợ Tân Thanh đẹp lại rẻ hơn Hà Khẩu-Vân Nam . Khách mua hàng xách khệ nệ cố kéo tới bến đỗ
là ổn cả- bao nhiêu hàng cũng chất hết trong khoang hành lý.
Thợ máy Nguyên theo đoàn ,việc chính khám
bệnh xe ca hỏng hóc giữa đường ,sửa chữa cấp kỳ- rồi phụ bác tài lên xuống đồ đạc mỗi khi đến
khách sạn. Anh thợ máy có trí nhớ tốt,
chiếc va li này của ai, túi xách kia cô bác nào, chỉ một hai lần đã được ghi
vào bộ nhớ chính xác, nhìn mặt ai trả
đúng đồ người đó.
Khu Trung tâm thương mại Tân Thanh nằm sau
dẫy núi đá cao hùng vĩ , mới nhìn từa tựa Hà Khẩu, nếu bảng hiệu không ghi hai thứ tiếng Việt Trung.
Những
thắng cảnh như Núi Mẫu Sơn, Thành nhà
Mạc, Phố Kỳ Lừa, tượng nàng Tô Thị, động Tam Thanh vv…- chỉ được nghe -chưa đến
nơi-chưa nhìn thấy- thì chưa cảm nhận được.
Tôi
giở bản đồ hành chính tìm địa danh Thất Khê,
sông Kỳ Cùng hướng nào, nhìn khoảng cách từ Lạng Sơn đến đó đoán tương đương từ Ải Chi Lăng tới nội thị
Lạng Sơn.
Nói với vợ:
-Thôi vợ cứ nhìn đường 4A từ Lạng Sơn qua
Đồng Đăng lên Thất Khê, Đông Khê -Cao Bằng; -vạch chỉ xanh là sông Kỳ Cùng -có một
khúc vòng gần Thất Khê chảy ngược lên Bằng Tường
Bố
vợ quê Lạng Sơn, ông giáo Bảo dạy học TrườngTiểu học Thất Khê năm 1937 , bà giáo
sinh cháu gái , ông đặt tên Khê- vợ tôi . Năm sau đổi về Tràng Định - Lạng Sơn, bà giáo sinh trai
đầu lòng- đặt tên Trường, ( thay vì: Tràng)
đến 1941 vẫn dạy ở đó- một bé trai được sinh ra ,ông đặt tên Định. Khi ông giáo được thuyên chuyển tây bắc lần hai ( trước đó, năm 1933 ở Bát Xát-Lào Cai , bà giáo sinh gái đầu lòng - ông đặt tên Thư) . Cho đến khi dạy học ở Nghĩa Lộ- Văn Chấn- bà giáo sinh thêm cháu trai nữa
,đặt tên Văn (1943), tiếp bé trai là Chấn ( 1950 ).
Giữa khoảng cách này,Chấn có người chị tên Thuần-vợ tôi không giải thích -sao bố vợ
đặt tên vậy, dầu lúc này ông bà giáo vẫn ở Nghĩa Lộ.
Năm
1954 ông được đổi về miền xuôi, một trường thuộc tỉnh Hải
Dương, một trai út sinh tại đây đặt tên Dương,
sau đó cả gia đình di cư vào Nam.
Và em
Nguyễn Quốc Trường chết yểu- đến Nguyễn
Quốc Văn qua đời, trong bộ quân phục sĩ quan Tiểu đoàn 9 Dù tử nạn trên cầu Nhị Bình -Hóc Môn dịp Mậu
Thân 1968.
Còn tôi- con rể sinh ra đời cầm tinh
CON KHỈ, núp tướng tinh bố ruột, bố vợ - không biết có phải vậy mà bà mẹ
vợ thường đùa cợt :
-
…Bố vợ con rể
đều thiên hô bát xát, cùng phuờng
múa bát leo giây.
Cũng
chẳng biết ,có phải bà ghét địa danh Bát
Xát - nên can thiệp không để chồng đặt tên gái đầu lòng, tên BÁT hoặc
XÁT cho Nguyễn Thị Thư chăng?
TÁM : LẠNG SƠN
–BÃI CHÁY-VỊNH HẠ LONG.
7 giờ sáng rời Lạng Sơn trực chỉ Bãi Cháy- vẫn
được ngắm quang cảnh núi rừng trùng điệp xanh ngắt một mầu. Qua Ải Chi Lăng rồi chẳng mấy
lúc tới Kép- thị xã Bắc Giang.
Bác tài bàn với đoàn- đi lối tắt từ Kép qua địa phận tỉnh Hải Dương, Côn Sơn, Sao Đỏ, Đông Triều,
Uông Bí là tới Bãi Cháy.
Đường tắt
ngắn hơn nhiều, so với đường 4B Lạng Sơn
xuống Đình Lập, Tiên Yên vòng sang
Cẩm Phả trở ngược lên Bãi Cháy-Hạ Long.
Anh
Hùng có kinh nghiệm đường xá khu vực vùng Đông bắc góp ý với bác tài, yên tâm
đi, hồi đi tập kết học xong lên đây làm
việc,có gì sẽ chi đường cho đi đến nơi về đến chốn.
Đến địa phận ĐôngTriều, nhớ là quê tác giả Tháng hai buồn đọc lại Lỗ Tấn)- Hoàng Vũ
Đông Sơn hay nhắc tới cầu Đạm Thủy, đền thờ Chu Văn An, sông Tràng Dịch lững lờ
dòng chảy – từ cư xá Thanh Đa trò chuyện râm ran qua di động- tôi nghe rất rõ:
- Anh
chị đang nhìn thấy quê em trước cả chúng em, lần sau bố con em về quê thăm họ hàng làng nước một lần.
Phố xá nơi đây khá đông vui, cửa hàng tấp
nập người ra, kẻ vào mua bán, học sinh tan trường tầm chín rưỡi sáng, nhìn đồng
hồ 9 giờ 45 sáng.
Vợ ngủ tựa vai thức giấc, lấy rượu mật gấu
bóp chân vợ ,giờ này đã bớt đau được
bẩy, tám phần.
Cái
phòng toa- lét mang số 206 khách sạn Đông Kinh-Lạng Sơn, phòng ngủ tồi tệ nhất
lại ấn tượng khó quên nhất -hình ảnh chú chuột nhắt chạy
tứ tung trên bàn , sau khi thưởng thức chuối La Ba ,cốm vòng mang từ Hà
Nội lên xứ Lạng. Lại ngẫm ra, số 206 này
rất hạp với chuyến xuyên việt ,nhiều phòng khách sạn
nơi khác cũng 206 khang trang,
sạch sẽ, ngăn nắp, đầy đủ tiện nghi, thì sao lại quên !
Chỉ đường rẽ vào chùa Yên Tử- ngay từ thời Lý, Yên Tử xưa có tên
chùa Phù Vân- đạo sĩ Yên Kỳ Sinh tu hành
đắc đạo tại đây. Và chùa Yên Tử chỉ nổi danh, kể từ khi vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đánh thắng giặc ngoại xâm, từ bỏ
ngai vàng, lấy pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng- xa lánh cõi hồng trần , ở lại đây
truyền kinh, giảng đạo.
Chùa Yên Tử có tên khác nữa : Bạch Vân Sơn-
nơi có rừng mai vàng ,rừng tùng cổ thụ thuộc xã Thượng Yên Công –rồi đến chùa
Giải Oan, Hoa Yên, Một Mái, chuà Đồng- danh lam thắng cảnh có một
không hai tỉnh Quảng Ninh. Hy vọng lần
sau công ty thiết kế tour du lịch
qua Đông bắc thăm chùa Yên Tử, Tua nói vậy.
Bỗng
nhiên, ông Đặng quay sang kể chuyện vui,
hỏi có thích học tiếng phổ thông không?
học nói rất dễ còn học chữ Hán mới khó. Bây giờ
tôi dạy cho ông mấy chữ cần biết: thiên:
trời, địa: đất, lục: sáu, tam: ba, gia: nhà, quốc: nước, tiền: trước, hậu: sau … dễ phải không- này đói ăn rau, đau uống thuốc , bài học dân gian này của người diệc ( việt) không phải người Trung quốc, phải vậy không
ông Tường?
-Đúng, mà ông quên dạy tôi - hẩu leng: đẹp – câu này áp dụng khi gặp
cô nào xinh đẹp, hợp nhãn- thì nói: ngổ
aí nị mà nị thì ái ngại (ngúng nguẩy,
lắc cái đầu làm duyên í mà) .Vậy
có phải là, cứ biết thêm được một thứ tiếng , lại coi như có` thêm một quốc tịch phải vậy không?
Ông bà Đặng hiện nay mở cửa hiệu buôn bán ở
Nam Vang, giao cho con lớn trông coi,
ông ngỏ lời mời vợ chồng tới chơi
khi qua Cam Bốt, và nhớ điện thoại trước
( đưa danh thiếp in hai thứ tiếng: Hán, Anh : 5…136 Road- Phone ( 012) 299.38…)
Thấy vợ tôi đọc Kinh thánh trên xe, ông khoe
có một cuốn Thánh kinh bằng tiếng Hán, đã đọc qua mà chẳng hiểu gì?
Nắm
được cơ hội, vợ tôi chứng đạo, phát truyền đạo đơn, giới thiệu bài làm chứng về
Chúa của một người - trước kia luôn luôn
được dạy rằng, tầng vũ trụ này là tự nhiên mà có, không có ông Trời nào hết, chối bỏ sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, ai tin Chúa là duy
tâm, mê tín dị đoan. Rồi tình cờ , ông ta
được mục sư truyền đạo người Hòa Lan (
miền bắc: Hà Lan) tặng cuốn
Kinh thánh bằng anh ngữ :
”…Tối
hôm đó, tôi bắt đầu đọc thử các sách mới xin để xem sao. Ngay từ dòng đầu Kinh
thánh, tôi đã thấy vô lý. Ban đầu, Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.
Lưong tri tôi bật lò xo. Đó là phản ứng tự nhiên của một người đã sống gần năm
mươi năm, nhưng chưa biết nhận Chúa. Nhưng rồi tới cái hích đầu tiên
của Thiên chúa, mà ngày trước, tôi đã từng phân tích cho sinh viên, đây là quan điểm
hoàn toàn sai lầm. Tự nhiên tôi nghĩ rằng Newton, người phát minh ra định luật hấp dẫn vũ trụ, được coi là phát minh vĩ
đại nhất của lịch sử văn minh nhân loại, lai có thể kém như thế ư? Và tôi tự
trả lời:
- Không
thể được, chắc là mình dốt, không hiểu được ông ta , có lẽ Đức Chúa Trời có thật .
Rồi tôi đọc tiếp câu chuyện Chúa sáng tạo vũ trụ
trong sáu ngày. Tất cả như một truyện thần thoại dành cho trẻ con.
Khi đọc đến Tân Ước, tôi lại thấy nhiều điều không thể chấp nhận được. Có thể tin chăng
một bà mẹ đồng trinh sinh con, một người mù được sáng mắt, người cùi được sạch,
người què được lành, người chết có mùi đã được sống lại, chỉ nhờ những lời
phán? Ai có thể đi bộ trên mặt nước, ra lệnh bắt bão tố vô tri phải dừng…?(…)
Đến Albert
Einstein, nhà vật lý được coi là vĩ đại
nhất của thế kỷ, đã phát biểu:
- Khoa
học không có tôn giáo là mù lòa, tôn giáo mà thiếu khoa học là què quặt.
Lúc bấy giờ, tôi chưa hiểu được nhiều, nhưng
Chúa biết tôi là người từng được học nên đã dùng tiếng nói của chính các nhà
khoa học thật lớn để mở mắt cho tôi. Sau
khi ông phát minh ra định luật hấp dẫn vũ trụ kỳ diệu, nhiều người đã hỏi ông
làm cách nào ông lại có thể phát minh ra được định luật vĩ đại như vậy. Newton vừa cười vừa trả lời:
- Đó
là nhờ tôi đã đứng trên vai những người
khổng lồ.
Chuá
đang nhắc nhở tôi: hãy đứng lên vai những người khổng lồ này thì con sẽ
nhận ra chân lý của Ta.
Quả nhiên, tôi đã bị Ngài bắt phục dễ dàng.
Cái tư tưởng vô thần, được tích lũy công phu và sử dụng trong bao nhiêu năm nay
bị đánh bật khỏi đầu tôi. Xưa nay tôi
vẫn nghĩ đơn giản: Không có Đức Chúa Trời vì không ai chứng minh được sự hiện
hữu của Ngài:
Nhưng
bây giờ tôi lại biết đặt câu hỏi mới:
Ai đã chứng minh được Đức Chúa Trời không
hiện hữu?”
Tất
cả chỉ dựa vào cảm giác của con người, mà cảm giác thì không phải là một cách
chứng minh khoa học. Người đang đứng ở trái đất thì nói rằng mặt trăng quay
quanh trái đất; nhưng quan sát viên đứng ở mặt trăng sẽ bảo trái đất quay quanh
mặt trăng.
Ai đúng?
Hơn
nữa, có nhiều cái hiện hữu mà ta không
thể nhận biết bằng cảm giác.
Không có và không thể có một máy móc nào đo
được trí khôn. Vì vậy, quan niệm: Có Chúa hay Không có Chúa, là vấn đề Đức tin nằm ngoài phạm vi của
khoa học, của cảm giác.
Nói theo ngôn ngữ khoa học đây là những tiền
đề (axioms).
Thật
ra tiền đề Có Chúa dễ tin
hơn nhiều
Nhà
bác học Newton đã làm một mô hình hệ thống mặt trời rất
đẹp để ngay trên bàn làm việc.
Một
hôm có một người bạn vô thần đến thăm. Ông bạn khen mô hình đẹp quá và hỏi:
- Ai
đã làm nên vậy?
-Tự
nhiên mà có đấy thôi .
Ông bạn không tin .
-Thế
tại sao cậu lại tin cái vũ trụ vĩ đại chuyển động nhịp nhàng này tự nhiên mà có,
không cần Đấng sáng tạo? … (…)
< trích HẠNH PHÚC TUYỆT VỜI / tiến sĩ PHAN NHƯ NGỌC>
< trích HẠNH PHÚC TUYỆT VỜI / tiến sĩ PHAN NHƯ NGỌC>
( Ngocpn@gmx.net )
- Cái này hay, nhưng với trình độ tôi thì hơi khó hiểu rồi - ông Đặng tiếp.
- Nhưng tôi biết rõ ràng một điều , hầu hết mọi nhà hứa tin
Chúa Trời , phía trước nhà vẫn có bàn thờ THIÊN-vậy bàn thờ THIÊN
này có phải là thờ TRỜI? Người Hoa tự xưng thiên tử mà không tin cha mình là Trời, cái này mới là điều lạ?
Ông Tường có kinh nghiệm gì về Đức
Chúa Trời kể cho nghe. Phải là câu chuyện có thật- bình
dân đại chúng một chút - đừng lý thuyết
cao siêu như ông tiến sĩ, thì chỉ người trí
thức mới dễ đồng cảm mà thôi.
Ngẫm ra có phần chí lý, chẳng hạn khi tôi lấy vợ ,lễ cưới cử hành tại Phòng sách Báp Tít,
68 đường Minh Mạng –Đà Lạt. Mục sư Mỹ Roberston
buộc học thuộc vài câu, từ tối hôm trước .
-Anh
có bằng lòng lấy cô Khê làm vợ?
–Có.
( quay sang hỏi cô dâu)
- Cô Khê có
nhận ông Tường làm chồng?
- Có.
- Chiếc nhẫn này tượng trưng cho tình yêu
bất biến Thiên chúa ban phát, các ngươi không thể tự cắt chia lìa, ốm đau phải
săn sóc nhau, lúc dư dả bạc tiền , bụng dạ no nê như lúc nghèo khó bụng đói meo- vẫn phải cùng nhau
chia sớt vv…
( mục
sư Mỹ xin lỗi tự nhận diễn tả tiếng việt vụng về)
-… chung qui là phải sống với nhau đến trọn đời- khi ra ngoài đường, chẳng may nhìn thấy cô gái nào đó đẹp hơn vợ mình - hay là cậu trai đẹp
hơn chồng mình- thì phải bịt mắt lại, ngó lơ như không thấy, không biết, không làm
quen. Hãy nhớ câu này: Don’t be lustful
! ( tạm dịch: Chớ có tà dâm!) đó là
đã làm theo ý Chúa .
Về Sài Gòn , vợ đòi thờ phượng ngày chủ
nhật ở Hội thánh Báp tít. Cả Sài Gòn khi
ấy, chỉ có hai nhà thờ Báp tít -một trên
đường Công lý giảng tiếng việt - mục sư Chánh ( người luôn tự nhận:- tôi một trong hai thanh niên Báp tít đầu tiên ở
Sài Gòn-Việt Nam )
chủ tọa- còn nhà thờ giảng tiếng
anh cũng nằm trên đường Công lý-khúc ngã
tư Yên Đổ.
Tôi đành chở vợ tôi đến nhà thờ giảng tiếng
việt, và đến quán cà phê gần đó chờ tắt
lễ đón vợ.
Cho
đến 30/4 1979 , sau khi nghe truyền đạo
Lê Thiện Dũng giảng, tôi giơ tay tin nhận Chúa tại Hội thánh Báp tít Ân điển.
Thời
kỳ này, rất - rất là ít người tin Chúa,
mục sư Chảnh đến tận nhà dạy báp
têm, và cuối năm mấy bố con được làm
phép báp têm, đầu nhấn chìm trong bể
nước trước nhà thờ. Lần này mục sư chủ tọa
rơi mất kính cận, hai tay quơ quào , mắt nhắm, mắt mở hụp lặn mới tìm được kính- tôi nói đùa :- vậy
ra Ngài hụp lặn, thì coi như mới được tái
sinh như chúng tôi thôi !
Tôi tin
Chúa thì tin vậy thôi ,đầu tiên nghe thánh ca rất thú vị - nhất là Ave Maria, Silent Night- và chẳng chịu học lời Ngài, chẳng mở Kinh thánh đọc một
dòng ,một chữ- đến ngay vợ nhờ bỏ tiền dâng 1/10 ngày chủ nhật, lại giấu bớt xài riêng. Nghe thấy lời cầu nguyện:
“… xin Chúa đại dụng món tiền nhỏ bé này của chúng con để mở mang nước Chúa
“
thì
tôi lằm bằm : đương kim thư ký
hội thánh thấy túi dâng tiền nhiều qúa- nhất là buổi nhóm có tín hữu Báp tít Hàn quốc tham dự -
tiền dâng bỏ vào phong bì vàng, rồi bỏ
chung vào giỏ tiền dâng hội thánh Báp
tít – tất lễ, thư ký xách bốn giỏ dâng hiến chạy vào phòng dành riêng ban trị
sự, đóng cửa sổ, khóa cửa chính , rút chiếc phong bì màu giắt túi sau dụng đại- rồi ung dung gọi bà
thủ quĩ vào đếm tiền dâng hiến – ai lại để một mình tôi đếm, kỳ quá hà!
Bà thủ qũy có đôi mắt tinh anh,đã nhiều lần
theo dõi thư ký - lần này kiểm không thấy chiếc phong bì con cái Hàn quốc dâng,
bèn làm ra nhẽ- ông thư ký trả lời - đến
ngay mục sư quản nhiệm chẳng kêu ca gì nữa là -… bà tư hoá có muốn tư- hữu- hoá chút đỉnh không?
Rồi ông thư ký cúi đầu, miệng nhẩm lời cầu
nguyện
-Xin
Chúa đại dụng món tiền này mở rộng thêm nước Trời- và Chúa ban cho tôi tớ
Ngài dụng đại một ít nuôi vợ con –con
dốc lòng đội ơn Chúa. A men! (Đúng như vậy!)
Từ đầu thập niên 90, tôi bắt đầu tập hát
thánh ca với ban trung niên (bởi không
có ban lão niên), xin Chúa
cho con kẻ già yếu có giọng ca
trong trẻo tôn vinh danh Ngài. Xin Ngài chỉ ra lỗi lầm con đang mang - Ngài tha thứ vi phạm, Ngài phiếu sạch tội lỗi con bằng huyết báu Ngài- Ngài ban cho trí nhớ thuộc bài Cầu nguyện chung :
Lạy
Cha chúng con ở trên trời! Danh Cha được tôn thánh, nước Cha được đến, ý Cha
được nên. Ở Đất như Trời. Hôm nay xin
cho chúng con đồ ăn đủ ngày, xin tha thứ tội lỗi chúng con như chúng tha tội những kẻ nghịch
cùng chúng con. Xin chớ để chúng con bị
cám dỗ. Vì nước, quyền, vinh hiển thuộc về Ngài đời đời, vô cùng. A Men!
Mỗi
sáng tôi dành năm phút đọc một đoạn kinh thánh, suy ngẫm, cầu nguyện-không
phải chỉ nghe làm đủ -còn phải biết làm theo. Cảm tạ
Chúa cho ma- na dùng đủ ngày, cảm tạ
Ngài khi thuận lợi cả khi không, lúc khỏe,
khi đau ốm, lúc hanh thông, khi hoạn nạn, tôi đều biết ơn Ngài. Nếu chỉ tin Ngài để có miếng ăn độ nhật, kẻ
lấy danh Chúa làm chơi, mưu cầu cơm áo, danh lợi; thì Ngài đã có lời phán xét kẻ
lấy bụng mình làm chúa.
-Đến Bãi Cháy rồi!
Cô Huyền
thông báo, tối nay ngủ tại Khách sạn Tiên Long- Phố Vườn Đào-Bãi Cháy.
Khách sạn rộng rãi, có vườn bao quanh, tất cả là phòng trệt, chúng tôi nhận số thẻ 101, phòng ốc khang trang, restroom đúng nghĩa, thiết bị thông tin tiêu chuẩn quốc tế, tắm táp xong mời ăn trưa tại Nhà hàng Bangkok ,đường Hậu Cần-Bãi Cháy.
Khách sạn rộng rãi, có vườn bao quanh, tất cả là phòng trệt, chúng tôi nhận số thẻ 101, phòng ốc khang trang, restroom đúng nghĩa, thiết bị thông tin tiêu chuẩn quốc tế, tắm táp xong mời ăn trưa tại Nhà hàng Bangkok ,đường Hậu Cần-Bãi Cháy.
Buổi chiều đi thuyền trên Vịnh Hạ Long,
tham quan hang Đầu Gỗ, Hòn Gà chọi vv…
và sau đó dùng cơm chiều xong bắt đầu tham quan đảo Tuần Châu.
CHÍN: BÃI
CHÁY- HẢI PHÒNG -THÁI BÌNH - NAM ĐỊNH - HÀ
TĨNH - VINH
Rời Bãi Cháy lúc tinh mơ, nhìn sang đảo thật hữu tình ,
con đường thẳng tắp ngăn biển chạy thẳng
tới đảo Tuần Châu. Tối qua chúng
tôi đã đến thăm nơi này, vẫn kiểu cưỡi ngựa sắt xem hoa lúc tối trời, nơi
nào đèn sáng thấp thoáng biết có biệt
thự nhà hàng, nơi khác biệt thự đang xây dở dang, kia một toà lâu đài xây trên
đảo nguy nga tráng lệ, nếu không có đèn chỉ còn thấy mầu xanh thẫm cây lá.
Buổi chiều trên vịnh Hạ Long ngắm biển xanh
nhấp nhô sóng bạc, leo hết hang động này
sang hang động khác, nơi nào cũng đẹp và
hùng vĩ cả.
Chỉ
mấy ngày trước, đã nhọc nhằn leo năm trăm bậc xi măng dẫn lên đỉnh Phong Nha, bước qua hàng hàng lớp lớp động thạch nhũ đẹp
vô tả, ai nấy đều đưa máy ảnh chụp liền tù tì - một khách người Hoa không biết tiếng
việt, đi chung với gia đình ông Đặng say mê quay ghi lại hình ảnh một kỳ quan thế giới có một không hai. Anh bạn
này hướng máy sang hai cô người việt gốc hoa từ thành phố Bác- tôi chợt nhớ đây
là hiện tượng lạ, đồng tính nữ chăng?-
hai cô không ngồi chung bàn với gia đình Nimbus
ăn sáng, ăn trưa, ăn tối, ngủ nghỉ chung phòng.
Tôi
để ý theo chân chú chim ó vỗ đôi
cánh sải dài lao vút thật nhanh xuống mặt nước , rồi lại bay vụt lên, lại lao xuống vụt lên nhiều lần-
chưa một lần thành công quắp được
một chú cá nhỏ nào làm mồi. Ngồi bên, vợ
ngắm nhìn Hòn Trống Mái xa xa, tôi đếm một, hai, ba , bấm nhé- thế là
đôi mắt to tròn đen lay láy đang say đắm
ngắm, và chẳng một ai hề biết mắt trái mới được mổ cườm nào có trông thấy gì đâu?
Cũng
có thể vịnh chiều nay không có cá, có thể đôi mắt chim ó có vấn đề, bao nhiêu
lần lao xuống mặt biển chẳng quắp được
chú cá mồi dằn bao tử.
Nhớ tới bác sĩ K… giỏi nghề phẫu
thuật mắt cườm : ông bác sĩ ơi , có cách
nào cứu được chú ó biển mắt cườm đang
chúi đầu vô vọng kiếm mồi trên vịnh Hạ
Long không?
Chờ sao cho thuyền máy sớm cặp bến lên bờ
thoát được hiểm nguy, nhìn thuyền bè ván
gỗ bóng loáng sơn, tôi không dám chất lượng gỗ còn
tốt, tiếng máy nổ phành phạch ì ạch lướt sóng dáng chừng mệt mỏi- quay sang hướng dẫn
viên hỏi- thuyền máy này được bảo hiểm đấy chứ?
Tua gật đầu và lại cho biết thêm, nếu muốn
ngủ lại trên tàu ba sao- không phải tàu đò như thế này đâu- phải trả một trăm đô la/ đêm bao ăn ngủ ,tàu
vận hành trên vịnh khoảng bấy chục cây số.
Ông Đặng quay sang chuyện trò, nhắc bữa qua ở Hang Gà Chọi, đi
lên một đường, xuống một đường, ông mệt
quá đành ngồi lại nghỉ không thể đi tiếp được nữa; rất may vợ chồng tôi biết, kịp báo hướng dẫn viên quay lại đón. Và ông
Đặng tin vào bản mệnh quí nhân phù trợ, mỗi khi gặp hiểm nguy- và ông cũng cho biết đã đọc rất kỹ bài làm chứng đạo Chúa
của ông tiến sĩ kia rồi. Bây giờ phải chờ được sự cảm động đưa tới mới biết là
mình có hay không tin nhận Đức Chúa Trời?!
-8 giờ
45 sáng vào địa phận huyện Thủy Nguyên-Hải Phòng, mười lăm phút sau tới
An Dương, nơi này có nhà máy cán thép to
đùng, ống khói vươn lên bầu trời xanh
ngắt phun phì phì – và còn nhiều nhà máy công nghiệp khác đang vào ca sáng.
-8giờ 45 đến thị trấn Vĩnh Bảo- bảng chỉ
đường dựng ở ngã tư- rẽ trái qua Ninh Giang-Hải Dương- đi thẳng hướngThái Bình.
Tôi nhìn theo mũi tên chỉ hướng qua Ninh Giang, thế là cả một cuốn phim lịch
sử như đang diễn ra trong trí.
Giá mà tôi được đến nơi này để nhìn lại
mảnh đất 76 năm xưa (1930 )- một cánh quân Việt
Nam Quốc Dân Đảng(VNQDĐ) đã sát hại tri huyện Vĩnh Bảo Hoàng Gia Mô, cháu ông Thiếu
Hà Đông –Hoàng Trọng Phu, chắt tổng đốc Hoàng Cao Khải-tác giả Việt sử yếu – viên huyện quan này vơ vét
của cải dân chúng rất giàu, hai xe hơi,
nhiều đất đai điền sản, vàng bạc châu báu chất đầy trong két sắt- đã làm
mờ mắt nhà cách mạng trẻ tuổi Trần Quang Riệu – có họ hàng với tổng đốc Trần Mỹ.
Chính Riệu bắn phát đạn ân huệ ( coup de
grâce) vào đầu huyện quan Hoàng Gia Mô.
Sau khi
Nguyễn Thái Học cùng cộng sự bị đưa lên
đoạn đầu đài, ngay buổi chiều hôm đó đã có năm chiếc phi cơ bắn phá làng phiến loạn Vĩnh Bảo.
Thống sứ Bắc kỳ Robin gửi điện khẩn cấp, lệnh cho Công sứ phải bố cáo cho
dân bảo hộ biết Làng Cổ Am-Hải Dương ,nơi trú ẩn bọn phiến loạn xứ án tử hình
huyện quan Vĩnh Bảo, nước Đại Pháp ban lệnh cho phi đội Hà Nội thực hiện vụ tàn sát tức thì. Và lập tức tin này được loan truyền
rộng rãi cho toàn dân An Nam biết, và đây là cách răn dạy cho làng xã nào còn
muốn họạt động chống phá, cũng sẽ bị tàn sát không thương xót.
Đại để điện tín khẩn ấy đã được nhà báo cấp
tiên, ông Louis Roubaud thuật lại trong sách Việt Nam Bi Thảm Đông
Dương * xuất bản ở Paris năm 1930.
--------
--------
* Việt Nam Bi Thảm Đông Dương bản
việt ngữ Đường Bá Bổn ( Sài Gòn 1963, 1965- sau 1975: NXB Công an nhân dân
2003, Nxb Thanh niên 2005) –bản tiếng
Pháp: Vietnam , la tragédie indochinoise- Louis Roubaud, Ed. Valois, Paris 1930.
Nhà cách mạng VNQDĐ đề cập trên kia, như đã nói, là họ hàng tổng đốc Trần Mỹ được Pháp ban Bắc đẩu Bội tinh ( Chevalier de la Légion d’Honneur)
chính là thân sinh hai n hà văn nổi đình đám trong nhóm Tự lực văn đoàn: Khái Hưng và Trần Tiêu.
Trưởng nam Trần Khánh Giư theo VNQDĐ sinh năm 1896 ở Cổ Am- nơi tổng đốc thân phụ trấn
nhậm -và sau bị thủ tiêu ở Lạc Quần năm 1947. ( Chi Nê-Phủ Lý). Còn thứ nam Trần Tiêu , sinh năm 1899
,theo cách mạng từ ngày đầu kháng chiến 1945, tác giả tiểu thuyết Con Trâu , từng giữ chức Chủ tịch Ủy ban
hanh kháng huyện Cổ Am, qua đời vào năm 1954 ở Hà Nội.
-Qua Vĩnh Bảo ranh giới tỉnh Thái Bình rồi!
Tôi lên
phía trước, ngồi ghê xúp
sẽ nhìn rõ hơn Quỳnh Côi, như vậy huyện
Quỳnh Phụ cũng gần đâu đây. Nhìn thấy bảng Trường Phổ thông cơ sở Phù Dực có
một con đường rẽ phải chỉ địa danh Quỳnh Phụ.
Vậy là sau con đuờng trải đá kia,
thì Trường Phổ thông cơ sở An Bài cũng
nằm quẩn quanh đâu đó.
Đó là nơi ở
thằng bạn thân một thời của tôi ở Hà Nội năm năm tư. Sau 20 tháng 7,
chia hai miền nam bắc, Hiển ở lại Hà Nội theo học sư phạm, tốt nghiệp được
chuyển về huyện lỵ Thái Bình.
Bút danh
làm thơ châm biếm Ống Nhòm
trên báo Thân Dân đã không còn nữa, thấy giáo Nguyễn Thế Hiển tứ cố vô thân không từ chối bổ nhiệm đến bất
cứ trường học miền bắc. Thầy lập gia đình với một cô giáo dạy cùng trường -sinh
được cháu gái đặt tên Bình An. Rất có
thể vì trụ lâu
ở xã An Bài, lại dạy trường An Bài, và thân phận an bài tự tại , nên thầy cô Hiển mong đứa gái duy nhất sau này cuộc sống bình an.
Nhìn tấm ảnh nhỏ síu chụp trước cửa nhà- một căn nhà trệt lợp
ngói- bố gầy như cây sậy , con gái nhỏ síu guộc gầy thấp hơn bố một cái đầu.
Một chiếc xe gắn máy dựng ngay lối đi vào,
tôi nghĩ chắc là mẹ cháu
Bình An sử dụng, bởi Hiển đạp xe đạp còn trầy trợt ngã lên ngã xuống ngay từ
thời kỳ ở Hà Nội. Hiển gửi tấm ảnh vào
Sài Gòn năm 2000, thư viết: Tường ơi, chúng
mình già cả rồi, xưng hô hoặc viết cho nhau mày, tao thấy nó thế nào ấy- đừng hỏi tại sao nhé, vậy có được không?
Mỗi năm, tôi đều nhận thiếp chúc năm mới,
thiếp vẽ đồng quê, thằng bé con giắt trâu, bên cạnh phong pháo nổ. Hiển than phiền muốn đọc sách lại không đủ
tiền mua, chỉ đọc nhờ báo của trường- thèm nhất muốn đọc sách chuởng Kim Dung chắc
là hay tuyệt .
- Ông viết gì mới không, nếu có, gửi cho tôi sách
đã in và bản thảo chưa in nhé. Mong lắm!
Tôi liền gửi ngay qua bưu điện và hai bản thảo mới viết cho Hiển, tôi nhớ
rõ ở bưu cục Đa Kao, nữ nhân viên
hỏi gửi thường hay bảo đảm- tất cả là
8000 đồng cước gửi thường.
Từ đó chưa nhận được thư hồi âm, thằng này
đọc xong thế nào cũng có ý kiến đấy.
Một chiều, một giọng lạ tự giới thiệu, cháu
Bình An con bố Hiển, bác có phải bácTường không? Nghe đến đây nổi da gà, hay Hiển không còn nữa- mà thật vậy- bác ơi
bố cháu ra đi rồi, bác báo tin bác An Chi học sư phạm với bố cháu , nay hành
nghề viết báo ở Sài Gòn, bác Khánh dạy chính trị Trường Nguyễn Ái Quốc- Thủ Đức , còn ai bạn
thân bố cháu , mong bác báo tin luôn thể.
Và cũng báo tin cháu Bình An ,
con gái bố Hiển đã đậu vào một trường đại học ở Hà Nội rồi.
Nhớ lại trong một lá thư viết trên giấy tập
vở học sinh, Hiển cho biết chú em ruột ở
Úc đã qua đời , bệnh ung thư. Hỏi tôi có
nhớ chú em này, một trong hai đứa
em trai Hiển di cư vào miền Nam- một đứatốt
nghiệp Cử nhân khoa học, được giữ lại trường thỉnh giảng Đại học Khoa học Sài
Gòn, sau bảy lăm nó vượt biên.
Thập
niên tám mươi, Hiển vào Sài Gòn tìm gặp được tôi ở đội xe búyt- tôi chở Hiển ngồi sau mô by lét cà tàng chạy khắp
phố phường. Và chỉ một lần duy nhất, thết được bạn ly cà phê đen bên quán cóc,
trên đường Phạm Ngọc Thạch, đầu hẻm nhà Trịnh Công Sơn.
Thời bao cấp, ai cũng nghèo và khổ cả,nên ít
cảm thấy khổ- Hiển khen có xăng chạy xe là oách
ra phết!
Đường vào huyện Quỳnh Phụ lùi quá xa rồi,
tôi vẫn muốn ngoái cổ lại nhìn,và mơ hồ
giả thiết được đặt chân đến đây, thế nào
tôi cũng tìm được cô giáo ,vợ Hiển- và nó gặp bạn Sài Gòn ra thăm bất thần thế này, hẳn vui mừng khôn xiết!
Bần thần ít phút sau ,tôi cũng nhận ra:
Hiển qua đời rồi, nó không còn tồn tại
trên đất An Bài nữa. Nó qua đời chỉ ít lâu sau ngày chú em ở Úc .Nó
mất chỗ dựa tinh thần và vật chất đó thôi ? Thuở sinh thời, Hiển rất lo tương
lai con gái, liệu cháu Bình An có đủ khả
năng vào đại học không? Hiển ơi! mày cứ
an tâm an nghỉ bình thản dưới kia - cháu Bình An, con gái mày đang học đại học ở Hà Nội.
-9 giờ sáng đến thị trấn Đông Hưng, hai
bên lề phố xá đầy bảng quảng cáo : BÁNH
CHÁY ĐẶC SẢN, ai qua Thái Bình nhớ mua về tặng bạn bè, gia đình làm qùa.
Ông Thành, cán bộ hưu trí, quê Ninh Bình,
vợ quê Hải Dương- công tác qua khắp miền châu thổ sông Hồng , kể vanh vách cho
nghe chỗ nào có thứ gì ngon, cái gì đặc sản của mỗi địa phương.
Qua Đông Hưng đến cầu Thái Bình, nhìn sang trái
đường vào Vũ Thư. Ông lại kể vanh vách chuyện làng Vũ Hội- nhà hai ba tấm mọc
lên san sát, hẳn ai cũng nghĩ là một thôn xã giàu có, nhà cao cửa rộng, nóc nhà
xây chóp chọc thẳng lên trời- lại là làng
chịu đau khổ tinh thần, làng không có đàn bà lại có trẻ con- vậy thì chỉ đám đực rựa
say túy lúy rượu chè.
Ông Thành chìa tờ báo xuất xứ Sài Gòn, cứ
đọc đi sẽ biết thế nào là LÀNG ĐÀN ÔNG:
“…
Khác nhiều xã nghèo thuần nông quê lúa,
con đường vào xã Vũ Hội (huyện Vũ Thư, tỉnhThái Bình) san sát những ngôi nhà hai ba tầng rất khang
trang, nhưng thật ngạc nhiên , khi hỏi một ông cụ hơn tám mươi ở thôn Phú Thứ
lại ngậm ngùi: Khoan ham cháu ạ, nhiều ngôi nhà cô quạnh lắm!. Vợ làm ô sin bên Đài Loan hết, trong nhà chỉ
còn những ông bố và những đứa trẻ.
11
giờ trưa tan học, cậu bé Nguyễn Đức H. (7 tuổi, học trường tiểu học Vũ Hội) lang thang đi bộ ba
cây số về nhà. Cửa cổng khóa kín, trong nhà im lìm. Cậu bé bỏ cặp sách một bên
ngồi dựa lưng vào tường đưa đôi mắt buồn ngó ra đường đợi cha. Phải hơn một giờ sau, bố cậu bé mới khật
khưỡng hơi men phóng xe về, đưa cho con chiếc bánh mì pâté khô khốc với mấy lát dưa chuột ngồi lủi
thủi ăn ở góc nhà. Vừa ăn vừa nước mắt ngắn dài, H. thút thít:.. từ
ngày mẹ đi bữa tối em sang bà ngoại ăn cơm, còn bữa trưa bố toàn cho ăn bánh mì.
Năm
2003, mẹ H. sang Đài Loan làm người giúp việc. căn nhà anh C. mới xây hai tầng
và gian nhà bếp lạnh ngắt đã khiến cha bé H.
lang thang suốt ngày, rượu sáng chè trưa. Thấy các gia đình khác có
những bữa cơm đầm ấm, mà nát cả ruột gan. Ngày nào thằng bé cũng hỏi bố ơi! sao
mẹ mãi chưa về.
Cũng
trưa hôm ấy bà C. gần đó chỉ biết lắc đầu khi không thể can nổi hai đưá cháu
nội và cháu ngoại đánh nhau, đã sáu năm nay, bà C. không có một ngày thảnh thơi
vì còn phải chăm sóc cháu thay cả con
dâu và con gái sang xứ Đài, bà mếu máo: mẹ chúng nó sang bên ấy
gửi tiền đều đều về cho bà cháu chi tiêu, nhưng đâu có biết hai đưá nhỏ cần hơi
ấm và sự chăm sóc của người mẹ hơn.
Mới
đây một số bà con xã Vũ Hội bàn tán chuyện con không nhận mẹ, cười ra nước mắt; anh Th. đưa đưa đứa con trai
bốn tuổi ( người thôn Bích An) ra sân Nội Bài đón vợ từ Đài Loan về quê ăn
tết. Máy bay hạ cánh, anh Th. Không còn nhận ra vợ mình: quần jean bó sát, áo hai dây hở nửa lưng, trên vai là
chiếc túi da xách đắt tiền. Đứa con khóc
ré lên: Đây không phải là mẹ của con!
và nhất quyết không cho mẹ bế. Phải mất
hơn một tuần sau, đứa con mới chịu sà vào lòng người mẹ: mẹ ơi mẹ đừng đi nữa nhá! /- Khi đi nó mới có một tuổi chưa kịp
nhớ mặt mẹ, nên không nhận là phải
thôi- vợ anh Th. tự trách mình và quyết
định không đi nữa. Hôm chúng tôi đến, vợ chồng anh Th. đang tất bật chuẩn bị
bữa cơm tối cho gia đình. Chị nói đó là
hạnh phúc giản dị mà chỉ có được sau những năm vất vả ở xứ
người.. ..” -
( trích TRẦN ĐÌNH TÚ- báo Tuổi trẻ- Tp. HCM )
người.. ..” -
( trích TRẦN ĐÌNH TÚ- báo Tuổi trẻ- Tp. HCM )
Tôi trả tờ báo, lại nghe ông Thành kể:
- Nhà cao cửa rộng, bạc lắm tiền nhiều từ
các chị em gửi về cho chồng , cô vợ sang xứ Đài ba năm trời mà chỉ gửi về có
một trăm triệu đồng thôi sao? Anh chồng
nghi vợ có thể gửi ở nơi khác; ấy thế là eo sèo cãi vã, ghen tuông đòi đưa
rau ra toà ly hôn. Có chị làm ô sin xứ Đài quen nếp sống xứ người không chịu trở về chung sống với ông
chồng quê mùa quê nhà , vì chống ăn xài quá mức, cờ bạc, rượu chè, trai gái tứ
tung, rồi gọi là giải sầu chính đáng
mà bất cứ ai trong Hội Lang Quân Có Vợ Xứ Đài đều làm như vậy cả. Ông
thử nhìn xem ảnh cậu bé tên H. đi học về in trên báo ,kèm theo phóng sự đang ngồi chồm hổm ngoài lề
đường trước cửa nhà đợi bố về,nhìn mới thấy thảm hại làm sao !?
Dọc quốc lộ
ranh giới tỉnh Thái Bình ,có con kênh đào kéo dài ngút tầm mắt, tôi
chẳng biết đến ranh giới làng xã nào thì chấm dứt –và khi đến cầu Tân Đệ ,thì con kênh đã chấm dứt
từ bao giờ rồi.
Tương truyền xưa kia vào thời Pháp thuộc,
bến Tân Đệ chưa có cầu bắc qua sông như
bây giờ, tất nhiên qua sông phải lụy đò với bất cứ ai, kể cả quan tai to mặt lớn đi đường bộ.
Có một sáng kia, ông Nguyễn Thế Truyền, con rể vua nước Bỉ về nước
An Nam, qua đò Tân Đệ cãi vã với tổng đốc, rồi chẳng biết duyên cớ nào, giơ tay
tát vào mặt ông Vi Văn Định. Báo chí
đăng tin, người ngưòi rỉ tai kể chuyện
cho nhau nghe , chẳng mấy lúc râm ran khắp xứ Bắc Kỳ đến cả trong xứ Nam Kỳ cũng có người được nghe kể.
Cho
đến thập niên sáu mươi thế kỷ trước, tôi
gặp lại nguyên chủ nhiệm báo Thân Dân-Hà Nội –và khi đó tôi là phóng viên. Bây giờ, ông Truyền kiếm sống độ nhật- bằng cách làm précepteur ( gia sư) dạy tiếng tây cho
mấy cô cậu quí tộc, trong một phòng nhỏ- tư thất ông Phan Khắc Sửu- ở khu chợ
Bàn Cờ.
Tôi đến nhờ ông đọc lại Sau
hai mươi năm của Nguyễn Đắc Lộc*- bạn cũ ông từ thập niên hai mươi. Hai chúng tôi rủ nhau đến quán Café
Năm Dưỡng –Nguyễn Thiện Thuật chuyện trò. Ông Truyền khen ông Lộc có chí khí, bạn viết
báo tiếng tây ở Paris với nhau, thân như
ruột thịt- nhưng không thể: bây giờ tôi không muốn trườn mặt ra, kể cả viết lách, dầu
chỉ là bài tựa. Tiện thể, tôi
hỏi chuyện năm xưa trên bến phà Tân Đệ,
ông cực lực cải chính tin vịt cồ như báo Le
Canard Enchainé (tạm dịch :Con
vịt buộc) đã đăng.
Lại có một bữa ăn trưa tại khách sạn Hoa Lư-Ninh Bình. Một toà nhà ba tầng bề thế, tầng trệt phòng
ăn, lầu một, hai phòng ngủ, sân trươc bãi đậu xe rộng thênh thang, chung quanh
vườn tược cây cối xum xuê.
Mới nhìn thấy hai gốc cọ lùn to đùng
lá xanh
mướt, tán rộng- tôi đưa máy lên
bấm vài kiểu- cọ nơi đây đẹp hơn nhiều , so với cọ ở đền Hùng- Phú Thọ. Hai gốc thông Nhật Bản cao vút, lá xanh mướt,
nhìn bắt mắt ngay, hẳn đất đai ở đây phì nhiêu, mấy gốc cây trong vườn chẳng
cần châm phân bón thì phải!
Phía
trước khách sạn Hoa Lư, một hồ nước rộng bao quanh, trên ngọn đồi có đền thờ, xa hơn là con đường đất
dẫn tới một phố đang mọc lên những căn nhà đôi ba tầng lầu, biệt thự có chóp đang xây dở dang, một
khu phố mới đang hình thành phát triển.
Giã từ Tam Điệp-Ninh Bình. Xe vào địa phận
Thanh Hoá ,với những địa danh :Bỉm Sơn, Nga Sơn, Hà Trung, Hậu Lộc, cầu Hàm
Rồng, Tĩnh Gia vv… cũng chẳng mấy lúc lùi lại
phía sau- bây giờ trước mắt đã là Cầu Giát-Nghệ An.
Bà mẹ Nam Bộ tám chục chẵn có mái tóc nhuộm
đen, cắt ngắn như đàn ông, hai tay nắm chắc thành ghế đứng dậy, xin phép có đôi lời trần tình. Cuộc xuyên việt đầy hứng thú, an toàn, lần
thứ nhất - sắp tới Hà Nội- một xe gắn máy
chở đôi lấn trái vượt xe ca ,thì anh Năm lách xe thắng kịp thời thoát
hiểm. Lần thứ hai- hai thanh niên chở
nhau đánh võng trước xe -thắng gấp lăn
-------
-------
* NGUYỄN ĐẮC LỘC 1897-1975 ( tự tử). Còn ký Mai Lâm, tác giả Mộng Sen hay Bông sen trong bùn ( tiểu thuyết, Hà Nội
1954), Thẩm Công truyện ( truyện dài
bằng thơ, Sài Gòn 1964), Hà Nội 100 năm trước ( truyện dài bằng thơ,
tựa bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm. Bản thảo hiện được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia ( Hà Nội). Chủ nhiệm
nhật báo Tân dân ở Sài Gòn sau năm
1954 vv…(Chú thích : Thế Phong)
kềnh trên đường chỉ cách xe ca chừng một
thước, anh Năm lại lách thắng kịp cũng thoát hiểm, không để xảy ra tai
nạn. Cảm ơn ông Trời!
Bây
giờ đề nghị cô bác, anh chị thế này, mọi người tùy hỉ góp năm chục, một trăm ngàn , gọi là qùa lót tay bác tài và mấy cháu phục vụ.
Mọi người đều giơ tay tán thành, bác sĩ
Kim mau mắn hưởng ứng, đề nghị bác tài nhận
40%, còn 60% chia đều năm phụ việc và nhân viên. Ai đồng ý xin giơ tay
biểu quyết- đa số rồi.
Đức giơ tay tình nguyện cầm mũ nhận thâu ,đếm tiền – cô Huyền thâu lại tờ nhà xe
xin khách phát biểu ý kiến, góp ý ,đánh giá năng lực phục vụ, từ
bác tài đến nhân viên, hình như tất cả
đều được điểm 10. Riêng tôi, ghi thêm vài lời cảm ơn nữ giám đốc Thanh Thảo, tổ chức
chuyến du hành xuyên việt an toàn, chu đáo- riêng vợ chồng tôi được về thăm Yên
Bái, Lạng Sơn.
15 giờ xe bắt đầu vào địa phận huyện Diễn Châu, qua vườn quốc
gia Pù Mát ,thị trấn Quan Hành tới thành phố Vinh-Nghệ An.
-Tối nay gia đình Nimbus Tourist ăn và ngủ tại Khách sạn Phương Nam , 7.. đường Nguyễn Thị Minh Khai-Vinh-nơi
đây phóng ốc ngả lưng ngon giấc, cơm chiều ngon miệng, trước cửa mỗi phòng đều
có một phích nước sôi-
bình thủy mầu đỏ Trung quốc – dành cho khách uống trà- một lệ có sẵn từ
thời bao cấp- nay còn thấy ở nhà hàng
Phương Nam , và vài thành phố ngoài Bắc
và phía bắc miền Trung.
MƯỜI: VINH- HỘI
AN.
Ngày thứ mười ba chuyến xuyên việt xuất
phát từ khách sạn Phương Nam
rất sớm. Một khách trong đoàn đẩy chiếc va li ra trước khách sạn giã từ anh chị
em, vẻ bùi ngùi.
-Chúc quí vị trên đường về Sài Gòn bình
yên.
Anh trở về quê, cách Vinh khoảng ba chục
cây số- hẳn không bao giờ quên được chuyến du
hành đẹp nhất trong đời.
Tôi lại như được giàu thêm cảm giác chia ly
như thế nào, dầu người bạn ấy chỉ cùng chúng tôi ăn trưa, ngủ chung khách sạn ở Quy Nhơn,
Huế, Ninh Bình, Hà Nội, Sapa , Yên Bái
vv.. trong suốt mười hai đêm. Lại nhìn tấm ảnh chụp đứng phía sau vợ tôi ở Chùa
Một Cột, anh chàng mặc áo pull đứng
tần ngần, nhìn đàn cá vàng lội dưới hồ.
Tạm biệt anh , chẳng nhớ tên anh là gì,và cũng khó có ngày gặp nhau lại.
Xe bắt đầu qua cầu Bến Thủy-chuyến về- xe từ từ dừng
trước IỐT-TRẠM THU PHÍ BẾN THỦY. Lúc đầu, tôi chẳng hiểu IỐT là cái
quỉ quái gì , sau thấy anh Năm xì
tiền đóng lệ phí cấu đường, tôi chợt hiểu ra- đó là cách phiên âm từ kiosque -tiếng tây.
Nước chảy dưới cầu Bến Thủy từ thập niên ba
mươi thế kỷ XX đã hoà máu loang cả một
dòng chảy- cuộc biểu tình đầu tiên xứ Trung kỳ, của 1500 công nhân xưởng chế tạo
diêm ( miền nam: quẹt) im lặng diễu hành, mặc cả với chủ về lương bổng. Và năm chục lính tập nã súng vào họ, sau đó
hùa nhau khiêng xác chết, người bị thương ném xuống sông. Và đúng là dòng sông này, tôi đang nhìn
thấy tận mắt đây.
“… Công ty khai thác gỗ tếch cung cấp cho xưởng chế tạo diêm ở Bến Thủy chừng700 thợ .
Chủ
trả lương công nhật, đàn ông 36 xu / ngày, phụ nữ 20 xu. Gạo 1 ki lô giá từ 10
xu tăng lên 17, chủ đã thỏa thuận với
Khâm sứ Trung kỳ là phải tìm cách tăng lương cho dân bản xứ.
Thấy
đám đông biểu tình đòi tăng thêm 6 xu/người/tháng, mà chủ đã cho tăng như vậy là quá nhiều. Người ta bán gạo
theo giá cũ, thì thực tế mới tăng cho công nhân 1 xu lương mà thôi. Như vậy
cuộc biểu tình không còn lý do gì đòi hỏi về kinh tế lẫn nghề nghiệp.
Ngày
1 tháng 5, từ 6 giờ sáng không một công nhân nào vắng mặt. Toà sứ được mật báo từ đêm trước ( 30
tháng 4) , sẽ có một cuộc tập trung nổi
dậy, bắt đầu xuất phát từ vùng nông thôn ở gần đó. Cuộc nổi dậy luôn luôn được tổ chức vào đêm
tối không trăng. Tốp đầu sỏ âm mưu bắt
đầu ngồi xổm ở bờ ruộng, trong khu rừng
rậm rạp, trong hầm tối- không dễ gì phát hiện được. Cảnh binh xục xạo trong các cánh đồng, rừng rậm, cả
trong hầm tối- chẳng thấy gì, cũng chỉ uổng công thôi.
Mặt
trời ló rạng, thì ở đâu lại túa ra khoảng1500 người nhô ra khỏi mặt đất tập họp
hàng lối qui củ, ung dung hướng về Bến Thủy.
-Bọn
này là tuị nào? có thật là không có công nhân nào trong xưởng máy tham dự biểu
tình không? Bọn này từ đâu tới? trong
làng xã hay ở đâu kéo về. Bọn chúng muốn gì?
Chẳng
ai trả lời chính xác được- mà chỉ nhìn
thấy 1500 người lặng lẽ, không cờ, khônghuy hiệu, không biểu ngữ- họ đi rất
trật tự có tốp hướng dẫn xếp đặt người biểu tình đi sát lề đường, dành chỗ cho
xe hơi chạy.
Người
ta khôngnghe thấy gì, ngoài 3000 bước chân đất rầm rập nện trên đường. Thanh
tra tây, Le Petit cùng 50 lính tập võ
trang súng ống, đạn dược, đã tới đường
cái lớn. Thêm huyện quan đi bên cạnh làm thông ngôn.
Đầu
tiên ra lệnh giải tán- họ không tuân lệnh-
lại ra lệnh buộc đầu hàng - nếu không thì bắn bỏ- huyện quan thông dịch
đúng lệnh ban ra từ thanh tra.
Đoàn
biểu tình hàng đầu hơi do dự đôi chút. Những người phía
sau chỉ nghe thấy lời nói truyền theo hàng xuống dưới, và hàng người vẫn tiếp
tục rầm rập trên đường- không nói một lời không tiếng kêu la. Và cách chừng 500
mét, thanh tra Le Petit lên tiếng
khuyến cáo đầu hàng( lần hai)-đoàn
người vẫn không dừng lại.
Họ
vẫn cứ tiến tới- từ phía nhà máy trông rất rõ- chủ tây nấp sau giậu sắt từ từ
xuất hiện trên bục. Lại nghe thấytiếng thanh tra Le Petit:
-Không
nói đùa, lệnh là lệnh, súng đã lên đạn-
chúng bay không chịu giải tán, tao ra lệnh bắn.
Như
để hỗ trợ lệnh ban ra – thanh tra tây lên đạn súng lục. Huyện quan thông dịch
lệnh thanh tra cho đoàn biểu tình.
Và
lúc đó, vài tên lính tập bị đám đông xô đẩy,
làm rơi lưỡi lê xuống đất- người hướng dẫn
đòan biểu tình nhặt lên. Vụ lộn xộn xảy
ra, khiến thanh tra tây bị thương nhẹ ở tay.
-Bọn
này định làm gì? Đám đông biểu tình muốn gỉ?
hay là chúng muốn tước khí giới lính khố xanh?
Chỉ
cần một khẩu trong 50 khẩu súng rơi vào
tay một trong số người biểu tình kia, tất nhiên sẽ dẫn tới cuộc bạo động đẫm
máu. Đám biểu tình này có ý định chiếm
xưởng máy không? Người ta vẫn thấy thợ
thuyền tiếp tục công việc, như không có chuyện gì xảy ra, hoặc chúng tiếp tay
với đám biểu tình bên ngoài?
Và đêm
bi thảm ở Yên Bái được nhớ lại- lát nữa
đây nhà máy có thể bị chiếm, thiêu hủy- người Pháp bị tàn sát, không chừng?
Thế
là thanh tra tây nổ súng khai hỏa. Lính khố xanh bắn huà theo thầy.
Người
ta nghe thấy tiếng kêu la hỏang hốt, người người ngã gục xấp mặt xuống
đất. Có người chỉ chạy được mấy bước,
rồi lăn ra, và cứ tiếp tục như thế- có người nhảy xuống ruộng ẩn náu, kẻ nhảy xuống hầm ẩn núp.
Vậy
đảng phái nào đứng sau lưng đám biểu tình yên
lặng này?
Người
ta kể: Đảng Cách mạng Tân An Nam, Đảng Quốc gia Việt nam, Đảng Thanh niên
Cách mạng, Đảng An Nam Độc lập, và cuối
cùng: đảng Cộng sản Việt Nam…
Tôi tóm tắt lại những gì nhà báo cấp tiến Louis
Roubaud đã nhìn thấy tận mắt, đến tận nơi và được chứng kiến, rồi viết lại
với tấm lòng yêu nước, thay cho dân An Nam bị thực dân Pháp bảo hộ.
Lượt đi, hướng dẫn viên đã thông báo, trước
khi đi Ninh Bình- tài xế Năm sẽ đưa đi thăm Làng Sen, Làng Trù ( quê nội, ngoại Hồ Chủ tịch ). Khi xe vào ranh giới huyện Hưng
Nguyên-Nghệ An: quê anh hùng Phạm HồngThái
giết hụt Merlin, toàn quyền Đông Dương, sang chủ toạ bữa tiệc, do một viên chức Pháp
tổ chức tại khách sạn Victoria, vào 8
giờ sáng ngày 8 tháng 6 năm 1925.
Và xác anh hùng người An Nam được dân chúng
Quảng Châu ,chôn trên đồi Hoàng Hoa Cương, với hàng chữ khắc trên bia mộ:
… Câu
chuyện này được ghi lại để vạn đại lưu truyền nhớ đến Phạm Hồng Thái. Bia này
được dựng vào ngày lành tháng tốt: tháng giêng năm thứ 14 Cộng hòaTrung hoa
Dân quốc.Bia đá do: Hồ Yên * ở Phiên
Ngung- tặng anh hùng Phạm Hồng Thái
nước An Nam .
-------
-------
( * HỒ YÊN, tên
hiệu của một gia đình vong gia quí tộc Hồ Hán Dân, thời kỳ xảy ra cuộc ám
sát-thì chức vụ khi ấy là tống đốc tỉnh Quảng Đông.)
Tôi đi lên
phía trước xe, ngồi ghế xúp đểdễ nhìn
bao quát quang cảnh huyện Hưng Nguyên ( cũng như lần qua Thái Bình, tìm cho được huyện Quỳnh Phụ-nơi ăn chốn
ở người bạn thân-Nguyễn Thế Hiển đã qua đới ở xã An Bài vào năm 2005)
Nhà cửa
huyện lỵ Nghệ An thuờng xây nhà trệt,
mái thấp, trên mái chặn những bao cát, chống bão táp mưa sa hàng năm. Hàng
chữ HUYỆN HƯNG NGUYÊN tô bằng xi măng từ rất lâu đời, đóng khung
trên auvent trước trụ sở Ủy ban
huyện. Bởi lẽ, tôi muốn quan sát thật kỹ,
nơi đã sinh ra Phạm Hồng Thái, người anh hùng trên hai mươi bốn tuổi để
lại phía sau người vợ trẻ hai mươi , cùng đứa con thơ mới ra đời, lên
đường mưu nghiệp lớn, chuyện không
thành, bị bắn rồi lao mình xuống dòng
Châu Giang trầm mình , sau thân xác được dân chúng Quảng Châu vớt lên ,và
chôn cất cùng 72 liệt sĩ trên đồi Hoàng Hoa Cương
được vạn đại luu truyền người anh hùng nước An Nam :
“… và Hoàng Hoa Cương, nơi có mộ 72 liệt sĩ-
trong đó có một Phạm Hồng Thái. Cây cối trên đồi xanh ngắt, rộng rãi - những
khỏang xanh cần thiết cho người chết và người sống mà Hà Nội giờ đây không còn
nữa. Đài kỷ niệmTôn Trung Sơn, tòa nhà
trắng kiểu Hoa Kỳ do Tưởng Giới Thạch xây có khắc ngôi sao Quốc dân đảng thật
lạ, lại không bị Hồng vệ binh phá hủy.Tôi thấy dòng Châu
Giang khi mới tới Quảng Châu. Nhìn dòng sông lớn chảy xiết, hai bên tòa
nhà cao tầng đèn xanh đỏ lập loè, tôi tự hỏi không biết ngày xưa, khi việc lớn
không thành, bị bắn tử thương, Phạm Hồng Thái đã lao mình xuống sông ở đoạn
nào?
Được biết người thanh niên liệt sĩ ấy là chú của chồng tôi, ông (cán bộ - NV thêm ) đối ngoại của Quảng Châu có vẻ rất nể trọng. Các bạn Trung quốc chỉ cho tôi khúc sông ở Sa Diện, nằm giữa đoạn đường đi từ nơi tôi ở- khách sạn Hoa Hạ- tới nơi chiêu đãi, khách sạn Thiên Nga Trắng.
Được biết người thanh niên liệt sĩ ấy là chú của chồng tôi, ông (cán bộ - NV thêm ) đối ngoại của Quảng Châu có vẻ rất nể trọng. Các bạn Trung quốc chỉ cho tôi khúc sông ở Sa Diện, nằm giữa đoạn đường đi từ nơi tôi ở- khách sạn Hoa Hạ- tới nơi chiêu đãi, khách sạn Thiên Nga Trắng.
Dòng sông lạnh buốt ngày nào, người thanh niên ấy bỏ
lại quê hương một người vợ trẻ và đứa con trai mới ra đời. Vậy mà ngay dưới thời Tưởng Giới Thạch, có
người dân Trung quốc đã vớt xác người Việt Nam hy sinh nơi đất khách, chôn cất
tử tế… tôi đã sống nhiều năm bên cạnh bà Phạm HồngThái , bà ở nhờ căn phòng phụ
của nhà chồng tôi khi ra Hà Nội. Một trong những phụ nữ hiền nhất mà tôi đã
gặp. Cho tới lúc đó, bà vẫn nghèo và vất vả. Không biết bà đã được tới Quảng
Châu thăm mộ người chồng mà bà đã mất từ
lúc mới hơn hai mươi tuổi chưa? Giờ đây nhìn ngôi mộ cô đơn của bà ở Bất
Bạt, tôi cứ nghĩ thật lạ, hai con người gắn bó đến thế mà giờ đây họ ở hai
phưong trời.
Dòng sông chảy xiết, tôi chợt nhớ tới khúc hát quen
thuộc, mạnh mẽ thường được hát từ thời Cách mạng tháng Tám:
Kià sông
Châu Giang còn lưu dấu máu thắm
của
bao dân năm xưa cướp chính quyền
Lòng muốn nhân dân Quảng Châu
quyết chiến đấu cùng quân gian tham đang sẵn oai quyền
Lời hát thì đã cổ, nhưng điệu nhạc mãnh liệt vẫn như
đang tuôn chảy với dòng sông tràn đây sức sống..” .
( trích TẦM XUÂN / Đặng Anh Đào - sách đã dẫn)
( trích TẦM XUÂN / Đặng Anh Đào - sách đã dẫn)
Vậy thì, Phạm Hồng Thái không phải sinh ra ở Bắc kỳ, cũng
không phải ném bom xong rồi nhảy
xuống sông trầm mình như Louis
Roubaud đã viết ( sách đã dẫn).Vậy
là, phải cảm ơn tác giả Tầm Xuân , đã
chỉnh lý sai sót gốc gác- anh hùng Phạm Hồng Thái bị bắn rồi mới lao xuống sông Châu
Giang, và còn được biết thêm đời sống ẩn lặng rất anh hùng của người
vợ.
Qua cầu
Nghèn , tới huyện Can Lộc- Hà Tĩnh- nơi chúng tôi tới thăm Ngã ba Đồng Lộc- mộ mười nữ liệt sĩ giao thông vận tải hy
sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam- hàng
chữ được khắc trên bia Đài kỷ niệm đầu tiên- trước khi vào Đài kỷ niệm chính ở
Ngã ba- nằm trên đồi Trọ Voi thuộc xã
Đồng Lộc.
Theo lời thuyết minh, mộ các cô thanh niên xung
phong được chuyển đi chuyển lại tới ba
lần, và trên mười năm nay mới chuyển hẳn về ngã ba này.
Tổ gồm mười
liệt sĩ anh hùng, tôi đọc trên mộ bia mười cô-có ba cô Hồ Thị Phúc, Nguyễn Thị
Nhỏ và Võ Thị Tần đều sinh năm 1944, và ít tuổi nhất là cô Võ Thị Hà sinh năm
1951, bị trúng bom Mỹ tử nạn đúng 16 giờ
chiều ngày 21 tháng 7 năm 1968.
Chi riêng Ngã ba Đồng Lộc vào năm 1968- ước
tính có tới gần ngàn lần bị ném bom và không dưới năm ngàn quả- trung bình
25/lần/tháng, mỗi ki lô mét vuông nơi đây hứng chịu ba quả bom tấn. Các cô bị bom vùi lấp dưới hố bom sâu như
chiếc ao cạn- hồn trinh nữ không biết giờ đây còn phảng phất đâu đây, nơi cánh
rừng tịch mịch, quạnh quẽ?
Lại ngắm
hai cây bồ kết xanh tươi ở phía sau mộ - dăm bẩy câu văn vần khắc trên bia: …Ngày bom vùi tóc tai bết đất / Nằm
xuống mộ rồi, mái đầu chưa gội được -của đồ Nghệ Vương Trọng.
Và, lại đưa
máy ảnh lên chụp hố bom lớn như cái ao ở phía trước Đài kỷ niệm- dưới trũng cắm
tấm biển ghi nơi trái bom đã ném xuống làm
chết mười cô liệt sĩ giao thông.
Một số địa
danh lướt nhanh : Cẩm Xuyên, Kỳ Anh…rồi lùi
cũng rất nhanh về phía sau. Bây giờ
trước mắt : Quảng Trạch-Quảng Bình, và chuẩn bị :
Bước
tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Đó là thời Bà
Huyện Thanh Quan tức cảnh sinh
tình tới Đèo Ngang- và bây giờ đây, tôi sắp được nhìn thấy nơi đó- bỗng dưng
nghe hướng dẫn viên thông báo:
-Sẽ không
leo lên đường trên núi như Bà Huyện
Thanh Quan khi xưa dừng chân làm
thơ- bây giờ trên đó cũng xơ xác lắm, có
gì thơ mộng đâu? Đi lên đỉnh nuí vừa xa,
vừa tốn xăng dầu, mất thời gian- nên
gia đình Nimbus thông
cảm- anh
Năm ơi, cho xe chạy đường dưới chân núi
cho lẹ.
Thôi cũng
đành vậy, giả thử cô Thu Vân San José hoặc Lê Duyên đang chu du Anh
quốc, hỏi: thế anh chị đã leo lên Đèo Ngang chưa, vào lúc mấy giờ, ngày nào
,thời tiết ra sao- có biết chỗ nào bà huyện Thanh Quan đã dừng chân- từ trên
núi ngắm biển rộng sông dài tức cảnh ngâm nga:.. bước tới ĐèoNgang
bóng xế tà...
… thì cũng đành ba
hoa xích thố, này nhé Bà Huyện lên
đèo thì trời ngả về chiều, khoảng bốn,
năm giờ gì đó- cô Lê Duyên đang ngồi uống
trà sữa, ăn bánh ngọt, theo đúng lệ dân xứ sương mù- còn Thu Vân đang dạy nhạc đám học trò Thung lũng hoa vàng- anh chị đang đứng đây nhìn trời, mây, sông, biển- lại chẳng có một câu vè
nào ra khỏi miệng? Và bây giờ đèo Ngang
vẫn còn cây chen đá, và chẳng còn nhìn thấy cành lá nào chen hoa? Không lực
Mỹ đã cày xới đất này, thả bom bi, bom
nổ, bom chùm, bom khai quang… làm gì còn hoa
tươi tốt nở trên cành!?
Nói thì nói
vậy - cho người ở xa nghe lọt lỗ tai thôi- vậy ba bông hoa nhỏ xíu có hai cánh
đỏ chót mọc tách lên từ một kẽ đá rất nhỏ từ ta luy đá hoa cương Ngã ba Đồng Lộc, thì phải giải thích sao đây?
-11 giờ trưa
đến Bố Trạch. Và phóng tầm mắt nhìn ra biển - chẳng biết Cao Lao Hạ nằm chỗ mô, nơi
tê sinh ra Lưu Trọng Lư-nhà thơ tiền chiến, tác giả: con nai vàng ngơ ngác / đạp trên lá vàng khô / . Có
người nhận
định tác thiệt con nai vàng ngơ ngác
ở xứ Phù Tang -chứ không đạp tà tà trên đỉnh Đèo Ngang đâu- rất dễ bị bé cái lầm!
-11giờ 15
trưa: thị trấn Hoàn Lão- tên nghe hay
chi lạ- tôi chỉ mới được nghe cải lão
hoàn đồng, chưa hề nghe địa danh
Hoàn Lão. Liệu địa danh này có ý nghĩa ẩn chìm nào chăng? Chẳng hạn Tu Bông-Khánh Hòa, có kẻ cho rằng quan
công sứ từng thốt ra cửa miệng : tout va
bon!
Lại được
nhìn bảng chỉ dẫn lối vào động Phong
Nha-Kẻ Bàng.- cách đây khoảng 40 cây số, được công nhận là di sản thiên nhiên
thế giới đã được bốn năm. Và phóng viên
báo Sài gon -giải phóng so sánh:
“…Bốn năm chẳng
là gì với sự kiến tạo 400 triệu năm của di sản này. Tuy nhiên trong bốn
năm của thời đại bây giờ được tính bằng vàng từng giây từng phút. Bốn năm đủ để con người làm khối việc nhưng ở
vùng đất này chuyện đất đai, quy hoạch, đều căn cứ vào hai chữ nhờ trời. Rất
lạ!”
( trích MINH PHONG - báo Sài gòn- giải phóng- năm 2006.)
( trích MINH PHONG - báo Sài gòn- giải phóng- năm 2006.)
Vậy lạ như
thế nào, nhà báo kể rằng ở Phong Nha-Kẻ Bàng đang có phong trào bán đất sang
tay. Dân chúng xã Sơn Trạch đang cất lên hàng trăm căn nhà tạm, lợp mái lá
không vách, nhà chỉ có mái, trống huơ, trống
hoác- họ mong đợi sau khi quy hoạch sẽ bán đất giá cao- rồi lại nghe tin đồn sắp
có đường mở rộng từ đuờng Hồ Chí Minh
vào tận Phong Nha-Kẻ Bàng.
Nhìn một
thủy đài to đùng được dựng lên bên bờ
sông Son, tốn hàng bốn tỷ đồng- nay trở thành đồ phế thải- dân chúng đặt tên TRÁI BẦU KHÔ.
Rồi đến dự
án du lịch sinh thái có diện tích khỏang 50 héc
ta của Công ty Phát triển văn minh đô
thị, sau mấy năm khởi công, nay chỉ còn lại cây trụ CỘT ĐÁ HỒ ĐỒ mọc lên
sừng sững ngắm trời mây, sông nước
bên bờ sông Son. Thân cột đá như thân
cau, dây trầu sắt quấn quanh lên tới ngọn- trên đỉnh có bốn nhánh lá sắt như
canh bom.
Còn trung tâm du lịch sinh thái có
những toa lét cảm ứng, khách giơ tay vào
bồn, nước tự độngxả, rút ra tự
động tắt- giữa núi rừng hoang vu , rất it khách. Công việc làm của một số nhân viên là bán vé
lẻ cho du khách thăm hang động mà thôi .
Dân chúng đặt vè mang tính chất phúng thích chính trị :
Phong Nha có trái bầu khô
Có cây cột đá hồ đồ mọc lên
Hướng dẫn
viên có lời bình:
-Nhờ đọc
phóng sự phóng viên báo Sài gòn, cháu mới được mở rộng tầm mắt- để mỗi lần đưa
khách vào đây mới biết trả lời tại
sao lại vậy?
-14 giờ đúng
đến cầu Hiền Lương- và kia là sông Bến Hải lịch sử có đôi dòng.
Chúng
tôi xuống xe, trời nắng như lửa đốt xém
mặt mày- vội chạy tới chụp ảnh cầu Hiền Lương phục chế, cầu này chỉ để khách đi bộ , còn
cầu mới xe qua lại rầm rầm.
Chú Ba trong nhóm ông Đặng phát biểu khơi khơi
:
-Cầu phục chế là cầu
mới- còn cầu mới xây là cầu mới làm
lại – tôi piết thật mà!
Chẳng thấy ai ngỏ lời tranh cãi ăn thua
đủ với chú Ba, có lẽ nói ngang ba làng cãi không lại .
- Cầu phục chế
là
cầu Hiền Lương cũ-mới- còn cầu Hiền
Lương mới mà chúng ta sắp đi qua là cầu Hiền Lương mới-mới- tôi nói với ông Đặng vậy.
Người cười lớn
tiếng nhất :hướng dẫn viên Tua.
Mặt trước
cầu cũ phục chế mới ở hướng bờ bắc-
một bảng lớn sơn xanh, chữ trắng ghi:
PHỤC CHẾ CẦU HIỀN LƯƠNG
XÂY DỰNG NĂM 1952-
CHIỀU DÀI: 8M / RỘNG : 3,28M
-Cầu Hiền
Lương cũ có 894 miếng ván ngang lót mặt cầu-nay phục chế còn 873 hay 874
miếng-tôi lấy sổ tay ghi đúng vậy.
Qua cầu sang hướng
bờ nam đến Cồn Tiên –khu DMZ- khách phuơng tây dừng lại chụp
ảnh, quan sát, ghi chép, quay phim, đi bộ ngắm cảnh- có người còn tìm một chỗ vắng vẻ, đứng nhìn ra xa đang suy ngẫm điều gì đó rất
mông lung. Dieu seul le sait! (Có Trời mới biết!)
-14 giờ 5 chiều đến Gio Linh-Quảng Trị.
Tôi hát khe khẽ nhạc điệu ca khúc Bà mẹ Gio Linh-Phạm Duy, thời kháng
chiến đi xa hơn nửa thế kỷ. Bây giờ đây, tôi
đặt chân lên mảnh đất máu loang thẫm đỏ -mầu đất nâu đen.
-6 giờ
chiều, bác tài đậu lại châm dầu
tại Trạm xăng dầu Ngự Bình-Huế. Mọi
người bước xuống xe đi bộ thư giãn, và có vị
lại thích đi xa hơn toa-lét, vào bụi
rậm tưới cây, hoa lá đất Thần kinh.
Sẽ không đi đuờng hầm nữa, lần này leo đèo Hải Vân để bà con, cô bác
ngắm Hải Vân quan và đường đèo rồng rắn
thật đẹp
và cũng thật hiểm nghèo. Tới đỉnh trời tối sập, chụp dăm pô cũng
chỉ cho có- chẳng biết hiệu quả ra sao-
chỉ được thoải mái là không bị hàng rong bám quanh chèo kéo
mua hàng như ban ngay.
-19 giờ 30 tối mịt mờ đến Vĩnh Điện-Quảng Nam –nhìn
sang hai bên đường xem có tìm được quán cà phê của nhạc sĩ Đynh Trầm Ca? (nhất định xài Y
dài-khác Trần Huiền Ân-Tuy Hoà
ưa thay Y dài bằng I ngắn) .Nhạc
sĩ vừa in nhạc vừa in thơ, sau bao năm
trụ tại thành phố Bác, gom góp ít của nả, dắt vợ con về quê- bán quán kế sinh
nhai thường nhật.
Tự hỏi thôi, anh có vợ rồi- vợ chính thức đầu gối tay ấp hẳn không phải cô chủ tiệm may Hà Lam-Thăng Bình- rất xinh
gái xưa kia- nay đang cầm kéo cắt may dưới ánh đèn huỳnh quang – cửa hàng cô
đối diện quán cà phê nhạc- nhớ thuở dậy
thì làm chết bao chàng trai say đắm!
Có một lần đi đường Hồ Chí Minh chạy thẳng ra Huế, qua đèo Lò Xo, ta luy vách núi chân đèo Ngọc Linh đổ ập xuống đường- và thợ làm đường tư vấn-không
thể ra Huế- bởi A Roòng đã bị lấp đường, vậy hãy qua Khâm Đức đổ xăng, men tỉnh
lộ Hiệp Đức-Quế Sơn ra Thăng Bình, Đà Nẵng , sau cùng cũng tới Huế.
Chúng tôi tới Hà Lam thì tối mịt.
Lái xe Vân thấy bên đường Hà Lam có
quán cà phê sáng đèn, bác tài gợi ý vào ăn mì Quảng dằn bụng, đi tiếp Bà
Nà ngủ đêm, sáng sau leo núi Bạch Mã, ăn trưa Huế, 6 giờ tối về Nha Trang, hôm
sau trở về Sài Gòn.
Ba chúng tôi vào quán cà phê, chủ trạc
bốn mươi ngồi chung bàn hỏi chuyện từng
khách. Nhìn tôi, ông quyết đoán: cụ trẻ
dáng nghệ sĩ tợn- thế là ông đem chuyện cô chủ Hà Lam kể vanh vách.
-Nào có nghe danh nhạc sĩ-nhà báo-nhà giáo Bên
Trời Sao Sáng chưa? Ông ta chỉ hớp đôi mắt cô ta một lần ,sáng tác được ngay
ca khúc Thu Lam tuyệt hay. Mà không phải chỉ hai ba nhạc sĩ mê đâu nghe, còn dăm chàng nữa ,nhận
được cái liếc âu yếm ban đầu ,sau đều làm nên sự nghiệp cả.
Ông lại
kể tiếp đất này dữ lắm, lính Quốc gia sợ mặt trận này hết biết, đất này
nhuộm máu chiến sĩ hai phía chảy loang cánh ngập đồng lúa đỏ Hà Lam.
Tôi ghi nhận- gọi trả tiến: ba ly cà phê đá, ba
bát mì Quảng -chưa dứt tờ giấy bạc mệnh giá năm chục nghìn!
-Ôi sao lại khổ thế này, chưa thấy Phố Cổ mà chỉ gặp Phố Khổ thôi!
Ông Thành than như bọng- bác tài không
thuộc đường, trời tối mịt mờ-đường Cửa Đại dài hun hút, đen đường chỗ sáng, chỗ
lu- chẳng biết khách sạn Green Field
nằm chỗ mô chỗ tê khó khiếm rứa!
Hướng dẫn viên xuống hỏi đường, người này
chỉ lối này, bác tài tưởng chỉ đúng, hăm hở cảm ơn. Xe chạy mãi, hết đường nhựa
sang đường đất, vậy lạc đường thật rồi.
Anh Năm
đậu xe lại- phụ xe chạy vào một biệt thự gần đó, hỏi chủ nhà cho chắc
ăn- vậy là đã đi lạc khoảng hai chục cây số- xe trở đầu chạy thẳng hướng biển
Hội An.
Đèn đường, đèn nhà sáng choang, trước
mặt bây giờ mới đúng khách sạn hai sao Green Field- bữa cơm tối nay dở mấy cũng
ngon miệng- ai cũng đói bụng- nhìn đồng hồ đã 9 giờ đêm.
Khách sạn hai sao đúng tiêu chuẩn, phòng ốc hiện đại, hồ bơi nước xanh lơ mát
mắt, giường êm, nệm trắng, lại có vài bông cẩm chướng trải trên đầu giường như chào đón cô dâu, chú
rể- thật sự giờ này được gỉải tỏa nỗi khổ tìm phố cổ- mình tôi uống cà phê đen
thơm lựng , rung nhịp chân nghe bản Greenfield,
sao hay đến vậy !
MƯỜI MỘT: HỘI AN -NHATRANG -SAIGON.
Tối qua, khách sạn phố cổ dành cho một
phòng thật ấm cúng, đủ tiện nghi, nhất là được dìm thân xác buị bậm trong bồn
nước nóng như được vỗ về êm ái.
Chẳng bù
hơn mười năm trước, theo chuyến du ngoạn chi hội Phú Thọ Hòa ,thân xác
bị đoạ đầy ngồi lên giập xuống như con choi
choi, đầu đụng trần . Khi tắm mở vòi hết
cỡ, nước chảy từng giọt chực chờ xi nước
đái trẻ. Ngồi trên xe, một cô trẻ tuổi-
tên Tường Vân- thờ phượng ở Hội thánh Trương Minh Giảng hỏi- sao chú chịu đựng
tài thế- bèn vênh váo thành tích tham gia
cách mạng 10 năm trên xe búyt * đây
là chuyện nhỏ. Cũng chẳng thèm kêu ca, đăng ký sớm ngồi trên, già cả được ưu tiên- tuy nhiều
nhiều tuổi, tóc hớt trọc, dáng khoẻ mạnh, tính tình lấc cấc- nên hội thánh xếp
loại thanh tráng cho ngồi băng
chót. Cô Tường Vân bày tỏ - vậy chú cứ nên cảm ơn Chúa đi - kể cả
hanh thông hay bị bức bách- đây đích thị
ý tồi quản nhiệm lại nhân danh
ý sáng Chúa !
Đi
đường đã mệt, cơm tối xong, quản
nhiệm tập họp con cái nhóm hát thánh ca,
đọc một đoạn kinh thánh, nghe truyền đạo lên giọng rabi** chia xẻ.
Thường ra chỉ vợ tham dự và tham gia hết
thảy buổi nhóm, còn tôi bữa có bữa không.
Vợ nhòm về thấy chồng nằm ườn trên giường, phê ngay- tin chúa
1979 đến nay vẫn như tình trạng con
đỏ- con đỏ chỉ uống được sữa-
chưa tiêu hoá nổi thức ăn rắn.
Đó là câu trách móc nặng nề đối với Cơ đốc
nhân chưa làm tròn phần vụ- nghe đủ , tôi vẫn vờ nhắm mắt. Cón nữa, đã là tín
hữu Cơ đốc thấy cái gì dường như bất
khiết
* Rabi:
tiếng cổ Do Thái gọi là thầy **
trong hồ sơ công nhân viên chức có hạng
mục ghi : gia nhập cách mạng từ bao giở?
phải tự biết tránh, thân thể đền thờ
thánh không thể tự làm ô uế- dầu kinh thánh không chỉ rõ ra, anh hút thuốc
lá trong hội thánh là vấp phạm, chẳng hạn
vậy.
Trên xe, chẳng tín hữu nào bập bùng khói thuốc, trừ tài xế, phụ xe thở khói phì
phì- lý do chính đáng; hút chống buồn ngủ, đảm bảo sinh mạng hành khách.
Khi tôi định châm lửa hút thuốc, cô Tường Vân ngồi cạnh không
nói gì, chỉ nhăn mặt, tay bịt miệng- vậy
tôi đã gây vấp phạm anh chị em trong Chúa - hơn nữa có sự hiện diện vợ
ngồi ghế xúp hàng trên , cũng bị mất
mặt, như vậy lại càng không thể tha thứ!
Cúi đầu cầu nguyện Ngài giúp đỡ con cái
lúc gian truân kêu cầu - thì Ngài sẽ không bỏ qua đâu.
Sáng sau, ngồi quán ở Đà nẵng, quyết tâm uống
cà phê không thuốc lá- thế rồi cơn thèm dấy lên, tôi ngáp vặt liên hồi. Vợ hỏi
, ngáp gì mà giống hệt người nghiện xì
ke ma túy vậy?
Về lại Sài Gòn, không còn hút thuốc nữa- vậy cuộc đi chơi cùng anh chị em Phú Thọ Hoà giúp bỏ thói hư, tật
xấu một
cách nhưng không - mà từ lâu tôi đã không thể.
Lời đầu, cảm
tạ Đấng Christ.
Lời sau, cảm ơn tác giả viết bài dưới
đây.
TRƯỚC MỘT BAN THỜ
bài viết: CAO MỴ NHÂN
Không
phải kể chuyện đời xưa, song các cụ ta đã có câu rằng không có XƯA thì làm sao có NAY - Ví như hâm ngôn có kiêng
có lành, hay ít nhất là ĐI với BỤT mặc áo CÀ SA đi với MA mặc ÁO GIẤY vậy.
Nói
huỵch toẹt ra rằng, xưa nay trong CHỐN
BỤI HỒNG có nhiều điều, lắm chuyện mà
như sự tình cờ, nhưng đúng là bộ máy huyền vi sắp đặt của Trời Đất ấy.
Ông
bạn THẾPHONG thời đệ I cộng hoà, nhà văn phê bình nổi tiếng cao bồi, anh ta luôn luôn thắt cà vạt trễ xuống gần
thắt lưng, nhìn xa giống như anh tự chui đầu qua một vòng dây thòng lọng-
THẾPHONG hầu như chẳng nể nang ai, kể cả phụ già và phụ nữ trong làng văn nghệ
trước năm 1975.
Người
ta, tức là bạn và người quen trong lòng hơi ngại, nhưng ngoài mặt vẫn phải làm
tươi, khi va chạm tầm nhỡn của THẾPHONG.
ThếPhong
ưu ái nhắc đến tên trên báo chí, thì chẳng ai vui vẻ tí nào, vỉ vẫn là chuyện
làng văn, đâu phải bè phái xôi thịt mà hơn thua, dao thớt…
Nói
thế không có nghĩa là Thế Phong du đãng đến nỗi phải kiêng dè, bởi lẽ đôi
khi Thế Phong cũng đã thầm nuốt tủi, gạt lệ… cô đơn nơi góc tâm hồn anh.
Thuở
đó, một lần tôi bắt gặp Thế Phong đứng lặng trưóc tượng CHÚA đang giang tay
trên thập tự, anh đi tìm cho anh một đức tin để an ủi, khích lệ ở nhà thờ Tân
Sa Châu.Khi tan lễ, Thế Phong nói rằng:
-Người
ta bảo tôi cứ đứng yên trước một ban thờ, thế nào cũng tìm được một ĐỨC TIN.
Tôi ở Lăng Cha Cả này, thì đến đây gần nhất, tôi muốn thử xem đức tin có vào
mình không?
Tôi
làm bộ chăm chú hỏi:
-Anh
thấy trong người thế nào, khi anh đứng trước CHÚA CỨU THẾ từ nãy giờ?
Ánh
mắt Phong hừng lên, lẫn lộn ý bất khuất với nỗi tuyệt vọng, pha chút tự ái, anh
sợ tôi cười anh, vì anh
muốn duy tâm, anh bất lực cuộc đời
nên muốn dựa vào tôn giáo để sống cho có
ý nghĩa chăng?
Bấy
giờ, tôi rất mừng, nếu THẾPHONG tìm được
niềm tin, còn hơn cứ tiếp tục với cái đầu trống rỗng trên một bao tử lép
kẹp,thì… khổ nhất cuộc đời rồi!
Chính
biến năm 1975, bạn bè nghĩ rằng Thế Phong sẽ thích hợp hơn với xã hội cộng sản,
vì mặc nhiên liệt anh vào đội ngũ vô sản và vô thần, bởi lẽ bản thân anh không có chút vốn liếng và chẳng bao giờ anh thốt được tiếng TRỜI ƠI hay
MÔ PHẬT gì cả.
Sau
mấy năm học tập cải tạo, tôi trở về thành phố, cuộc sống không biết nên bắt đầu
lại bằng cách nào, tôi cảm thấy bơ vơ, buồn tủi, nhìn ra thiên hạ, toàn những
bộ mặt không quen, tôi chưa có ý nghĩ đi tìm một tình thương yêu trước một ban
thờ tôn giáo. Những buổi trưa, nghe tiếng vượn hú từ Sở Thú vọng qua sông, tôi đang ở sát bờ sông Thị
Nghè, tâm hồn tôi tan nát chi lạ!
Bỗng
có tiếng nói nghe rất quen, dù đã bao năm xa cách:
-Cô
M, ơi, hôm qua nghe tụi nó nói là cô đã đi cải tạo về, tôi đến thăm đây.
A,
té ra nhà văn Thế Phong vẫn còn đây, anh ta không di tản, và không biết có phải
đi học tập không?
-Lâu
quá nhỉ, không ngờ gặp lại anh.
Anh
ta vẫn giữ nụ cười khinh mạn xưa, nhưng nay đôn hậu hơn, anh thấp giọng:
-Tôi
đến để thực lòng khuyên cô hai điều: thứ nhất, còn ở đây thì đừng viết lách gì cả, dù ca tụng hya đả phá. Thứ
hai, tối mốt vợ chồng tôi mời cô đi thăm
nhà thờ TIN LÀNH ở đường Công lý, cô nên đi, vì nếu không, cô se rơi vào tình
trạng tôi thuở trước.
-
Tôi bị giao
động mạn bởi hai điều vừa tuyên bố, dù Thế Phong không là gì cả, nhận định của anh
vẫn thật đúng với đa số những người Sài Gòn cũ khi sống dưới chế độ cộng sản.
Những năm kế tiếp, tôi càng khâm phục Thế Phong ở thái độ không cầm bút và nhất là yên lặng ĐỨNG TRƯỚC MỘT BAN THỜ.
-
Ba người
chúng tôi ngồi cùng một dãy ghế đầu tiên nơi nhà thờ Tin lành Báp
tít Ân điển, thỉnh thoảng tôi phải liếc
sang vợ Thế Phong để làm theo những cử chỉ của chị, lời cầu nguyện dân gian đùa trong ngoại đạo xưa: ai làm sao thì tôi làm vậy, khiến tôi trở thành quê mùa và ấu trĩ.
-
-
Mục sư nói
câu gì tôi không kịp nhớ, mọi người lặng
lẽ, bỗng tôi thấy anh chị Thế Phong nói như thổn thức về những chuyện riêng
trong nhà, tưởng không đáng kể ra, không
phải nói thầm vơi CHÚA, mà như nói cho cả dãy ghế sau cùng nghe. Tôi không thể bắt chước được nữa, tôi lại
ngạc nhiên là cách tôi chưa đầy một thước, Thế Phong đang đứng gục mặt xuống
cầu nguyện thiết tha, anh quên cả vợ anh bên cạnh, và nhất là không nhớ đến
sự hiện diện lạc lõng của tôi lúc bấy
giờ. Tôi nghe được tiếng của anh như tự đáy lòng thốt lên: CHÚA ÔI rồi lại CHÚA
ÔI.
- Thiếu đường
tôi ngã bổ người ra, một Thế Phong bất trị xa xưa, nay đã tự xếp hàng dưới chân
Thiên Chúa. Rồi bản thánh ca vang lên,
với đủ giọng thanh trầm, trong đó giọng Thế Phong hát thật ngây thơ, trong
sáng.
-Việc khắp
nơi, thuận ý CHA – Cuộc sống nơi đây, nay
ra sao – đừng quá lo- việc ta thấy trước mắt mỗi ngày- đều theo đúng thánh ý an bài… vv..vv…
- Tất cả mọi
người đều ngồi xuống, tôi vẫn còn đứng
nguyên nhìn Thế Phong đổi lốt! Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, Thế Phong
đã tách rời … tục lụy từ bao giờ, Thế Phong thánh thiện, xa vời…
Tan lễ, thay
vì tìm hiểu trở về ĐẠO, tôi cảm thấy bơ vơ chi lạ, tôi suýt khóc mấy lần, khi
vợ chồng Thế Phong cứ vui vẻ vinh danh Thiên Chúa bên tai tôi:
- Cô M. ơi,
lúc đầu anh chị chẳng có gì đâu, như M. biết, anh Thế Phong rồi chứ gì, anh ấy
làm sao có thể tin được những điều trừu tượng, nhưng nay anh ấy đã chịu phép trước CHÚA, TIN CHÚA, cuộc
sống đổi thay ngay. Anh chị không có gì cả, nay 5 chiếc xe đạp,1 xe gắn máy,
một cửa hàng mũ ở chợ Tân Định, cô M.
phải có ĐỨC TIN.
- Nước mắt tôi
đã trào khỏi khoé mắt, bây giờ tôi lại không muốn khóc trước mặt Thế Phong, như
ngày xưa Thế Phong không muốn tôi hiểu
lầm anh tuyệt vọng, phải đi tìm đức tin nơi nhà thờ Tân Sa Châu.
- Bây giờ tôi
là kẻ lạc loài đứng bên ngoài tất cả .
- Tôi sống lang thang ở quê nhà hơn mười năm, rồi sang Mỹ. Tới tận cái nôi của Tự Do mà tôi vẫn không ổn định được tâm hồn. Hoá điên mất nếu không có đức tin, tôi phải tìm đến những ban thờ.
- Tôi sống lang thang ở quê nhà hơn mười năm, rồi sang Mỹ. Tới tận cái nôi của Tự Do mà tôi vẫn không ổn định được tâm hồn. Hoá điên mất nếu không có đức tin, tôi phải tìm đến những ban thờ.
-
-Thưa Mục sư,
tôi tin là có Thượng đế lắm chứ, không có Trời ai ở với ai, lưới Trời lồng lộng, nhưng giữa lúc tôi đi tìm một đức tin thực sự, thì tôi bị
ngộ nhận là tìm ĐẠO để kiếm lợi cho ĐỜI,
nên tôi xin phép, cứ tạm chưa vào ĐẠO để khỏi mang tiếng với ĐỜI.
- mang tiếng
với ai, với CHÚA hay với người ĐỜI.
- Thưa Mục sư
với người ĐỜI.
- Mọi
người đều do Chúa tạo nên, không phỉnh
Chúa là được rồi, nhưng phải có lời TIN CHÚA thốt ra chứ, ngay đến vô một tổ
chức, một đoàn thể, vẫn phải có đơn xin gia nhập, có giây phút tuyên thệ. TIN CHÚA nói chung thì ai chẳng tin, QỦY nó cũng tin CHÚA nữa là người,
phải không?
Tôi
chợt nhớ lý luận của SATAN ( Sa tăng), ngày xưa tôi đọc được ở một tác phẩm
Trung Đông
-Mọi
người, cả Thiên Chúa nữa, đều phải cảm ơn TÔI vì Thượng đế, thì làm sao có sự tôn
thờ Ngài. Nên đừng thoá mạ và tiêu diệt tôi, nếu tất cả mọi người đều thánh
thiện như ý CHA, thì lấy gì so sánh, lấy gì thần phục, cải tà qui chính nữa
đây.
Đó
là chuyện ở Thiên đường- còn ở chốn bụi hồng này- nếu tất cả chúng ta đều thánh
thiện, sự đơn điệu cũng đi đến buồn tẻ.
Chẳng còn chiến tranh để kêu gọi hoà bình, chẳng còn mục tiêu phấn đấu
đi lên, hướng thượng gì cả.
Sự
trống vắng trong tâm tư, suy thoái niềm
tin, là ở cả hai mặt dư thừa và thiếu thốn.
Khi
bề ngoài đã đầy đủ quá rồi, người ta khao khát sự cứu rỗi của linh hồn, để
không bị trả lời trước CHÚA về những tội lỗi đã làm.
Có
lúc cuộc sống vật chất khó khăn, người nghèo khổ cảm thấy bất lực trước áo cơm,
cũng phải tìm Thượng đế kiếm chỗ dựa cho tâm hồn, nội tâm yên ổn, quên đi những
cái bất công xã hội, hy vọng tương lai khá hơn.
Thế
thì, trở lại vấn đề BỤT vẫn là BỤT, mà MA vẫn là MA. Cái khó là MA phấn đấu lên
thành BỤT, còn BỤT có lỡ chân lọt xuống cõi MA, thì cố gắng giữ gìn tấm áo CÀ
SA cho sạch sẽ, thơm tho, chớ thấy ÁO GIẤY lộng lẫy mỹ miều mà vội KHOÁC.
Một
ý kiến nữa là, ta đối xử với nhau cho rành rẽ, tế nhị , đối với người tốt thì
cần chan hòa, thân ái, còn đôi với kẻ xấu thì phải KHOÁC ĐỒ MÃ mà hành hiệp
thôi.
Nhưng
cái ĐẸP NHẤT trên đời, không phải là may mắn có một tiệm Mũ như Thế Phong ở Saigon, để muốn đội một
chiếc mũ nào cũng được, mà phải soi gương, xem thử chiếc mũ nào đội vào hợp với
khuôn mặt mình, để khỏi tốn tiền mua lộn mũ, có khi chiếc mũ làm cho mình già
đi hay trẻ lại, dữ tợn, hoạt đầu, lố bịch hoặc mũ che lấp đôi tai thì cũng tệ.
Trong
cõi trần ai cuả chúng ta có rất nhiều SATAN, nhưng vẫn kém SATAN của Thương đế,
bởi vì SATAN của Thượng đế đã chiếm một ngôi vị độc tôn, tức là ở đời này chỉ
có sự tương đối mà thôi. Mới tương đối mà đã phức tạp thế, nếu tuyệt đối thì
qủa đất này nổ tung.
Chúng
ta hãy cầu nguyện cho sự tương đối thiên
vị, bớt SATAN, thêm THẦN THÁNH, để xã hội bình yên và thiện mỹ hơn.
CAO
MỴ NHÂN -
(trích CHỐN BỤI HỒNG - Sông Thu xuất bản-USA 1994)
(trích CHỐN BỤI HỒNG - Sông Thu xuất bản-
Khởi hành về Nha Trang, ghé tham quan
biển Đại Lãnh, ăn trưa tại nhà hàng Thủy tạ-Khu du lịch Đại Lãnh. Mới nghe,
tưởng khu du lịch lớn lao, sầm uất ,đông
đảo khách trong nước, ngoại quốc tắm,
như ỡ bãi biển Nha Trang, Vũng Tầu,
Đồ Sơn, Sầm Sơn vv.. vv..
Nhưng bé cái lầm- khu du lịch chỉ
có danh xưng trên chữ nghiã mà thôi, đó là
căn nhà lá tuềnh toàng bốn bề lộng gió, xây cất tạm bợ, đang ăn phải lấy
tay che bát cơm , tránh cát thổi mù
trời vi vu từ dặng phi lao ào vào.
Tôi nhớ ngay đến thời kỳ Mũi Né chưa có đường, đi xe vùng vịnh khoảng trên mười cây số men theo biển tới Hòn Rơm- một nhà hàng duy nhất bán cơm, lại cho thuê cả túi ngủ cá nhân,
buổi trưa ăn cơm, gió lùa thổi cát từ
núi xuống, cũng phải lấy tay che bát ,
đợi khi gió lặng lại đưa lên miệng!
Bữa
trưa ăn vào đầu giờ chiều Khu du lịch Đại Lãnh, chán như cơm nết nát. Và
ở đây có rất nhiều các cô,các bà luộc trứng cút, trứng vịt, cua, ghẹ, tôm
nướng rất thơm- giá cả rất phải chăng- thế mà người bán đã rất vui nhận tiền
người trả.
Ăn xong chẳng kịp ngồi hóng gió biển,
hoặc nhảy ùm xuống làn nước xanh trong
vắt cho sướng thân già- bãi biển này từ
thời tây đã được liệt vào ngoại hạng đặt tên Cap Varella. Năm 1957, tôi thỏa thuê tắm hai ngày liền, còn được
dẫn vào khu nước nóng Trường Sơn, đặt
quả trứng gà ít phút lấy ra bóc
ra ăn như trứng đã luộc vậy.
Trên đường về Nha Trang, chẳng thiết ngắm phong cảnh nữa, và tự nhiên nhớ
tới buổi sáng bốc di động gọi Ý Nhi , thì cô chủ chưa ngủ dậy.
Vậy bây giờ gọi lại xem sao, có thể giờ
này cô chủ taking a siesta chưa dậy,
không chừng vậy? giấc sáng tinh sương gọi Ý Nhi ở Hội An- nơi này cách 62
năm Ý Nhi sinh ra, nơi tối qua chúng tôi tìm phố cổ chẳng thấy mà chỉ thấy phố
khổ- thì cô bé ô sin xứ Nghệ trả lời qua điện thoại:
- Cô chụ hạy còn ngu.
Nghe rồi , tôi lại ngẫm nhớ ra- bà Trần Lệ Xuân ngồi ghế bành đỏ chót kê trướcToà
Đô chính Sài Gòn, chủ tọa Ngày phụ nữ Việt Nam- giơ bàn tay mạnh mẽ hô hoán : Phụ nữ Việt nam muôn năm, nghe âm điệu chữ cuối sao như muốn” nằm”. Rồi thời đi lính
không quân, một thuợng sĩ miền Nam
hạch hỏi:
-Trung sĩ
đi trễ phép, muốn đào” ngủ” hả?
–Dạ không, tôi không có ý định đào ngũ , mà trễ phép chỉ vì kiếm đào” ngủ “.
-Vậy là cô chụ hạy còn ngu!- tôi
hỏi lại cô ô sin - giọng nghịch ngợm.
Và bật cười một mình, người nước ngoài học tiếng việt phải mệt nhọc
lắm đây- không chỉ tiếng việt líu lo chư
chim hót- nhà sử học người gốc Đông Đức
(vợ việt) than vậy- mà còn phải học
nghe giọng
điệu trầm bổng để thông suốt, cảm, hiểu ý nghĩa trái ngược câu nói
thực sự muốn truyền đạt điều gì.
Rất nhiều lần nhìn Ý Nhi trên vô tuyến-
hết VT1, VT3 lại HTV vv…-báo này phỏng
vấn, báo kia hẹn gặp, hội văn nghệ trung ương mời làm trưởng ban công tác văn
nghệ trẻ ( chối từ), đến hội văn nghệ
tỉnh bạn mong nhà thơ có chân trong ban
giám định thi ca vv.. và vv…
Nhưng, tôi chưa thấy phóng viên, đạo
diễn nào đề cập chuyện cô bé gái, con bí thư huyện ủy đi bán bánh
soài. Hình ảnh bé gái chín, mười tuổi- chị lớn - muốn giúp đỡ gia đình
neo đơn. Ba vắng nhà lâu ngày đi công
tác xa, nhà đông anh, chị em- bà mẹ làm bánh soài, bánh cam ngon có tiếng- cô
bé tình nguyện bưng rổ đi bán dạo.
Có thể đây lần đầu tiên e thẹn, bỡ ngỡ,
do dự- có nên trườn mặt ra và vừa rao vừa bán không?
Giả thiết bán mà không rao hàng, thì ai
nào biết bán bánh gì để mua?
Dầu cô bé có rao hàng đi nữa, rao hàng
như thế nào để bán chạy hàng?
Ấy là chưa biết cô bé có rao hàng không , và cuối cùng
bắt đầu từ nguyên nhân nào, cô bé để rổ bánh soài giữa đường trên đoạn đường sắp
tới giờ tan học- và cô bé ẩn mình vào bụi
rậm canh chừng?
Cũng chẳng biết cô bé bán được cái nào không- hoặc rổ bánh soài coi như chào
hàng đám đứng sau nhất quỉ, nhì ma, thứ ba…
sơi hết!?
Một điều tôi biết rõ- cô bé ấy đầy tinh
thần trách nhiệm vai chị hai muốn giúp đỡ mẹ và gia đình qua cơn bĩ cực.
Giả thiết sau này lại có một đạo diễn
muốn thâu hình, phóng viên phỏng vấn nhà
thơ nữ- điều mong ước rất nhỏ của tôi,
ông ta sẽ quay hình cô bé gái bán bánh soài, bánh cam- với câu hỏi: tại sao bé gái bưng bánh đi bán lại đặt rổ bánh giữa đường, rồi chui tọt vào bụi canh chừng? với
một tâm hồn đàn ông cứng cỏi?
-6 giờ 30 chiều đến Nha Trang, mọi người khoan khoái vui ra mặt, cơn
mệt nhọc dài đằng đẵng ngày qua ngày chấm
hết. Chúng tôi qua một đêm ở
đây-khách sạn Hàng Hải cuối đường Trần Phú- trông từ xa như một pháo đài quân
sự kiên cố ,mặt tiền nhô ra biển.
Lại thêm một lần được tắm biển Nha
Trang, và ngày mai trở về Sài Gòn vui thỏa.
Sài
Gòn- Tân Định,
cuối
tháng hai, 2007 - cuối tháng hai, 2008.
THẾ PHONG
THẾ PHONG
------------------------------------------------------
PHỤ LỤC
PHỔ
TRẠNG
ĐỖ
MẠNH TƯỜNG
(Việt Trì-Phú Thọ)
bài viết : DÃ LAN – NGUYỄN ĐỨC DỤ
Thế Phong là bút hiệu, tên thật là Đỗ Mạnh
Tường. Ngoài bút hiệu này, còn mấy bút
hiệu nữa: Đường Bá Bổn, Đinh
Bạch Dân- hai bút hiệu sau của nhà văn Thế Phong ít dùng- coi như bút hiệu THẾ
PHONG là bút hiệu chính **
Sanh ngày 7/6 Nhâm Thân( 1932) (1) tại nhà thương
Yên Bái ( phốYên Thái) , chính quán ở
Việt Trì, Phú Thọ. Ông nội tên Đỗ Văn Phác, chân nho học, bà nội là Phạm Thị
Thắm, sanh được hai người con trai: là cha của Tường và người em kế là Đỗ Văn
Hạnh, với ba gái là Thị Kha, Thị Thảo,
một gái chết yểu. Ông bà nội Tường ít khi đi đâu, ở luôn tại quê để chăm lo giỗ tết, vì cụ Phác là trưởng tộc, nơi đây
có từ đường họ Đỗ văn.
Cha tên Đỗ Văn Đức ( 1897-1947), chân giáo học, mẹ
tên Phùng Thị Mùi không nhớ năm sanh, chỉ biết bà mất vào năm 1952 ở Bữu, quê ở
phủ Quốc Oai, Sơn Tây. Ông giáo Đức là
con đầu dòng cụ Phác, đồngt hời cũng là trưởng ngành họ Đỗ văn. Xuất thân nhà giáo ( Instituteur auxiliaire principal
de hors classe), tốt nghiệp Trường Bưởi
Hà Nội; vì ông tham gia Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học, nên bị Pháp
đày lên thượng du dạy ở các trường châu Văn Bàn ( dưới chân núi Hoàng Liên Sơn,
– nay: Phăngxipăng- NV thêm ) làng Bữu, Đại Lịch.. ở đâu ông cũng được
mọi người qúy mến vì nể, vì ông dạy học trò rất tận tâm hết lòng hết sức. Năm
1947, ông bị bắt đưa đi mất tích.
Đỗ Mạnh Tường là con trai duy nhất trong gia đình,
bà giáo Đức sanh được năm người con, bốn trai một gái, song các anh chị em của
Tường đều mất sớm nên Tường rất được mẹ nuông chiều. Trái lại, bố Tường rất nghiêm
khắc, ít hỏi han đến con cái. Tường lúc nhỏ ngỗ ngược, phá phách nghịch ngợm
nhất làng Bữu, cứ về nông trang là đuổi gà, đuổi vịt bị gai cào rách chân tay
mình mẩy, bà giáo lại gọi về đe dọa còn nghịch ngợm nữa mẹ sẽ chết! Nhưng Tường
vẫn không chừa, lắm lúc bà phải khóc làm Tường hối hận lên giường nằm ôm lấy
mẹ.
Khác hẳn ông
giáo rất dữ đòn, thấy Tường rắn mắt đánh rất đau, bà giáo lại bênh vực ngăn cản
vì bà thương Tường là con một. Tường rất
yêu mẹ song rất oán bố. Có lần Tường đi
mua thuốc phiện cho bố, ngựa vượt qua dòng suối lớn đang mùa nước lũ, bị nước
cuốn trôi mất ngựa suýt chết đuối, lúc bơi tới bờ, ông chỉ hỏi thuốc tuyệt
nhiên không hỏi han gì đến con nguy hiểm vừa qua khiến bà giáo ôm vội lấy con
khóc. Lúc còn bé, bà giáo thường kể cho con nghe
Con là con cầu
tự ở đền Quán Thánh Yên Bái, có tật. Con
là đứa con thứ ba sống sót trong năm mụn con của mẹ. Lúc hoài thai con, mẹ phải
nằm dài hàng ba tuần lễ ở nhà thương Yên Bái, sanh con ra chưa bao giờ nước lũ
lớn đến như vậy ngập cả thành phố.
cũng vì vậy thuở
bé Tường rất được nuông chiều.
Từ năm 1932 đến 1950, Tường sống
với bố mẹ ở làng Bữu từ nhỏ tới lớn, học ngay ở trường làng Tây Bắc, qua các
trường ở châu Văn Bàn, Thượng Bằng La, Đại Lịch, Tường học ngay ở trường bố làm
hiệu trưởng. Thượng Bằng La, tên chữ của làng Bữu ( tên ghi trong sổ bộ của
triều đình), gần thị trấn Nghĩa Lộ, thuộc
huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái. Cha mẹ Tường có nhà và nông trang ở làng Bữu,
ngày ngày mẹ tường trông nom ruộng nương, dạy dỗ con cái thay chồng, vì ông
giáo mải đi dạy học, xa nay đây mai đó,
thỉnh thoảng ông mới đưa con cái về quê cha đất tổ vào dịp giỗ tết hoặc thăm
viếng cha mẹ già yếu.
Năm 1942,
đậu xong bằng sơ học ở Nghĩa Lộ (Certificat d’études primaire élémentaire), đậu thủ khoa, bố mẹ gửi ra học ở trường Yên Bái( École de Garcons de Yen Bay), song đang thời kỳ Mỹ ném bom Nhật ở Yên
Bái, nên Thế Phong phải bỏ học về sống với bố mẹ ở Bữu và Đại Lịch. Thế Phong
lớn lên trong bối cảnh thanh bình giữa núi rừng Nghĩa Lộ suốt tuổi ấu thơ, được
mẹ hiền chăm sóc cho tới lúc vừa đậu xong bằng sơ học, thì đất nước bắt đầu
loạn lạc…
Làng Bữu, chính là quê hương thứ
hai của nhà văn Thế Phong-Đỗ Mạnh Tường ,
nơi Thế Phong phải chịu nhiều gian lao cực khổ suốt quãng,đời niên thiếu, vì cả hai nơi này, Bữu
và Nghĩa Lộ -làng Bữu cũng gần Nghĩa Lộ- đã xảy ra nhiều trận giao tranh ác
liệt giữa Việt Minh và Pháp làm nhiều gia đình tan nát cửa nhà…
Nghĩa Lộ là một thị trấn của Yên
Bái nằm sâu trong dãy Hoàng Liên Sơn. Thời kháng chiến bốn nhăm, qua bao giai
đọan công đồn chiếm đất giữa Pháp với
lực lượng kháng chiến, Nghĩa Lộ được coi như một địa danh lịch sử, là căn cứ
hiểm yếu của Việt Minh dùng để chống cả Pháp và Nhật năm 1945, nó cũng tương tự chiến khu Bắc Sơn thời tiền
cách mạng.Năm 1947, một toán quân củ
tướng ALEXANDRIE tràn về Nghĩa Lộ qua lối Phù Yên và Thượng Bằng La buộc Việt
Minh phải triệt thoái.
Gia đình bà giáo Đức mất cả người
và của, vì ông giáo vẫn bị Việt Minh nghi ngờ theo dõi, không muốn để ông ở lại
Nghĩa Lộ sợ ông bắt tay với Pháp nên khi rút lui Việt Minh bắt luôn ông đi mất
tích. Quá đau đớn vì chồng bị bắt, bà
giáo nhất định không rút lui… bà dẫn con tản cư sau mãi vào trong rừng, rồi ít
lâu sau bà cương quyết đưa con trở lại Nghĩa Lộ, trở về căn nhà thân yêu xưa,
với đồn điền và của cải cất giấu. Nhờ
con biết nói tiếng Pháp, bà giáo lấy lại được căn nhà Pháp chiếm đóng. Viên thiếu tá chỉ huy trưởng thấy Thế Phong
thông minh, lấy vào đồn làm thông ngôn .
Đó là những năm Thế Phong chịu nhiều gian lao khổ cực, được mẹ chăm sóc dạy dỗ, thêm người chị nuôi ( tên Bích) cũng hết lòng bảo bọc thương yêu.
Đó là những năm Thế Phong chịu nhiều gian lao khổ cực, được mẹ chăm sóc dạy dỗ, thêm người chị nuôi ( tên Bích) cũng hết lòng bảo bọc thương yêu.
Làm thông ngôn cho quân đội Pháp
một thời gian, Thế Phong bị Pháp cho nghỉ việc dài hạn vì một lá thư ở ngoài
bưng gởi về nói ông giáo vẫn còn sống. Thế Phong buồn bực đâm ra bài bạc, lấy
tiền mua hàng của mẹ, vay nợ, ăn cắp tiền bỏ ống của đứa em họ, đánh đập tàn
nhẫn em gái mỗi lần nó không đi vay được tiền...
Sau hối hận Thế Phong không đánh
bạc nữa, bắt đầu lao vào công việc đất rẫy làm ruộng. Năm 1950, bà giáo gởi Thế Phong về Hà Nội
học, ở với bà cô ruột là bà Thảo/ 1917 ( chồng tên Dương Duy Tỵ/1917) nuôi cho ăn học. Lúc học ban trung học ở Hà Nội Thế Phong cũng
lắm phen lao đao lận đận.
Ngày 16/ tháng 11/ 1952, quân đội Pháp thất
trận toàn diện ở Nghĩa Lộ. Và Nghĩa Lộ lần thứ hai lại rơi vào tay Việt Minh.
Từ đó Thế Phong mất liên lạc với mẹ ở làng Bữu. Buồn vì gia đình tan tác và nhớ thương mẹ, Thế
Phong bắt đầu viết văn. Năm 1942, lúc đi học ở Đại Lịch, hàng ngày Thế Phong
được đọc báo chí của bố mua năm ( Tứ Dân Văn Uyển, Học Báo…) nên nảy ra ý viết văn từ dạo đó. Truyện ngắn đầu tiên đăng trên báo Tia
Sáng của Ngô Vân, Thế Phong ký bút hiệu
Tương Huyền ( Tường) vào năm 1952 ở Hà Nội.
Thời gian chiến tranh Việt Pháp,
khỏang 1947-1952 bà giáo Đức ở làng Bữu. bà mất vào năm Nhâm Thìn ( 1952), lúc
đó Thế Phong đã về Hà Nội học từ năm 1950.
Tháng 5/1954 Thế Phong vô Nam .
Cuốn Tình Sơn Nữ là tác phẩm đầu tiên
xuất bản ở Sài Gòn. Nhà văn có nhiều bút hiệu, nhưng chỉ bút hiệu Thế Phong được
dùng cho tới ngày nay. Lúc mới vô Nam,
Thế Phong cũng trải qua nhưĩng ngày sống cơ cực túng thiếu, mất liên lạc với
mẹ, bơ vơ giữa đất Sài Gòn, nhà văn phải bươn chải tự kiếm sống, phải nhịn đói
nhịn khát nhiều tháng ròng, đến độ không chịu nổi, đã có lúc liều lĩnh vay
mượn, lấy trộm tiền bạc và máy chữ của bạn bè. (coi thêm: Thế Phong: nhà văn, tác phẩm, cuộc đời). Ngoài bản tính liều lĩnh, bạt mạng trong
cuộc sống, Thế Phong còn có một điều khá đặc biệt là ngay từ lúc nhỏ, 11, 12
tuổi ông đã biết yêu rất sớm. Được biết,
ngoài năm người con chính thức hiện nay, ông còn ba, bốn người con riêng . (3)
Từ năm 1954, phóng viên các báo: Thân
dân ( Nguyễn Thế Truyền) , Dân Chủ ( Vũ Ngọc Các) , Giang Sơn ( Hoàng Cơ Bình) ,Tia sáng ( Ngô Vân) Hà Nội ( 1952-1954). Cộng tác
với các báo Đời Mới, Nguồn sống mới, Văn nghệ tập san, Văn hoá Á châu, Sinh lực, Tân dân, Sống, Đời vv… và viết cho các tạp chí nước ngoài: Les
immondices dans le banlieue, truyện ngắn
đăng trong Le Monde Diplomatique (
Paris 1970), Tenggara ( Mã Lai)…Đồng
hóa vào Không quân Việt Nam Cộng Hoà tháng 8/1967 tới tháng 5/1975, trung sĩ
biên tập viên.
Nhà văn Thế Phong bản tính rất ngổ ngáo song
cũng rất bộc trực thẳng thắn, những nét hư tật xấu của mình ông kể, hết, không
chút ngượng ngùng giấu diếm. Mỗi lần
nhắc tới ông, giới văn nghệ sĩ miền Nam rất e ngại, họ đặt hỗn danh cho ông là nhà văn cao
bồi, du côn , vì trong đời viết văn ông chưa
từng nể nang một người nào, (4) kể cả
ông thân sinh ra ông
Tuy nhiên, có một điều ít ai biết, là trong
thâm tâm nhà văn Thế Phong-Đỗ Mạnh Tường
suốt đời chỉ khắc sâu hình bóng một người duy nhất, đó là bà giáo Đức mẹ
ông, người ông thương yêu nhất trong
đời. Ông ân hận lúc mẹ mất không được ở gần để vuốt mắt cho người mẹ đáng thương
phải mất chồng xa con, bao năm sống hiu quạnh hiu hắt nơi làng Bữu. Ông còn nhớ lúc ở nhà với mẹ ở Bữu, thấy
người ta đưa ma khóc, ông ngây thơ hỏi mẹ: Tại sao người ta lại phải khóc? thì mẹ ông bảo: Mày bất hiếu lắm con
ạ!.
Năm
1966, Thế Phong lập gia đình ở Đà Lạt,
lấy bà Nguyễn Thị Khê, sanh ngày 27 /7/1937 ở Lạng Sơn, là con gái thứ
ông bà Nguyễn Quốc Bảo ( 1910-1978) và bà Bùi Thị Phương Giản ( 1910-1990) quê
ở Hà Đông, khi xưa cùng là bạn đồng
liêu, hai nhà quen nhau từ lúc ông giáo Đức dạy học ở Nghĩa Lộ. Cùng
theo đạo Tin Lành ( Báp-Tít). Bà Khê có tất cả tám anh chị em, nguyên là nữ
sinh trung học chuyên khoa Bùi Thị Xuân Đà Lạt.
Sau khi đậu tú tài II ( 1962), về Sài Gòn theo học Đại học Dược khoa
được hai năm thì bà nghỉ học.
Thế
Phong có ba trai, hai gái. Gia đình hiện ở Tân Định, Sài Gòn 1:
1) Đỗ
Mạnh Tường Khê ( 22/11/1966) Đậu Phổ
thông trung học năm 1984.
2) Đỗ
Nhị Tường Khê ( 09/01/1968). Tốt nghiệp Y khoa
1994.
3) Đỗ
Thục Tường Khê ( 17/09/1969). Nữ sinh Trưng Vương. Đã đi làm.
4) Đỗ
Như Tường Khê ( 13/3/1971) Đậu Phổ thông trung học. Đã đi làm.
5) Đỗ
Thông Tường Khê (04/10/1972) Đậu bổ túc
văn hoá. Sinh viên I trường Đại học thủy sản.
*
Nhà
văn Thế Phong có tới trên năm chục tác phẩm: thơ, văn, tiểu thuyết. Có một số thơ và truyện được dịch ra ngoại
ngữ. Thế Phong là nhà văn rất đa dạng, viết khá nhiều thể loại, đặc biệt là thể
văn tự sự và phê bình văn học.
Sài Gòn , tháng 5-1995.
DÃ- LAN NGUYỄN ĐỨC DỤ
--------------------------
--------------------------
* in đúng
nguyên bản, do soạn giả chép tặng vào năm 1995 .(TP)
* (trích
từ bản thảo chưa in , mang tựa :
PHỔ TRẠNG CÁC NHÀ VĂN MIỀNNAM ĐƯƠNG ĐẠI
của DÃ LAN- NGUYỄN ĐỨC DỤ
[bản thảo chưa xuất bản]
-------------
PHỔ TRẠNG CÁC NHÀ VĂN MIỀN
của DÃ LAN- NGUYỄN ĐỨC DỤ
[bản thảo chưa xuất bản]
-------------
* DÃ LAN-NGUYỄN
ĐỨC DỤ :1919-2001 Sài Gòn- biên soạn gia phả, phổ trạng các nhà văn Việt Nam
đương đại: Gia phả khảo luận và thực hành, Một lối chép gia phả
thật đơn giản, Dõi tìm tông tích người xưa vv… Ông là người biên soạn gia phả tiên phong, được đánh giá cao ở trong
nước, và cả quốc ngoại. Dưới đây lá ý kiến rất xác đáng nhận định về công trình
nghiên cứu của một bậc lão làng về gia phả học, và viết khá chính xác phổ
trạng giới văn học miềnNam: “…Nguyên quản thủ thư viện Trường Đại học Kiến trúc
Sài Gòn, (từng) đượcGiải văn học nghệ
thuật (miền Nam
) về bộ môn gia phả học. Hai mươi chín
cơ sở nước ngoài hiện đang lưu trữ tác phẩm biên khảo về gia phả học… Cụ đang
tiếp tục bắt tay vào cuốn Phổ trạng các
nhà văn miền Nam
đương đại. Cụ đã làm rạng danh cho ngành gia phả học nước ta, như lời đánh
giá của giáo sư Richard C. Beals
trong phái đoàn Viện Đại học Brigham
Young ( Hoa Kỳ) trong tổ chức gia phả học quốc tế:”.. Tôi đã được xem nhiều tài liệu gia phả học củ nhiều xứ trên thế giới,
nhưng có thể nói đây là những tài liệu biên khảo lỗi lạc nhất...”
< trích Ở Sài Gòn bỗng gặp bông bí vàng / Trần nhật Thu
- NXB Văn Nghệ- Tp. HCM 1998>
-------
* ” Bút danh Đường Bá Bổn ký trên tác phẩm: CHIẾC ROI NGỰA (dịch La Cravache cuả CV Gheorghiu) - Sài Gòn 1963 - sau 75, NXB Đồng Nai tái bản 2003) -, và HỒI KÝ VĂN CHƯƠNG VIẾT SỚM
( Sài Gòn 1964, sau 75 - NXB Đồng Nai tái bản 2003)-
( dịch tự sự kể Eugène Evtouchenko- bản pháp ngữ K.S. Karol -Autobiographie précoce (NXB Julliard, Paris 1963) . Bút danh Đinh Bạch Dân ký trên bút ký TÔI ĐI DÂN VỆ MỸ( Sài Gòn 1967)- Đàm Xuân Cận chuyển dịch anh ngữ: The ordeal of a American Militiaman –Saigon 1970.
( Chú thích: Dã Lan- Nguyễn đức Dụ)
1) Trong giấy khai sanh lại thấy ghi là sanh năm 1936.
(2)Trong đám sĩ quan Pháp có viên trung úy Henri GUILLEMINOT giúp đỡ Thế Phong nhiều nhất. Lúc ông ta về Pháp nghỉ có nói với bà giáo [ Đỗ văn] Đức cho Thế Phong qua Pháp học, song bà từ chối vì chỉ có Thế Phong là con một. Sau này, lúc ở Pháp qua ( đã thăng đại úy) vẫn thường xuyên liên lạc, gửi thư và tiền cho Thế Phong hai ba năm liền, còn biên thư khuyên ông ráng học, cho tới lúc ông vô Nam .
( Chú thích :Dã Lan- Nguyễn ĐứcDụ)
- NXB Văn Nghệ- Tp. HCM 1998>
-------
* ” Bút danh Đường Bá Bổn ký trên tác phẩm: CHIẾC ROI NGỰA (dịch La Cravache cuả CV Gheorghiu) - Sài Gòn 1963 - sau 75, NXB Đồng Nai tái bản 2003) -, và HỒI KÝ VĂN CHƯƠNG VIẾT SỚM
( Sài Gòn 1964, sau 75 - NXB Đồng Nai tái bản 2003)-
( dịch tự sự kể Eugène Evtouchenko- bản pháp ngữ K.S. Karol -Autobiographie précoce (NXB Julliard, Paris 1963) . Bút danh Đinh Bạch Dân ký trên bút ký TÔI ĐI DÂN VỆ MỸ( Sài Gòn 1967)- Đàm Xuân Cận chuyển dịch anh ngữ: The ordeal of a American Militiaman –
( Chú thích: Dã Lan- Nguyễn đức Dụ)
1) Trong giấy khai sanh lại thấy ghi là sanh năm 1936.
(2)Trong đám sĩ quan Pháp có viên trung úy Henri GUILLEMINOT giúp đỡ Thế Phong nhiều nhất. Lúc ông ta về Pháp nghỉ có nói với bà giáo [ Đỗ văn] Đức cho Thế Phong qua Pháp học, song bà từ chối vì chỉ có Thế Phong là con một. Sau này, lúc ở Pháp qua ( đã thăng đại úy) vẫn thường xuyên liên lạc, gửi thư và tiền cho Thế Phong hai ba năm liền, còn biên thư khuyên ông ráng học, cho tới lúc ông vô Nam .
( Chú thích :Dã Lan- Nguyễn ĐứcDụ)
( 3) Thế Phong có tới ba, bốn người con
riêng; một đứa con gái với cô Quán ỡ Bữu,
vợ chưa cưới của một lính partisan ;một con với cô Đặng Ngọc Oanh ở Hà Nội (
sanh con ở trong Nam) là nữ sinh gỉỏi Pháp
văn, mối tình này kéo dài gần mười năm; một
đứa với chị Năm Hưởng, người ở kế bên nơi Thế Phong trọ. Cả ba người con ấy
tới nay vẫn bặt tin, trong ba người con có hai là gái, ông còn một đứa con nữa
với cô Bẩy là cháu ruột ông dượng Tỵ, chưa kể những người ông chỉ yêu thoáng
qua.
(Chú thích: Dã Lan-Nguyễn Đức Dụ)
(Chú thích: Dã Lan-Nguyễn Đức Dụ)
(4) Về điểm nay, Thế Phong và Chu Tử ( Chu Văn
Bình) giống y hệt nhau, cả hai có lối
hành văn khá độc đáo: giọng văn tuy châm biếm sâu cay nhưng vẫn nghiêm chỉnh,
đúng mực”.
( Chú thích :Dã Lan- Nguyễn Đức Dụ)
[]
( Chú thích :Dã Lan- Nguyễn Đức Dụ)
[]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét