Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

5000 kilômét xuyên Việt - bút ký Thế Phong

thế phong  




        5.000 kilômét xuyên việt
bút ký





                                                     SAIGON 2008
                        







 tặng bà Đỗ thị Thảo
THẾPHONG





VÀO CHUYỆN….



Một buổi tối đầu tháng 12, đầu giây điện thoại bên kia, nhà văn Băng Sơn báo tin
Kiều Liên Sơn* đã qua đời. Chôn cất ngay  trong  đất vườn nhà, tiễn đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng có  năm người bạn : Băng Hồ, Băng Sơn, Vân Long, Tạ Vũ, và một đại diện  Hội Nhà văn Hà Nội.

Ngày 31 tháng 12 , con gái Nguyễn Đăng Khải báo tin qua điện thoại, bố cháu ra đi sáng nay rồi.

Bàng hoàng mất vài ngày, khi nghe tin Kiều từ giã bạn bè, vợ con, anh chị em – bệnh ung thư phổi  giai đoạn cuối, dù đã bỏ hút thuốc lá dăm năm  nay. Trưa chủ nhật kêu toáng lên bụng sao đau đến thế, lại cồn cào; chị Hoàng Lương Thái nấu vội bát cháo cho chồng ăn dằn bụng. Rồi lại ộc ra hết, đưa gấp vào bệnh viện- được các bác sĩ đầu ngành hết lòng chạy chữa mà bệnh tình không qua khỏi sự chết  đang gõ cửa đứng chờ.

Còn Nguyễn Đăng Khải, cách đây hơn tháng,  tôi gọi điện thoại  ra Hà Nội hỏi số điện thoại Cao Bá Ân, nó trả lời có sự bất hoà, và sẽ  trả lời sau.  Cũng cho hay  mới ở bệnh viện về, tưởng chết - Vũ Thị Thanh Thúy (bạn học cũ  chung lớp chúng tôi) đến thăm,  nó đã trao tận tay sách tôi  biếu rồi . Mà có chết đi nữa , vợ con cắt bài báo đăng trên  Người Hà Nội đặt lên bàn thờ là được! ( Hà Nội: nơi dung thân buổi đầu làm văn, viết báo-Thế Phong, nguyệt san Người Hà Nội, 2000).

 Nhớ đêm đầu tiên chuyến xuyên việt đến thủ đô đúng vào ngày kỷ niệm Hà Nội được giải phóng, bạn học cũ  gặp lại nhau sau 56 năm,  chụp ảnh lưu niệm chuyện trò rôm rả. Riêng vợ tôi   nhỏ to với vợ Khải , đồng thời làm chứng đạo Tin lành.  Chị Quản Thị Thái nhắc ,về Sài Gòn nhớ gửi ngay bài Hạnh phúc tuyệt vời của  tiến sĩ Phan Như Ngọc- nhà nghiên cứu vật lý hạt nhân tốt nghiệp ở Hungary làm chứng về Chúa. Và khi về đến nhà, sáng hôm sau tôi copy ngay , gửi qua bưu điện cho vợ chồng Khải, Ân, Vinh, Kiều; có điều quên mất, vưà rồi không hỏi Khải đã nhận  được chưa  và nếu  có thì có đọc không?

Hai  bạn cũ 56 năm xưa ở Hà Nội gặp lại  trong số bốn tên, thì hai thằng đã rửa chân tay sạch sẽ lên bàn thờ ngồi . Kiều  Liên Sơn  thúc giục muốn được đọcbút ký ghi chép  chuyến xuyên việt càng sớm càng tốt – khi nó qua đời,  tôi chưa viết xong - hôm nay xong, nó  lại không được đọc.  Còn Khải rủ rê ra Hà Nội vài ngày, nằm khoèo gác chân  lên nhau hàn huyên cho đã điếu - nếu mày không chịu ra thì chúng tao lại vào Sài gòn vào dịp Nô- En , mày đi đâu không cho tao gặp là chết đấy em!
Đươc tin hai bạn  học ra đi đột ngột, Kiều và Khải đều sinh năm 1936, thân xác đã chôn vùi dưới lớp đất, giờ này thịt  đã tan rữa rồi còn gì ; và linh hồn thì không biết đi đâu, về đâu? Bởi vậy,  vợ tôi đem câu chuyện ẩn dụ  người giàu xấu nết và  Laxarơ  kể cho hai bạn cũ còn tại thế, và hai phu nhân  mới chít  tang chồng , hãy đọc đi để chiêm nghiệm biết linh hồn sẽ đi về đâu , sau khi hồn lìa  xác.
 Chuyện rằng: Có một kẻ rất giàu có lúc sinh thời, ăn không hết; trong khi đó, một kẻ nằm nhờ ngoài hiên, tên Laxarơ  nghèo khó chẳng có gì  cho vào miệng, chỉ mong đồ ăn thưà kẻ giàu có rơi xuống.Và kẻ khó qua đời trước, thiên sứ đặt người vào lòng bàn tay ấm áp cuả Tổ Áprah    am. Còn kẻ giàu chết sau, bị thảy xuống hồ lửa  âm phủ cháy ngày đêm phừng phừng, kẻ giàu ngước mắt nhìn Laxarơ , tên ăn xin ngủ đậu,  lại được Tổ Ápraham bồng ẵm; kẻ giàu gào thét van xin một giọt nước làm mát lưỡi, vì lưả thiêu đốt đêm ngày khổ cực quá đỗi. Tổ phán, buổi sinh thời ngươi đã được hưởng sự lành cuả ngươi rồi, còn xưa kia Laxarơ bị sự dữ hại, thì nay được yên ủi, còn ngươi  nay chịu khổ hình. Có một vực sâu giữa chúng ta và ngươi – ai muốn qua đây,  hay ai ở đây, muốn qua đó đều không được cả. Kẻ giàu có năm xưa xin Tổ hãy cho La-xa-ra quay về dương thế báo tin cho năm em còn sống  đặng làm chứng về việc trọng đại  này. Tổ  lắc đầu phán, hãy để số phận anh em ngươi phải biết tuân lời Môi- se cùng các Đấng Tiên tri trên trần thế. Kẻ giàu lại nói, vì nếu có kẻ đến từ âm phủ được sống lại trở về làm chứng cho, tất nhiên chúng sẽ dễ ăn năn hối cải tin theo. Tổ Ápraham đáp,  nếu sống trên dương gian không tuân lời Môi- se cùng các Đấng tiên tri thì cho dầu kẻ chết sống lại làm chứng thì chúng cũng chẳng chịu tin đâu! 
  (diễn ý theo  Kinh thánh  LUCA : 16) .
--------
·
       
KIỀU LIÊN SƠN ( 1936 -  Hà nội ,2007)
       tên khai sinh ban đầu: Dương Đức DZƯ ( nay là DƯ).Nguyên quán Xuân Phưong ( nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội). Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Tác phẩm: Tình yêu muộn mằn ( thơ, NXB Hà Nội 1992), Trước giờ xử bắn ( kịch nói, Hà Nội, 1966), Chị Thủy ( kịch bản chèo- cùng viết với Trần Huyền Trân  Hà Nội 1976), Khoảnh khắc trời mây ( bút ký, Hà Nội 1996), Phiá sau chiến tranh (  NXB Hội Nhà Văn, 2005) v v..


-

          CHỈ VÌ CƠN BÃO XANGSANE.

Cách ngày khởi hành chuyến xuyên Việt một ngày, chúng tôi nôn nao không ít; khi dự báo thời tiết cho hay cơn bão Xangsane đang thổi vào bờ biển Việt Nam. Thời tiết như vậy làm sao đi được?!- vợ tôi than thở. Bỗng tiếng chuông điện thoại reo vang,  Nimbus Tourist thông báo chuyến đi sẽ bắt đầu vào lúc 4 giờ sáng ngày 5 tháng 10. Thôi cũng đành vậy, chứ biết làm sao, vì bão bùng lớn như thế này thì ở nhà vẫn an toàn nhất, vợ tôi nói vậy.
 Chuông điện thoại laị reo vang. Đầu dây bên kia,cầu chúc mừng thượng lộ bình an của Hoàng Vũ Đông Sơn, tôi ngắt lời ngay , bông phèng:      '
   '…' chúng tôi chỉ nhận lời chúc tốt đẹp kể từ ngày 5 tháng 10 trở đi. '' '    
 Hoàng Vũ Đông Sơn :vậy là hoãn phải không anh?'
 rồi cúp máy.


MỘT: SÀI GÒN- QUY NHƠN- HUẾ : NHỚ LẠI NHIỀU ĐIỀU…



Lên xe khách 45 chỗ chạy đúng 4 giờ 30 sáng. Ra khỏi thành phố, sương mù  đặc quánh lãng đãng bay trên cầu Điện Biên Phủ, xe phóng khá nhanh ra xa lộ Hà Nội. Lướt mắt đọc tờ chương trình, hôm nay phải vượt trên 600 cây số, chạy thẳng tới Quy Nhơn. Bắt đầu bữa ăn sáng ở Trảng Bom; cơm trưa Cà Ná,  cơm tối và ngủ ở Quy Nhơn. Ấy là xe ca phải đến sớm khoảng sáu giờ chiều , sẽ đươc tham quan Khu Du lịch Ghềnh Ráng, Bãi tắm Hoàng Hậu, viếng mộ Hàn Mặc Tử. Một khách  ngồi  hàng  ghế sau nói lớn tiếng cho mọi người cùng nghe, đại khái làm gì được phép tắm Bãi  tắm Hoàng hậu kia chứ- sở dĩ đặt tên Nam Phương Hoàng hậu cho bãi tắm này -  người được tắm lần đầu khi bãi tắm hoang vu , nước trong xanh, phong cảnh đẹp như tranh vẽ. Chẳng hiểu đã đến đây tắm được mấy lần, và bây giờ đã đi vào cõi ta bà– vậy chỉ còn ý nghĩa trên danh xưng – còn thực tế đã được bán cho một doanh nhân làm bãi tắm dành  riêng khu Du lịch Khách sạn X… rồi.

 Ai muốn  vẫy vùng trên bãi  biển xanh trong kia, hãy đến xin phép chủ nhân họ Đoàn.

Ngày đầu tiên xuất hành, ai cũng xăng xái cả; tuy nhiên có khách đã  chìm trong giấc ngủ ngồi thật ngon lành; vì hồi khuya thức giấc rất sớm, từ khoảng thời gian một, hai giờ sáng- nếu ở ngoại thành. Còn chúng  tôi  sống ở trung tâm quận 1, phải dậy từ ba giờ sửa soạn mới kịp đến Công ty lúc bốn giờ.

Vợ tôi thường  bị say xe, cô Huyền phát thuốc ngay và đưa chai nước lọc kèm. Tua, hướng dẫn viên  cầm tờ  Bảng chi tiết  đọc  :

 -Xe ca  45 chỗ mang bảng kiểm soát 53M 78 18 -  chú Năm tài xế, di động: 0907.126. 12…  - Nguyên, thợ máy : 09067616…  - Hiếu, hướng dẫn viên phụ : 09036063… và cô  Huyền phụ trách tổng quát . Mỗi khi cần giải toả bầu tâm sự, nhất là các bác, chú nhiều tuổi, xin  báo ngay cho  hướng dẫn viên hoặc trực tiếp bác tài.

 Tua ăn nói khá lưu loát, thuộc loại chân dài, giọng pha đôi chút hài hước.

Giới thiệu  khơi khơi , bác tài tay lái lụa, trước75 từng lái  máy bay chở hàng trăm lính tráng, xe tăng, tàu bò, khí tài chiến tranh – nay hoà bình rồi -  rất khiêm nhường chỉ  lái xe du lịch chở  45 chỗ , thì đâu có nhằm nhò gì? Cô, bác anh, chị yên tâm đi,  trăm tay hãy cứ  tin vào vô lăng bác tài. Tôi vốn dân cựu Không quân Sài Gòn, muốn thử hướng dẫn viên Tua xạo sự cỡ nào, lên tiếng hỏi:

- Bạn hướng dẫn viên ơi, bác tài  lái loại máy bay nào - chẳng hạn  Cargo, Bombing Attack , A37, F 5E , Caribou,  C119, C123, C130,  L 19, 20, HU1B, Chinook…  hay gì gì khác nhỉ?
- Chú ơi, cháu chẳng còn nhớ loại máy bay nào đâu, chỉ biết loại vận tải khổng lồ, bốn động cơ bán phản lực! Dễ hiểu hơn, máy bay vận tải lớn nhất Không lực Sài Gòn đó , chú?

Tôi giễu:

-Có phải phi công đeo huy hiệu Con Rồng bên tay trái, dưới logo TỔ QUỐC KHÔNG GIAN phải không?  Quí vị biết là  phi công thân hình mảnh mai, khi  lái  máy bay vận tải Cargo 119,  123, 130 to đùng như cái nhà, de vào hăng-ga cái một , hệt như xe hơi lùi vào ga-ra vậy. Có đêm trực hành quân rủ nhau  đánh bạc, có anh thua  sạch túi, sáng ra không một đồng mua bánh mì tay cầm ,vẫn hiên ngang nổ máy, hét toáng đúng là TỔ QUỐC KHÔNG GÌ ĂN! Và cho máy bay cất cánh vút lên bầu trời .

Cứ cho rằng , Tua giới thiệu về bác tài qúa lố đi nữa; điều này được chứng tỏ ngay khi , nhìn anh Năm cầm vô lăng xoay  quẹo trái, phải rất điệu nghệ - vậy bác tài tay lái lụa là phải rồi. Khi tôi ghi danh  đi xuyên việt-  con rể -  cũng là bác tài xe 16 chỗ , góp ý với bố mẹ nên chọn công ty có uy tín với khách hàng mà đi .  Đây lần đầu tiên con nghe Nimbus Tourist , chắc họ tổ chức  lần đầu xuyên việt nên lấy giá rẻ vậy . Cầu  Chúa ban sự bình an cho bố mẹ và  đoàn xuyên việt. Nhớ đến lời khuyên,  lại nhìn tài xế Năm điều khiển xe cũng tạm yên lòng.

Hơn ba tiếng đồng hồ dàn trải trên đường nườm nượp xe, bác tài quẹo  vào nhà hàng Trảng Bom , và khách được thông báo xuống ăn sáng.  Có thể chọn ba món : hủ tiếu, phở bò, gà, trứng chiên bánh mì ốp la , ốp lết và ly trà đá.  Nửa tiếng đồng hồ sau  lên đường , tôi đếm được 31 khách- năm phục vụ- cộng 36 chỗ / 45 khách.

 Cô chú Trang ngồi ở ghế số  5 và 6 đưa tờ báo:

-Cô chú  nên  chọn  phòng riêng hai người, ngủ nghỉ thoải mái hơn.  Ai ngồi hàng ghế phía sau vá ngủ chung phòng, ba, bốn, người ,thì cả hai mục này đỡ tốn gần triệu bạc.

Vợ tôi đón lấy tờ báo:

                   TOUR MỚI THÁNG 9: HÀNH TRÌNH XUYÊN VIỆT. …

” …Bạn đã bao giờ đi suốt chiều dài đất nước, khám phá cảnh đẹp, văn hoá từng vùng, miền đa dạng của Việt Nam? Với ý tưởng này, Nimbus Tourist chào hàng chùm tour mở xuyên việt. Hành trình xuyên việt bắt đầu từ Qui Nhơn - nơi có bãi biển Hoàng Hậu, bãi Sa Huỳnh đẹp và hoang sơ nhất miền Trung.  Hải sản Qui Nhơn vừa rẻ, vừa ngon nổi tiếng. Vùng biển này đang là điểm dừng chân của rất nhiều du khách phương tây đi nghỉ dưỡng cao cấp, bên những resort 4-5 sao nổi tiếng: Life Resort, Gia Lai Resort… Đến Qui Nhơn hãy dành thời gian viếng mộ Hàn Mặc Tử, xem võ  Tây sơn cổ truyền, trước khi tiếp  tục cuộc hành trình nối tiếp để đưa du khách đến Núi  Chúa –Bà Nà, vượt hầm Hải Vân, thăm Huế. Chặng hành trình nối tiếp để đưa du khách đến thăm La Vang Quảng Trị, Phong Nha-Kẻ Bàng Quảng Bình, ghé thành phố Vinh thăm quê Bác; sau đó qua Ninh Bình, Hoà Bình, Yên Bái, rồi lên tận Sapa; đi chợ vùng  biên Cốc Lếu, sang biên giới Trung quốc mua sắm thoải mái; trước khi nối tour sang miền Đông  bắc, qua Hà Nội, Lạng Sơn; rồi đi trên du thuyền tham quan Vịnh Hạ Long. Chặng cuối hành trình sẽ là Hội An và thành phố biển Nha Trang. Nếu  đi trọn tour, bạn phải mất 16 ngày theo đường bộ,  với xe du lịch loại tốt. Tuy nhiên, vì là tour mở, bạn có thể một phần của cuộc hành trình, hay chỉ đi nửa chặng là tùy thời gian, sức khỏe, và túi tiền. Đây quả là một hành trình hưởng ngoạn thú vị, đủ cho bạn trải nghiệm và khám phá đầy đủ nền văn hoá từng miền, từ đi thuyền rồng thả đèn hoa đăng trên sông Hương, thưởng thức nhạc cung đình, viếng Nghĩa trang  Liệt sĩ Trường Sơn, đi chợ tình Sapa, du thuyền Tam Cốc, tham quan Nhà thờ Đá Sapa, Ngã ba Đồng Lộc, biển Đại Lãnh,  phố cổ Hội An. Tài sản đọng lại sau chuyến đi sẽ là tập ảnh dầy cộm, nhiều món ăn địa phương khó quên, và vô vàn điều khám phá thú vị không sao kể xiết!.. - 
 [ THỤC QUYÊN- báo Sài Gòn giải phóng tháng 9-2006.]

-Tất nhiên, nhờ đọc bài báo ấy xong, biết sẽ được thăm Yên Bái, nơi anh được sinh ra; qua Lạng Sơn, nơi mẹ sinh ra em; vì vậy anh gọi điện thoại  đặt tour ngay , tôi nói với vợ.
-Gọi đăt tour xong chưa  biết lấy đâu ra tiền , phải không? vợ tôi trả lời..
-Đúng vậy, không  sẵn tiền vẫn tìm được phương tiện đi du lịch mới là chuyện đáng nói. Nhưng trước tiên vợ chồng mình hiệp một dốc lòng cầu nguyện.

Ít ngày sau, tôi gửi điện thư cho hai bạn ở Huê Kỳ , vừa hỏi ý kiến vừa  gián tiếp xin chi viện . Thu Vân ở San José  mau mắn trả lời :

-… Hai ngày nữa sẽ gửi 200 USD, mong anh chị thỏa lòng du hành xuyên việt, vừa ngắm Đèo Ngang vừa đọc thơ Bà Huyện Thanh Quan: Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà...

một  tin nhắn khác, từ Houston :
-…Em chúc anh chị đi du lịch vui vẻ nhé. Ngày mai, em  sẽ từ giã anh chị Đắc ở Houston đi Anh quốc. Khi nào ổn định, em sẽ phone cho anh!  -Em L.D.

và một tin nhắn khác nữa :
-… hai chị cuả chúng cháu ở New Jersey [thông gia] gửi tặng hai bác 200 USD, với lời chúc du hanh xuyên việt vui vẻ.

- Bố mẹ phải lấy phòng riêng hai người mới được, có ngủ ngon giấc ,sáng hôm sau mới tiêp tục lên đường vui vẻ, con xin đóng góp một triệu - cậu Ba,  thứ nam chúng tôi khẳng định.

Và cô Tư, cô Năm, anh Hai ở Houston hỗ trợ chuyến du lịch của bố mẹ, vậy là túi rủng rỉnh rồi !  - tôi nói với vợ vậy.
Đa số khách  trên xe vào giấc này ngủ vùi trên ghế, tuy vậy có khách tỉnh như sáo, đưa mắt theo dõi chương trình ca nhạc trên màn ảnh nhỏ:

                               DICS 2 :  75 NĂM  ÂM NHẠC VIỆT

Các hoạt náo viên [bây giờ :MC] thay phiên pha trò khá duyên dáng, giới thiệu từng mảnh đời nghệ sĩ gắn liền ca khúc sáng tác; và hai nam ca sĩ nào đang uốn éo lắc lư nhịp nhàng ca khúc  Gợi giấc mơ xưa - thì, một  khuôn mặt bầu bĩnh bỗng hiện ra- tác gỉa cười duyên móm sều, trả lời :…' tại sao tôi lại sáng tác được ca khúc vang vọng một thời , điều này chỉ riêng cô Hiên Thù biết mà thôi. Nhưng [ngắt một giây] giờ  này tôi chưa muốn trả lời một lần đủ cả.
Hoạt náo viên hết lời tán dương ca khúc vang vọng kéo dài trên năm chục năm vẫn làm chết lòng khán thính giả- và bữa nay -qua hai giọng nam tuyệt vời biểu diễn sẽ không thể không gây ấn tượng lâu dài trong mỗi chúng ta.
Tiếng vỗ tay khán thính giả cố rướn mắt nhìn kỹ khuôn  mặt nhạc sĩ tài hoa một thời,đầy vẻ thán phục.  Vẫn chưa thấy tác giả trả lời chính xác, nguyên nhân nào lại viết đuợc ca khúc này trên dòng Hương ?
Dòng Hương nước chảy bồng bềnh- một  hạ sĩ quan mới tốt nghiệp Trường sĩ quan mang lon trung sĩ, đi đi lại lại bên dòng sông thơm gợi  nhớ mối tình u uẩn một thời.Thầy đội bất đắc dĩ  đang phải đối mặt nỗi đau không cưới được con gái vị trung tá, chỉ vì tội cãi nhau với mô-ni-tơ tây, khi còn là khóa sinh EOR ( Élève d’Officier de Réserve) Trường Bộ binh Thủ Đức.
Vậy là Hiên Thù ơi! mối tình dữ chúng ta sẽ làm anh đau lòng khôn xiết, nhớ em, đau khổ vì em, sáng tác bài nhạc này dành   tặng  mối tình dang dở chúng ta. Có một lần  đi phép về Sài Gòn , thằng bạn anh  đèo xe đạp  qua Trường Nữ Gia Long (đi tìm em, có tin cho hay lấy chồng rồi,  em  vẫn đi học tiếp ) lại đúng lúc tan trường, nữ sinh tỏa ra như ong vỡ tổ. Cô bé nào cũng đẹp, cũng xinh, đều là thần tượng ,văn nghệ sĩ lấy làm khuôn mẫu cho tác phẩm .Anh  đang mơ mộng vậy –  bạn anh ông ổng : ' Anh là  tác giả  tình ca  muôn thuở, yêu em thì yêu rất nhiều mà bạn anh xuyên tạc thành 'yêu em thì yêu rất nhiều mà ANH HẾT TIỀN RỒI'. Anh muốn độn thổ, nếu bữa ấy có em trong đám nữ sinh ấy!'  Hãy tha thứ cho anh nhé em , giấc mơ xưa bây giờ tự nhiên  gợi nhớ!
 Thế rồi, một buổi  gặp lại bạn học cũ ở Trường Hàn Thuyên (Bắc Ninh) thời kháng chiến- Ông Đợi Nắng,- sước danh nhà văn, nhà báo Quốc Oai - tuyên bố dõng dạc:
Tôi mời năm vị đi Đà Lạt năm ngày, và đề cử anh Hoàng Vũ Đông Sơn & cô Mai Hồng Khương đi  tiền trạm trước một ngày.
'… Khi được biết điểm hẹn là Café Tùng , tôi và Mai Hồng Khương bay tới. Đại phái đoàn có tới 5 người, thì đều là trên cơ tôi tới cả mấy triệu lần: ông bà TêTêKaHát - Ông Chủ Đợi Nắng , và hai Dượng giáo : Sầu Mê ĐiênAnh Hết Tiền Rồi.
Gặp được phái đoàn, tôi vừa mừng vừa tức. Mừng vì đã gặp được người thân trong cảnh tha hương ngộ cố tri và tức  vì  họ đã hành tôi cả nửa ngày trời lên đèo xuống dốc và cũng rất buốt vì cái hầu bao rất khiêm nhường cuả tôi cứ lép dần, lép dần cho tới lép kẹp, vì phải nói chuyện phải quấy với mấy ông xe ôm vui tính ở  miền đất cao.Tôi ngồi xuống ghế với thái độ như một Trương Phi, và trước mặt tôi là bốn trự Đốc Bưu. Chỉ thiếu có bình rượu thật bự với một mớ cành liễu với lũ lâu la hò reo cổ vũ như trong truyện Tam quốc của La Quán Trung  Rất may cho cả làng, có bà Khê, sếp lớn cuả đàn anh Typông đã xoa dịu tôi bằng cách tỏ thiện cảm thương mến đàn em vất vả ngược xuôi. Bà hỏi tôi uống gì cho đỡ mệt. Tôi chưa kịp trả lời thì bà đã ngoắc người phục vụ của quán tiến ra.  Tôi nói lời cảm ơn bà chị Khê và người phục vụ. Dứt khoát không uống một thứ gì ,vì dỗi hờn ngùn ngụt dâng cao.
Đến bây giờ còn tiếc vì đã ở Đà Lạt tới năm ngày mà không uống được một tách Cà phê Tùng, chỉ vì giận hờn. Thật vô duyên! Chị Khê và Mai Hồng Khương tay bắt mặt mừng, tíu tít hỏi han nhau đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, lịch  sự cứ như hai bộ trưởng ngoại giao cùng phe đảng phác lập chương trình  vãn hồi hòa bình cho một phần nhân loại đang chịu đau thương.
Trước khi rời quán , Ông Chủ Đợi Nắng đã chụp cho tôi một kiểu ảnh, đứng bên cạnh bức tranh của anh Vị Ý đã có mặt ở Café Tùng từ 33 năm nay.Tôi đang mong có tấm ảnh này để lên bàn thờ  ông anh trong ngày giỗ lần thứ 10, nhưng lại là lần thứ nhất tôi mới biết được ngày chính xác để cúng giỗ. Nhớ hồi sinh thời, anh đặt con tôi vào nôi khi cháu mới ở Từ Dũ về, và nói :
- Xin Quốc Tổ phù hộ độ trì cho cháu tôi mạnh khoẻ, chóng lớn. Đời bác rồi không biết được có một thằng cu như cháu không? Mai mốt có lẽ rồi bác phải vất vưởng ăn đồ thí, ăn cháo lá  mít ngày rằm tháng bẩy hàng năm đấy cháu ạ!
 - Anh đừng lo, cháu nó sẽ mũ gậy và hương khói giỗ tết bác, nếu nó được làm người…
Tôi đã nửa đùa nửa thực nói với anh như vậy. Không ngờ điều ấy lại là sự thực. Thằng con tôi, cháu không được mũ gậy bác, vì không gian cách trở.
Rời quán, chị Khê về ngoại, tất cả chúng tôi về chỗ Nam Thiên lấy ba lô ra khách sạn Thủy  Tiên nghỉ. Trên đường đi, chúng tôi còn ghé thăm bà chị của  dượng Anh Hết Tiền Rồi ở số 8 đường Hoàng  Văn Thụ. Bà này nguyên là phó chủ tịch tỉnh Lâm Đồng, nằng nặc bắt:
- …. Chú và các ông về  đây nghỉ.
 Rất tiếc không thể chiều theo ý bà ngay tối đó, vì đã đặt phòng ở Thủy Tiên rồi .Ngay từ giây phút rời Café  Tùng , tôi đã phải đối  đầu với  cuộc xa luân chiến.
 Bắt đầu trận đánh là Ông TêTêKaHát , ông ẫm ờ ồm ồm cất giọng hát với  lời chế mới: Phố núi cao phố núi đầy sương / Có khách nạ đi nên đi xuống / May mà có ên đời càng khó thêm. Tiếp đến là  dượng Anh Hết Tiền Rồi đặt câu hỏi lớn:
- Hai ngày ở Đà Lạt lạnh lẽo như thế này, mày đã làm gì cho hết thì giờ?
- Đi  ăn, đi uống, đi thư viện đọc sách, đi bộ tìm tí Xuân Hương, viếng Nhà thờ Con Gà- tôi ngây thơ cụ trả lời các đàn anh như vậy đó
- Thì cứ thành thật khai báo đi, từ việc ăn uống, đi đứng, nằm ngồi, đêm ngày ra sao? Anh em sẽ giữ kín cho. Sống để bụng, chết đem đi. Đừng sợ…- dượng Sầu Mê Điên vào cuộc bằng lời lẽ tốt đẹp đầy tình nghĩa.
– Cám ơn cả nón lẫn giày rách thật bẩn của các đàn anh bô bô kính mến đã quan tâm đến đàn em nhỏ dại này
- Thế đêm hôm qua các anh không được… nên bây giờ nó đã giội ngược đẻ phun ra như rắn hổ mang vậy hả?
Và cứ thế, tôi bị luộc hội đồng suốt đêm ấy cho đến gần trưa ngày hôm sau là 8 tháng 3 thì bắt đầu đổi tông. Mũi tiến công chuyển qua dượng Anh Hết Tiền Rồi , bản chất trung thực và nóng nẩy của dượng, vì nghe gà hoá cuốc kiểu cụ cố Hồng:
- Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!- nên dượng đã bị một quả lừa, một mình sơi cả một cái bánh phỉnh bự.
- Thế là tôi và dượng Anh Hết Tiền Rồi huề 1-1. 
 (…)
[ trích :  HOÀNG VŨ ĐÔNG SƠN- THÁNG HAI BUỒN ĐỌC LẠI LỖ TẤN - Văn Uyển  xuất bản- San José 2002].

Kể cho vợ nghe chuyện ghi danh đi du lịch , bây giờ cũng lắm làm ăn môi giới ăn tiền đầu. Chẳng hạn có một anh việt kiều Mỹ mới về nước, tâm sự với người nhà muốn đi du lịch xuyên việt một chuyến. Chẳng hiểu sao người nhà nói với ai tới tai một , thế là anh ta đến nhà tự giới thiệu đang tổ chức tour, xin được anh ghi danh, đóng tạm ứng trước,cho biết rõ ngày, giờ, tháng xuất hành. Anh việt kiều Mỹ nhìn tờ chương trình: 15 đêm, 16 ngày, qua Huế, Thánh địa LaVang,  Phong Nha-Kẻ Bàng, Tam Cốc-Bích Động,  Mai Châu-Hoà Bình, Hà Nội, Đền Hùng-Phú  Thọ,  Yên Bái, Lào Cai -Sapa, Hà Khẩu- Chợ Cốc Lếu -Trungquốc,Lạng Sơn-Chợ biên giới Tân Thanh, Yên Tử-Vịnh Hạ Long- Quảng Ninh, Ngã Ba Đồng Lộc-Hà Tĩnh, Cưả Lò, Vinh Nghệ An,  Hội An, Nha Trang . Lại có thêm bảng chi tiết kèm theo.
'TOUR XUYÊN VIỆT/ NGÀY…- Danh sách chi tiết đính kèm, địa điểm đón khách, giờ khởi hành, Xe ca đời mới: 45 chỗ 53M: 234.., tài xế: ….. ĐT: 097. 128.12… Ngày 1: Tp.HCM- ……  Thực đơn… Đến … Tham quan Khu Du lịch…..Ngày 2:  …../Ngày 3:…/Ngày  4:….. vv…vv...'
Anh việt kiều Mỹ đóng đủ một lần, không cần tạm ứng , người  nhận tiền ghi đầy đủ họ tên,  điạ chỉ Công ty  Du lịch  X… đóng mộc tròn .Thế là đủ tin cậy rồi ,và chờ tới ngày xe đón tận nhà    lên xe  đi du lịch.
Bữa cơm trưa đầu tiên, anh việt kiều đưọc xếp cùng mâm với tài xế, cơm ba món, quay sang bàn khác có bốn. Chẳng nghĩ ngợi gì, chắc bẩm vô tình đuợc xếp cùng mâm tài xế- và cho đến bưã tối ăn cơm vẫn cùng mâm bác tài. Còn ngủ khách sạn, được xếp chung phòng  bốn người, thay vì phòng dành  riêng, từ một đến hai người, như hứa. Qua ngày thứ hai, cũng được sắp cùng mâm tài xế, vẫn ba món, các bàn khác  bốn; vẫn ngủ phòng  chung bốn người. Anh bắt đầu thắc mắc, đặt vấn đề, hỏi ban hướng dẫn- khi biết sự thật, các khách đóng sáu triệu sáu-riêng anh hợp đồng chỉ đóng  cho công ty bốn triệu sáu- phần gồm ba món ăn chung vơi tài xế, ngủ chung  hai người / giường.
Về Sài Gòn, lục số di động  tìm gặp cò, gọi rất nhiều lần, được trả lời  số máy này không có thật. Anh việt kiều Mỹ biết bị lừa- ăn hớt tay trên hai triệu. Một gia đình việt kiều khácgồm bốn nhân mạng cũng  bị lừa, ăn chung với tài xế, ngủ hai người/ giường  vậy đã bỏ vào túi  tám triệu ngon lành!

 Quá 12 giờ, xe rẽ vào khu Du lịch Cà Ná ăn trưa. Một khu trung tâm du lịch đẹp, nhà hàng rộng rãi, cảnh trí tuyệt, ngoài kia biển xanh, gió thổi lùa dịu cơn nóng bức- phiá sau núi đá,  đá chồng lên đá- cây cối mọc chen hàng phủ được rất ít mầu xanh.Trên  ba chục khách  bước vào  các chiếc bàn ăn dọn sẵn ,cứ bốn người /bàn- bàn trải khăn trắng toát, thức ăn bày rất bắt mắt. Nhìn thực đơn, canh cải thịt bằm, cá chiên sốt cà, tôm ram thịt, cải xanh sào dầu hào, cơm trắng và tráng miệng ly trà đá. Được giải thích, quí khách uống bia, cà phê, rượu ,thức uống ngoài tiêu chuẩn, xin tự thanh toán. Vừa đói bụng, có thức ăn ngon, cảnh vật sinh tình, lòng người vui; đa số khách ăn vừa miệng. Riêng vợ tôi   qua ngày đầu đi xa, mới ăn sáng phải ngồi trên xe chạy liền tù tì sáu, bẩy tiếng đồng hồ; bụng sôi sùng sục, khó tiêu chẳng muốn ăn. Bà mẹNam Bộ mách nước, cần một lát gừng sống nhai nuốt xong, ổn ngay thôi. Áp dụng phương thuốc dân gian rất hiệu nghiệm, chỉ ít phút sau,vợ tôi rối rít cảm ơn bà mẹ Nam Bộ, người nhiều tuổi nhất trong đoàn. 
Tranh thủ thời gian nghỉ trưa, chúng tôi lấy máy ảnh ra chụp,  nghĩ thật tiếc khu trung tâm du lịch Cà Ná sao laị vắng khách dừng chân nơi sông biển hữu tình, núi non mênh mông đẹp như  vậy. Trước đây ít  lâu, một  ông chủ bỏ tiền dự định mở một khu du lịch sinh thái ngoài đảo; thì khách ra vào  trung tâm trung chuyển ở đây rất đông- dự án sau bỏ dở ,nên trung tâm Cà Ná bên này bị ế ẩm.  Chủ khai thác chỉ tay, tôi nhìn thấy khu xa xa ngoài biển kia, như tiếc nuối một dự tính  làm ăn ban đầu bị bít lối, bây giờ sinh cảnh tiến thoái lưỡng nan.  Bên cạnh những ki-ốt  đá chồng lên đá được thiên nhiên sắp đặt làm chỗ ngồi thoải mái ngắm biển, bên tay trái là núi đá, đá lớn ,đá nhỏ, to như một cái lều , nhỏ  hai ba người ôm;đá nhấp nhô tự xếp lớp lang, qui cách tự nhiên, và như có một lớp dính kết chặt để không dễ gì đổ ngày một, ngày hai xuống quốc lộ được!
 Rồi lại tiếp tục lên đường, còn cả một chặng rất dài, qua  Cam Ranh, Ngã ba Thành-Nha Trang, Vạn Giả,Vạn Ninh,Tu Bông, Đại Lãnh, Đèo Cả vv-. khiến tôi nhớ lại mươi năm trước, cũng  theo quốc lộ 1A ra Huế-thì  điạ danh VẠN GIẢ ghi trên cây mốc một chữ duy nhất: GIẢ- và bây giờ phục hồi  giống hệt cũ: VẠN GIẢ. Xưa kia VẠN GIẢ, thời điểm 1997 chỉ còn một chữ GIẢ, vậy thì một GIẢ hay TRIỆU GIẢ -chỉ cần MỘT GỈA là đủ. Bởi lẽ, MỘT GIẢ có khác gì MƯỜI, TRĂM, NGÀN, VẠN, TRIỆU GIẢ… đâu?
 Sau giải phóng, chẳng ai- chẳng biết  còn nhớ tiểu học, trung học đệ nhất cấp, tú tài một, tú tài hai là cái gì ; thì nay lại thấy được nhắc đến trường tiểu học, thi tú tài…-vậy là được phục hồi đương nhiên tự tại. Cái gì thuộc về César, hãy  trả lại César, chẳng đúng vậy sao?  Đến điạ  phận Đại Lãnh, chao ôi! nhìn biển dài xanh mướt, nước trong vắt, bờ cát thoai thoải -vào năm 1957, với tên gọi Cap Varella  - tên vịnh có từ khi thực dân Pháp đặt chân lên đất này- có một lần vua Minh Mạng ngồi ngắm biển, biển đẹp quá, sẵn cảm hứng ,bèn đề thơ xưng tụng. Chẳng ai chỉ cho thấy nét chữ vua- ,nhờ biết được từ sử sách chép lại. Rồi quan Công sứ (chủ tịch ủy ban tỉnh) đi kinh lý  khen tên thôn xã này: tout va bon ,bởi công sứ tây thích biển đẹp, nước biếc xanh trong, nằm dưới chân Đèo Cả, cạnh sườn Đại Lãnh. Chẳng hiểu ngoài cảnh đẹp sinh tình , liệu có bóng giai nhân điạ phương nào làm mờ đôi mắt bi ve không ?.Thế rồi, dân làng đặt tên gọi Tu Bông?
  Tôi nhìn sang phiá trái,  vẫn thấy quán ăn rào bằng  lưới B40, không hiểu khách đi xe đò còn bị lùa vào đây ăn cơm tù không? Đóí,no,khát không khát; xe đò xuống khách buộc ăn cơm uống nước ngọt, trả giá cắt cổ thì được yên thân, không liệu hồn - báo chí gọi đích thực cơm tù!
Cơn bão Xangsane vừa thổi qua đây, cây cối trốc gốc, đất đá ào ào lấp đường quốc lộ. Xe ủi đẩy nhiều khối đá tấn làm đường cho xe qua từng chiếc một. Xe đò lên cửa kính, tránh các bà, cô, cháu, em nhỏ bán rong ,chèo kéo mua hàng: trứng luộc,hột vịt lộn, trứng cút,mía ghim,đậu  phọng –riêng xe máy lạnh tài xế Năm đóng chặt cửa thoát cảnh này. Mỗi xe nhích từng thước trên Đèo Cả nối đuôi rồng rắn thế kia, thì viễn ảnh đến Quy Nhơn không thể trước 18 giờ chiều như  dự tính.  Đêm nay đến  thành phố Quy Nhơn , cửa lên đồi Ghềnh Ráng đã đóng lại rồi, làm sao thăm được mộ Hàn Mặc Tử – còn thăm bãi tắm lịch sử  hãy chuẩn bị vén quần bì bõm lội biển qua  ánh đèn pin -đi tìm Nam Phương - liệu còn in dấu trên  bãi tắm Hoàng Hậu ?
 Thời khoá biểu cho một ngày với vợ chồng tôi khi còn ở nhà, sáng dậy vào lúc 4 rưỡi hoặc năm giờ, đôi khi dậy muộn không thể quá sáu giờ mười lăm. Từ bốn năm nay, chúng tôi phải uống uống thuốcđiều hoà huyết áp cao vào lúc sáu giờ rưỡi sáng.Ngủ ở lầu một xuống tầng trệt, tôi mang theo chiếc bình thủy xuống bếp đun nước sôi, gọt hoa qủa,ăn đôi ba miếng, pha sữa nhai vài miếng bích qui rồi uống thuốc, sau đó lên lầu cầu nguyện, đọc một đoạn kinh thánh chừng năm phút.Và tiếp tục tập thể dục, hít đất ba lần, mỗi lần chín chục cái ,thở ra hít vào ba trăm lần, tập tạ tay khoảng  ba ki lô, làm mươi động tác trên kép xà ngang -tất cả buổi tập mất chừng bốn mươi lăm phút, cuối cùng tắm nước lạnh, làm vệ sinh . Một tuần tập đều từ  thứ hai đến thứ sáu,  thứ bẩy, chủ nhật nghỉ.
 Bây giờ đi xuyên việt cũng  phải tập như ở nhà, tuy thời lượng ít hơn; bởi không vậy sẽ không dễ đi vệ sinh cá nhân, và , điều này sẽ gây bất tiện cho hành trình trên xe di chuyển. Ngày thứ nhất quađi, hoàn tất đúng theo chương trình, thoải mái, nhẹ nhõm trưóc khi bước lên xe .  Mười lăm phút di chuyển lên tới Khu Du lịch Ghềnh Ráng -nơi mộ Hàn Mặc Tử nằm trên ngọn đồi thật đẹp, đường lên dốc có độ chênh không mấy cao, phía bên trái xa xa nhìn sóng vỗ rì rào trên bãi tắm Hoàng Hậu. Bỗng nhiên, bác tài  giảm tốc độ, xedừng lại, có một người đi xe gắn máy  gọi ơi ơi từ phía sau, hướng dẫn viên cho biết : đó là nghệ sĩ Dzu Kha, tác giả sách Hành trình đến với Hàn Mạc Tử (NXB Hội Nhà văn ,2006). Cuốn sách này không chỉ viết tiểu sử, nghệ sĩ còn chép thơ Hàn Mặc Tử bằng bút lửa trên giấy thông cán mỏng; gia đình Nimbus Tourist có thể mua làm quà tặng bạn bè .
Đặt bước đầu  tiên  trên đồi cỏ xanh mướt cây lá, và đặc biệt là loại trúc  óng vàng thật bắt mắt, đốt  tre dài không gai bóng loáng mầu vàng rực, tựa như được ai đó phết lên lớp dầu bóng.  Chụp ảnh xong ,chúng tôi bước vào một ki-ốt nhỏ treo bảng :

                                 QUẦY LƯU NIỆM THƠ HÀN MC TỬ.

chủ nhân nghệ sĩ Dzu Kha. Vợ tôi mua ngay một lá thơ ( bằng gỗ thông dát mỏng) viết bằng bút lửa giá hai chục ngàn:

                                      SOUVENIR QUY NHƠN :  6-10-2006

                                      Dầu đau đớn vì điều phụ rẫy 
                                      Nhưng mà ta không lấy làm điều
                                     Trăm năm vẫn một lòng yêu
                                     Và còn yêu mãi rất nhiều em ơi!
                                                                   HÀN MẠC TỬ.

Cuốn sách Dzu Kha  giá bìa 20000 VNĐ /cuốn - bìa 1: bức tranh quê, vành trăng khuyết, dăm cành lau hắt bóng trên  dòng nước -bià  4: Những nàng thơ thoáng qua cuộc đời HÀN MẠC TỬ: Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình, ThươngThương, Ngọc Sương.

 Nhà sưu soạn ghi bút danh Nguyễn Trọng Trí : HÀN MẠC TỬ khác bút danh đúng nhất  là HÀN MẶC TỬ

Tại sao lại bút hiệu Hàn Mặc Tử mới được coi là chính xác, bởi lẽ, tôi đã giải thích một trong  cuốn sách  nhỏ viết về  Hàn -giữa hai bút hiệu HÀN MẠC TỬHÀN MẶC TỬ- MẶC hay là MẠC?

 …“ Hàn Mặc là bức rèm lạnh, Tử cho là độc đáo tìm đến khoe cùng tôi ( Quách Tấn ). Tôi đáp
- Đã có rèm thì thêm bóng trăng vào.  Hỏi còn cách nào nên thơ cho bằng?!
Tử hội ý, cầm bút vạch vành trăng non lên đầu chữ A của chữ MẠC  thành HÀN MẶC TỬ .  
                                             MẶC là MỰC, HÀN là BÚT
                                       HÀN MẶC TỬ là anh chàng BÚT MỰC.

Tử sửa xong, thích chí nói:
- Đã có bóng trăng rọi vào thì từ nay tôi cũng như thơ tôi sẽ mỗi ngày thêm rạng ngời như bóng  trăng”
                             ( trích  QUÁCH TẤN- ĐÔI  NÉT VỀ HÀN MẶC TỬ, 1988).

Cũng chẳng trách được  mấy tay  ngang viết về Nguyễn Trọng Trí (in thành sách  hẳn hoi, dầu chỉ tập hợp  một số bài viết về Tử , ngang nhiên  để tên người sưu soạn  chình ình trên bìa một)  lại  dùng  bút danh sai  về nhà thơ tài danh Hàn Mặc Tử?

 Người đầu tiên  viết  rất chững chạc về Hàn MặcTử thời tiền chiến là TrầnThanh Mại  ( 1941),  1950 là  Thái Văn Kiểm- đến năm  1957 cuốn thứ ba : Hàn Mặc-Quách Thoại, nhà thơ siêu thoát (Sài Gòn 1960, 1965 ), có đoạn ,tôi viết:

“…Cho đến năm 1998, sách viết về Hàn MặcTử có trên mười cuốn, là không kể những bài báo, chương sách viết riêng lẻ trong các cuốn sách. Chẳng hạn  trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan dành một chương nói về Hàn Mặc Tử, Thi Nhân Việt Nam -Hoài Thanh-Hoài Chân, Kỷ niệm văn thi sĩ tiền chiến -Nguyễn Vỹ. 
 Còn viết trên báo, tổng số trên dưới 50, của nhiều tác giả nổi tiếng , hoặc là bạn bè văn chương của Hàn Mặc Tử.
 Báo Người Mới do Hoàng Trọng Miên phụ trách đăng  rất nhiều bài nói về Tử- của Bích Khê, Chế Lan Viên, Hoàng Trọng Miên ( Trọng Miên); hoặc Xuân Diệu ( Bài thơ của người ) đăng trên báo Ngày nay ( 1938).

Sau  này  từ 1954 đến 1975: Bùi Tuân, Bùi Xuân Bào, Châu Hải  Kỳ ,Đào Trường Phúc, Võ Long Tê, Huỳnh Phan Anh, Lê Huy Oanh,  Lê Tuyên, Đặng Tiến, Ngọc Sương, Nguyễn Kim Chương, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Xuân Sanh, Phạm Công Thiện, Phạm Đán Bình ( Paris), Quách Tấn ( Trường Xuyên), Thanh Lãng ( trong sách Bảng lược đồ văn học Việt Nam  ), Thi Vũ ( Paris),  Trương Văn Ngọc  … hầu hết đăng trên tạp chí Văn do Trần Phong Giao, Mai Thảo, Nguyễn Xuân Hoàng luân phiên thư ký toà soạn – (chủ báo: Nguyễn Đình Vượng).

Năm 1976- nước Việt Nam thống nhất- ,bắt đầu có thêm nhiều bài báo  đăng lẻ tẻ, hoặc một  chương riêng  bàn về Tử phải kể  đến: Đỗ Lai Thúy, Lại Nguyên Ân, Ngô Văn Phú, Nguyễn Minh Vỹ, Nguyễn Quân, Nguyễn Văn Xê và Phan Xuân Tuyển( Phạm Xuân Tuyển sau này) , Phùng Qúy Nhâm, Vũ Quần Phương, Yến Lan…

Về sách, chỉ nói riêng tới Hàn Mặc Tử đầu tiên  là sách của Trần Thanh Mại ( Hàn Mặc Tử, Thân thế và Thơ văn, 1942)- Thái Văn Kiểm : Un grand poète viêtnamien: Hàn Mặc Tử (Saigon ,1960)- Thế Phong  Hàn Mặc Tử 1912-1940 & Quách Thọai 1929-1957, nhà thơ siêu thoát, Sài Gòn 1960,1965; sau 1975 NXB Đồng Nai tái bản:  1998 ,2002, 2004)- Hoàng Diệp:  Hàn Mặc Tử ( S.1968)- Chế Lan Viên: Hàn Mặc Tử: Anh là  ai? (Văn NXB Nghĩa Bình & NXB Văn  Học cùng xuất bản cuốn này - cùng năm 1989) - Nguyễn Bá Tín: Hàn Mặc Tử: Anh tôi ( NXB Tin Paris 1990, sau NXB Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh tái bản năm 1991, riêng bản này lược bỏ khá nhiều, so với ấn bản in ở Paris- Quách Tấn: Đôi nét về Hàn Mặc Tử ( NXB Nghĩa Bình, 1988)-  Phan Cự Đệ: Thơ văn Hàn Mặc Tử- NXB Giáo dục 1993)- TrầnThị Huyền Trang: Hàn Mặc Tử: Hương thơm & Mật Đắng (NXB Hội Nhà Văn 1991- Nguyễn Thụy Kha: Hàn Mặc Tử, Thi sĩ đồng trinh ( NXB Đà Nẵng 1996 )-  Lữ Huy Nguyên:  Hàn Mặc Tử, Thơ & Đời - Vương Trí Nhàn: Hàn Mặc Tử, Hôm qua & Hôm nay  (NXB Hội Nhà Văn 1998 )-  tổng hợp bốn cuốn trích đoạn của: Trần Thanh Mại, Quách Tấn, Hoàng Diệp, Nguyễn Bá Tín - mà ông Nhàn  gọi là :

“…cuốn sách tập hợp được gần như tất cả những gì mà người yêu thơ Hàn Mặc Tử cần biết, nhưng lại chưa được giới thiệu đầy đủ trong các tập sách nghiên cứu khác…”

sưu soạn- theo cách nói, tốn công phu sưu tập- song dễ thực hiện, và ích lợi cho độc giả không nhỏ.

 Bởi vì, chỉ cần mua một cuốn Hàn Mặc Tử Hôm qua &  Hôm nay / Vương Trí Nhàn sưu sọan, ít nhất coi như mua bốn cuốn trích đoạn gộp lại , cộng thêm nhiều bài báo khác nói về Tử.  Đấy cũng là một cách biết kinh doanh hiệu quả về đề tài Hàn Mặc Tử, ít tốn mồ hôi  công sức, giầu công phu sưu tập, thu lợi nhuận về lại cao.

Có ai biết đưọc rằng kẻ sưu soạn trước khi cho  in, đã  có lời xin phép chưa , và sau khi in  chắc gì hậu bối các tác giả nhận được đồng  tiền danh dự gọi là  trả bản quyền? Dieu seul le sait!
 Có Trời mới biết nơi nào ma ăn cỗ!

  một cuốn khác :
 Đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử
 Phạm Xuân Tuyển sưu soạn 
( NXB Văn học 1998) 

  -  hình ảnh thật công phu, đầy đủ nhất, kể cả phổ trạng, hồ sơ học bạ, văn bằng Tử; nhưng đến phần đánh giá giá trị  tư tưởng Tử thì mờ nhạt, không thấy đâu là ý riêng của soạn giả.  Có lẽ, sự ôm đồm hiểu biết kho tàng tài liệu bổ béo về Tử sưu tập được; lúc viết ,soạn giả chưa  kịp tiêu hoá  khai thác thành cuốn sách hữu ích đối với độc giả chọn lọc .
(…).

Giã từ Ghềnh Ráng, quay lại nhìn  ki-ốt nghệ sĩ  viết thơ Hàn Mặc Tử bằng bút lửa, tự nhận người giữ lửa Thơ Hàn - biết dùng vành trăng khuyết in ngoài bià một- lại không biết HÀN MẶC TỬ là bút danh chính thức của Nguyễn Trọng Trí.

Từng theo học mỹ thuật tại thành phố Hồ Chí Minh, Dzu Kha  trở về quê Quy Nhơn-Bình Định , thuê đất dựng lều-  chép  thơ Hàn qua  bút lửa- in thơ bán cho du khách  làm kế sinh nhai, nuôi  đủ vợ,  con – thương-mại-hoá trò chơi  bán thơ, buôn chữ  thực dụng -như cách  làm Vương Trí Nhàn. (Hàn Mặc Tử Hôm qua & Hôm nay) .

 Buổi sinh thời Tử mắc bệnh phung,  cuộc sống thường ngày đói khát, khổ hạnh tâm linh; chết rồi ,có kẻ kế thừa  danh xưng , tạo được đời sống vật chất  no đủ hơn; hẳn Tử cũng được an ủi-  vậy thì cứ hét toáng lên đi :  tên tôi sau này sẽ sung sướng hơn tôi bây giờ ! ( lời than nhà văn  Nga, Nicholas Gogol ?- tôi  nhớ theo trí nhớ ).

Nhìn quang cảnh  chạy dài qua tầm mắt trên quốc lộ 1A, cơn bão mạnh đến nỗi bẻ cây cối gãy gục làm hai như ta bẻ que tăm gập đôi, các khóm tre bật gốc nằm nghiêng ngả; các khung sắt dựng biển quảng cáo trên bờ bị quật đổ, nằm phơi trên ruộng lúa, căn nhà này tróc nóc tôn, căn kia tường gạch bị vạt sạt góc, cửa sắt bị gió xô đẩy uốn cong. Thật chẳng còn cảnh nào thê thảm hơn  lũ lụt hàng năm thường xảy ra vài lần  ở miền Trung! Tự dưng tôi thấy tốc độ xe phóng nhanh , có lẽ bác tài  tranh thủ  đến Đà Nẵng sớm  kịp giờ ăn trưa  tại Nam Hải Vân, và buổi chiều  còn đi thăm khu du lịch Núi Chúa-Bà Nà, chùa Linh Ứng - riêng tôi mong được ngắm đào chuông,  loại hoa hiếm  bông nở rất đều  mầu hồng trên nền xanh rêu , và lủng lẳng cái  chuông nhỏ mầu trắng lắc lư theo gió.

Đã gần một giờ chiều vẫn chưa tới Đà Nẵng, hai bên đường nhìn thấy chẳng có chỗ nào thuận tiện  xe dừng cho khách đi vệ sinh. Xe vào nội ô, nhìn cây cối hai bên  phố phờ phạc, cành đổ , lá trụi , có thân cây to hai người giang tay ôm bị trốc gốc; bác tài mắt nhớn nhác tìm địa chỉ nơi ăn trưa -thì  Nhà hàng Nam Hải Vân đóng cửa từ bao giờ!

Hướng dẫn viên bốc di động gọi cho ai đó, sau đến  một nhà hàng mang bảng hiệu chữ Hán   rất lớn duy nhất mở cửa đón khách tây, ta. Tôi không kịp nhìn tên đường ,chỉ biết mang máng, phía đối diện là Nhà sách Phương Nam cửa đóng then cài.

 Nhà hàng rất đông khách Âu, Á, bữa ăn trưa quá bữa vừa miệng hay không  cũng chỉ để nuốt nhanh hơn mà thôi.  Không kịp ngồi nán cho cơm an vị nơi bao tử, lại  lên đường trực chỉ Khu du lịch Bà Nà.
 Vẫn được chứng kiến cảnh cây đổ, nhà tốc mái, cửa sắt bị bẻ gẫy như trò chơi bằng nhựa  trẻ nhỏ thường chơi- nhớ cách nhập tâm  một dãy trường học cấp hai bị gió làm tốc mái, tường xiêu,  cửa  ngỏ tan hoang, sức gió mạnh đến đỗi  xé toạc thân cây làm đôi  ngã gục chắn đường lên Núi Chúa. 

Trước khi xe  leo lên chùa Linh Ứng ,phải vào mua vé ở quầy ,có tấm bảng hình bầu dục-Xin quí khách mua vé tại đây- nhìn sang phía đối diện là hai căn  song lập, một căn còn nguyên, và căn kia đổ sập tường, mái lốc như nhà mới chưa lợp mái. Vậy là gió cũng chọn đối tượng : căn nào cho xập mái, căn nào cần  giữ nguyên trạng .Cái khổ của dân  bị bão làm tan nát cửa nhà,  ruộng vườn , hoa mầu mất trắng, gà, vịt, trâu bò chết vô tội vạ- khi  được nhà nước đền bù- báo chí đăng tải,  địa phương khiếu kiện bị ăn chặn- nghe đâu từ cơn bão trước đến cơn bão mới -vẫn trong tình trạng chờ được đền bù.

 Và  chỉ không đầy hai năm trở lại, quang cảnh đây đã khác hẳn. Lần ấy, chúng tôi đến Bà Nà  đúng 12 giờ đêm. Con đường lên  đỉnh núi đang  làm dang dở, xe đậu ở chỗ máy đào, chúng tôi bám dốc leo lên  khu du lịch, đẩy cửa phòng ăn, bắt gặp  hàng trăm con bướm đủ  mầu to đùng đậu trên tường. Nhân viên câu lạc bộ  xuống phòng đánh thức phó giám đốc. Chị Vân đưa danh thiếp,  mắt nhắm, mắt mở, hãy còn  ngái ngủ ;cho biết sẽ làm mì gói thịt gà quay ăn tạm. Chúng tôi  thuê một  phòng gồm  ba giường rộng thênh thang, vào toa lét không có nước nóng. đành tắm nước lạnh. Rồi lên giường ngủ, ba người chúng tôi ba giường.

 Anh Vân lái xe rất chiụ chơi, tay lái  cứng  mới dám chấp nhận lên đỉnh  núi cao 1500 thước lần đầu tiên  ban đêm . Cậu Ba, con tôi, khen bố  già  chịu đựng  còn giỏi .

 Trên núi khá lạnh, 10 độ C như khí hậu Đà Lạt, mà trước đó vài tiếng đồng hồ ở chân núi không khí oi ả trên 30 độ C.

Nhìn xuống dưới kia, thành phố Đà Nẵng chỉ là một rừng đèn nhấp nháy. Những căn biệt thự xây từ thời tây, giai đọan Nhật chiếm Đông dương, làm trung tâm dưỡng sức cho quân nhân, công chức Pháp, y hệt biệt thự trên đỉnh đồi Bạch Mã -Huế.

Bây giờ, khoảng đất hoang vu trống trải  vào năm 2004 không còn nữa- nhà cưả xây lên san sát, nhà trệt, nhà lầu đôi ba tấm, nhà  mái ngói đỏ ,tường sơn vôi màu thiên lý; nhà sơn tường mầu tím, mái bằng ,có nhà chỉ mới cất chòi tạm, bốn bề  xây tường bọc quanh kiên cố không muốn ai dòm ngó, có khu đất mua rồi chưa xây nhà, bốn bên trồng cột xi măng rào  giây kẽm gai. Quả  thời gian trôi qua nhanh như tên lửa - người thì càng già càng xấu đi , còn cảnh vật ngày càng xanh  tươi , nhìn càng bắt mắt hơn!

Tôi nhớ rất rõ, đó là  tháng hai 2004, dịch cúm gà tái hiện, báo chí đăng tin rùm beng, trước mắt cần phải tiêu diệt tất cả loài chim kiểng nuôi trong các hộ- kể cả chim bồ câu hoang - với số lượng rất lớn  bay rợp bầu trời thành phố. Họ săn bắt chim bồ câu tự do bằng cách thả hoá chất vào tổ, có ngày chúng chết la liệt - đến  nỗi một cơ quan quốc tế  lên tiếng kêu gọi Ủy ban thành phố xin  hãy ngưng tay!

Một sáng, công an khu vực cùng hai nhân viên  đô thị đến gõ cửa nhà, yêu cầu ký vào biên bản không được nuôi chim kiểng, buộc trao số loại chim đang hót trên sân thượng cho họ. Hồi ấy,tôi nuôi hàng chục loại chim, chú nhồng có bộ lông đen đẹp tựa nhung, sáng nói líu lo nhà có khách bố  ơi , đôi khi khách lên sân thượng ,nghe tiếng không biết ai nói  và từ đâu có giọng trong trẻo đến vậy. Rồi hai con sáo nâu đang bi bô, có khách-có khách , ba con khướu mun  Lữ Quốc Văn tặng - vì bà vợ rỉ rả suốt ngày ông không được nuôi chim,  nhà nước cấm; và con dâu theo phe mẹ chồng: bố ơi mẹ nói đúng đấy, nuôi chim  tai hại lắm, thà bố có mèo  còn chấp nhận được ! Còn hai  chú cu gáy sáng sớm đánh thức chủ cúc cù cu-thứ chim dễ nuôi- chỉ cần bỏ thóc và cát cho nhiều, nước uống đầy ve là ổn. 

Tôi ký vào giấy cam đoan không nuôi chim kiểng ,nhưng nhất định không cho họ lên sân thượng kiểm tra, chỉ vui lòng xách xuống  nộp hai chú cu gáy. Rồi tôi đem các lồng sáo nâu, sáo sậu,  yểng ( miền nam :nhồng)  giấu biệt trong các phòng, khoá cửa lại, và tôi vỗ vài cái ngoài lồng: các con hót là  bị giết đấy!  Ngoan ngoãn biết  nghe thì sống !Chẳng hiểu chúng có lĩnh hội được câu nói dài lại rất lạ tai không? Nhưng chúng không còn hót nữa khi được giấu ở các phòng trên lầu, lầu hai, lầu ba tối như đêm.  

Trưa ấy, tôi sẽ phải đem sáu, bẩy chú chim yêu dấu lên gửi ở nhà Ý Nhi .Qua điện thoại, chủ nhân bằng lòng : 'anh phải đem lên ngay, vì tối nay vợ chồng em lên tàu hỏa ra Quảng Ngãi,về quê anh Lộc !'

 Biệt thự  giáo sư Nguyễn Lộc-Ý Nhi nằm giữa khu đất rộng, không chung chạ xóm giềng,  nhà sẵn nuôi vài chú chim hót, lại chẳng ai hỏi han  dòm ngó. Vậy thì tôi di tản chúng tới đây như đến đất hứa-  mong chúng được sống lâu hơn- dầu mang thân phận  cá chậu, chim lồng. Giả thử thả chúng về với bầu trời tự do, thì chính chúng sẽ tự diệt - bởi chúng chỉ quen môi trường tứ khoái: ăn, ngủ, ỉa, hót-quên cảnh tung đôi cánh soải ngoài  trời bao la -nay tự kiếm thức ăn thì không thể  .

Có được kinh nghiệm này, tôi đã có lần thả chúng, những con khướu mun rất nhát người vẫn không chịu bay đi, cứ bay về luẩn quẩn xung quanh lồng cũ chờ ăn thức ăn .Có chú chim ở  đây cả tuần lễ , rồi mới bay đi  luôn một lèo không trở lại; và bây giờ  hiểu chúng đã quen thuộc  lối sống chim bổi chưa ; hay rồi sẽ giục xác một  nơi nào đó ! (chim bổi: chim hoang dại, chưa được thuần hoá).

Một mình không thể xách hết mấy lồng chim - nhờ con cái trong nhà  tôi lại không muốn -vậy chỉ còn  nhờ cô bạn học cũ của Ý Nhi  cùng học Đại họcTổng hợp Hà Nội- liệu cô vui lòng  bỏ  giấc ngủ trưa ngồi sau chiếc xe  Honda 78 cà tàng- tôi chạy thẳng lên Gò Vấp, phường 11.

Khi tôi vưà cho xe quẹo  trái vào  hẻm dẫn tới chùa Nghệ sĩ - một chiếc lồng nhốt ba chú chim im ắng- không nghe thấy tiếng  lục đục nhảy nhót; mở ra xem  ba chú chết nằm quay lơ. Thế là không còn được nghe chú nhồng gọi nhà có khách bố ơi nữa rồi, còn chú sáo sậu, sáo đen hết bi bô tập nói, chú khướu mun  gục đầu ngoẹo cổ.

 Thôi đành  quẹo vào khu đất đầu hẻm bỏ xác chúng cạnh vài ngôi mộ hoang . Khi đến trước
 nhà, tôi bấm chuông liên hồi, hy vọng cứu sống mấy chú chim sống sót - Ý Nhi chạy vội ra  mở cổng- cô bạn cũ nói ngay:

-Chỉ có Ý Nhi cứu sống được chim Thế Phong thôi!

Cả hai vị  nữ cười  vang , riêng tôi, miệng im như thóc.

Lại một khúc phim được hồi tưởng  về thú chơi chim cuả tôi ngày thơ ấu. Nhà  tôi nằm trên môt ngọn đồi, phía sau trồng toàn cọ,thân cây cao vút, chiều chiều đoàn yểng bay về hót ríu rít. Chúng có bộ lông nhung đen láng mượt mà,  mỏ đỏ chót , giọng trong trẻo cao vút soprano, mỗi lần sải cánh  đậu trên cành cọ, lại nghiêng đầu nhìn  xung quanh rồi mới vào tổ. Chúng  đề phòng an ninh vòng ngoài rất cẩn mật. Cứ như vậy nhiều năm, chẳng bao giờ tôi để ý ,sáng chúng hót vang vang , chiều bay về lại vang vang tiếng hót  lanh lảnh. Mẹ tôi kể, nơi nào đất lành chim đậu, dữ chim bỏ tổ bay đi.

Có một chiều xuân không còn thấy đoàn yểng hàng chục con bay về tổ, chiều hôm sau ,tiếp nhiều chiều tiếp theo , bỗng vắng bặt bóng chim cùng tiếng hót quen thuộc! Cảnh tượng chung hót líu lo, hết con này tới con kia, hót hồi lâu mới liệng đôi cánh xuống cành cọ vào tổ,bây giờ không còn  nữa, vậy chúng đã bỏ đi nơi khác thật rồi sao ?!- mẹ tôi than thở vậy.

Giữa năm ấy, đoàn quân Pháp trốn Nhật đảo chính, do tướng Alexandrie cầm đầu  ( sau này lớn lên tôi mới biết tên) từ ngả Phù Yên-Sơn La băng qua đèo Pú Khau Phạ xuống xã Thượng Bằng La, (huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái) qua Nghiã Lộ , Lào Cai ,sang  Vân Nam -Trung  quốc.

Mẹ tôi nhìn đoàn quân thất thểu trốn chạy, mới ngộ lũ  chim yểng đã biết trước nơi này sẽ là đất dữ, chúng bỏ  tìm đất lành nơi khác. Kinh nghiệm máu thịt chim yểng đã ăn sâu vào trí óc tôi thành kỷ niệm khó mờ nhạt. 

Lại thêm kỷ niệm  khác sâu sắc  về chim yểng đến với tôi sau khi Sài Gòn được giải phóng . Khi ấy, gia đình  sống bằng nghề bán nón (mũ ) trên lề đường Hai Bà Trưng, trước trường bà sơ Thiên Phước -Tân Định. 

 Có một chiều nhập nhoạng tối, đứng xớ rớ đang  thu hàng đẩy về nhà-  một cô gái trên dưới ba mươi  xách  lồng nhỏ có chú nhồng ( yểng) - tạt vào đòi xem mũ.  Cầm chiếc mũ tai bèo lên, cô  đội vào  ướm thử rất vừa vặn, lại kêu không tiền  liệu đổi con nhồng  được không? Nhìn yểng là mê ngay, tôi  gật đầu tán thành, dầu chưa có ý kiến  vợ. Thôi cũng đành, phải chấp nhận trước tiếng ì xèo, nếu  vợ trách móc-cơm chưa đủ ăn nuôi chim với chóc-  lấy gì cho nó ăn, thời giờ đâu săn sóc ! Một khi   được chấp nhận  nuôi  nhồng đành chấp nhận  sự trả giá. May quá, vợ tôi không nói gì, tôi  nuôi  bằng bo bo,  nó cũng ăn, và  tôi luôn luôn dành tiền mua trái chuối  nẳng (bỏ đi)  cho nhồng bồi dưỡng. Nó lớn lên, hót líu lo, và một buổi sáng nghe tiếng: Đù má mày Mười!, giọng chửi ngọt ngào  như cô gái Huế.

 Thôi chết cha rồi, nó bắt chước bà Tàu, mẹ  ruột Mười , thuê gác bà Hai phía sau nhà tôi. Bà hàng xóm không ưa gia đình tôi dọn đến đây cuối năm 75, căn nhà chúng tôi đang ở mua bằng giá  hai trăm đồng, vào kỳ đổi  tiền: năm trăm  Sài Gòn  ăn một đồng tiền giải phóng .

Không biết ai mách công an : nhà thằng cha Bắc kỳ ngụy sáng đêm tối ngày nghe đài Bê Bê Xê.

 Một buổi tối , công an gõ cửa yêu cầu sáng mai 7 giờ, đến 7A Trần Khắc Chân (Trần Khát Chân mới chính xác) trình diện cùng chiếc ra -dô vẫn nghe đài địch phương tây.

 Trước khi đến trình diện công an, tôi vỗ ngoài lồng : Nhồng ơi ,mai này liệu tao còn được chăm sóc nhồng không đây?
 rồi cặp nách ra-dô Philip  lên công an phường. Gặp, ông  hỏi tôi còn là viên chức nhà nước  không? Có, thì tại sao nghe đài địch phương tây, đồ ăn vụng không biết chùi mép, để cho bà Hai   tố cáo không? Thật ngu quá chừng, câu  bán anh em xa mua láng giềng gần, cũng không biết áp dụng. Làm kiểm điểm, nhanh lên.

   trình tờ  kiểm điểm , sếp  phán :  lần đầu không tịch thâu đài, tái phạm cho đi kinh tế mới .
     Vừa ra đến  ngõ, sếp  gọi lại.
     Tôi nghĩ, hay sếp báo cho đội xe ,chắc chắn  tôi sẽ bị đuổi việc.

Trở vào, sếp lại  xua tay, thôi đi đi , nhớ không tái phạm.Vưà lúc ấy ,vợ sếp cầm giỏ đi chợ. Ông vội vã dắt chiếc xe đạp, chống một chân xuống đất, giục vợ nhanh lên.

Ôi ! cảm ơn Chúa, bữa nay- nếu  bà vợ không  nhờ chồng chở đi chợ- có lẽ tim tôi sẽ nhẩy phọt ra ngoài. Và  rướn mắt nhìn  sếp còng lưng  chở vợ trên poọc-ba-ga (porte bagages) ì ạch đạp, lốp xe non hơi bánh sau  chưa được bơm căng.

 Rồi cách đó trên mươi năm, tôi thường uống cà phê ở một hẻm nhỏ - 173 Trần Kế Xương-Phú Nhuận. Hẻm cụt rất rộng, chỉ có vài căn nhà cho ngoại kiều thuê, nhà đầu ngõ nuôi chim hót líu lo. Tiếng nhồng lanh lảnh cao vút như giọng nữ soprano quí tộc, cu gáy cúc cù cu đủ kiểu, khướu, rồi họa mi hợp bản đồng ca. Nhấp lên môi  hụm cà phê thơm lựng, lại đọc tiếp tờ báo hợp gu, kể ra cũng là cái thú khó tả!

Bỗng có tiếng người  mời mua vé số. Tôi ít khi ngửng đầu lên và  chỉ lắc đầu- sao vẫn nghe thấy có tiếng  tiếp tục mời. Bỏ báo xuống bàn, ngửng mặt nhìn, anh bán vé số có dáng người thấp bé  đi dép lê, tay cầm tập vé số chìa ra, giọng năn nỉ mua giùm, từ sáng đến giờ ế quá . Giọng nói nghe quen quen, nghĩ mãi vẫn chưa thể nhận ra. Trí nhớ bây giờ thua ngày còn trẻ rất xa, xưa kia, ra đường gặp một ai đó, nhìn một lần - một hai tháng sau gặp lại  vẫn nhớ gặp ở đâu, bao giờ,  quần áo mặc lúc ấy có khác bây giờ, dáng điệu vui buồn -tôi đều nhớ hết. Còn giờ này, lấy tay vỗ trán như năn nỉ hãy nhớ lại xem , anh bạn này quen, rất quen. Bỗng tôi à một tiếng  nói thầm- nhớ ra rồi, và không thể tưởng rằng  người quen tôi bây giờ vất vả đến vậy. Tôi gợi ý mời anh uống ly cà phê đầu ngày đã,  và tôi sẽ mua mở hàng .Anh ngồi xuống, vừa uống vừa theo dõi tôi  lướt mắt qua các con số  -dừng lại  số  33 - ưng bụng rồi lại  vẫn lật tiếp. Sau tôi bảo anh đếm cho năm tấm. Trả tiền rồi ,anh cũng vừa uống xong- anh nói trông quen lắm-như đã từng gặp ở đâu rồi, ít nhất một lần uống cà phê thì phải. Trả lời, chắc anh  thấy  giống ai đó thôi, tôi mới ở Hà Nội vào thăm con, và nếu  trưóc kia anh  ở quận Hoàn Kiếm, thì có lẽ chúng ta đã gặp nhau ít nhất một lần.

 Anh  nhận tiền, cảm ơn  ly cà phê  chúc tôi chiều nay may mắn. Đi một quãng, quay lại nhìn tôi một lần nữa, rồi đi thẳng về phía ngã ba: Vé số trúng chiều này đây? Mua đi kẻo hết !
Nhận ra rồi, giọng nói của trung úy Tân-  không sai vào đâu được - công an khu vựcTân Định- người đã  tha tôi  một lần nghe trộm đài BBC thời bao cấp.

 Còn  nhồng biết nói  hẳn  nghe lóm từ  gác sau bà Hai cho bà Tàu thuê . Nào có ai dạy đâu,  chúng tôi mỗi người một việc; tối tăm mặt mày  kiếm gạo, có gạo rồi nhặt sạn mất cả  tiếng đồng hồ . Sáng sớm  cả nhà đi hết, khoá cửa lại , giao chú nhồng trông nhà. Vợ tôi bán nón  và  các con  đi học về  phụ mẹ- còn tôi từ tinh mơ đạp xe đạp lên  đầu bến xe Thủ Đức đi đến tối mịt mới về. Con nhồng lắng nghe  bà Tàu  bên cạnh  mắng chửi con, vốn thông minh có sẵn , nhồng nhập  tâm  rủa sả với giọng  ngây thơ ngọt ngào rất đáng yêu!

Vào một  buổi sáng tinh mơ, không còn được nghe  yểng đánh thức, nhìn vào lồng thấy nó như rất đau đớn, ăn ít, kể cả chuối , món khoái khẩu. Tôi chẳng biết nó bệnh ra sao; nghĩ đến vợ con cảm cúm, nhức đầu, sổ mũi ;cũng chỉ bôi vài giọt dầu xanh còn sót - vậy con nhồng này đau bệnh gì bỏ ăn, nhìn lông xù lên, không mượt mà  nữa , thật đau xót!

 Đi làm suốt ngày, tối mịt mới về, sáng sau trở dậy nhớ đến nhồng, chạy lại thăm ; nó đã nằm quay lơ ở góc lồng . Mở cửa, nhặt xác, nhìn thấy cổ nó có một mụn nhọt bằng hột ngô đầy mủ.  Nghẹn ngào trong cuống họng, muốn thốt lời chửi thề thật ai oán.

 “Nhồng ơi, thế là cũng qua một kiếp sống, giả thử thân tao đây đau ốm đâu có thuốc thang, rồi cũng lâm vào cảnh nằm co quắp như mày trong xó xỉnh kia thì cũng chẳng lấy làm lạ, phải vậy không? Thôi vĩnh biệt Nhồng một lần cho mãi mãi!”

Mang nỗi buồn lặng lẽ hàng tuần lễ, cứ sáng ra, nhìn vào lồng trống không, chẳng  còn nghe tiếng hót đánh thức lúc sáng sớm tinh mơ, cùng giọng cao : Đù má mày- Mười! - tôi hứa sẽ nuôi được con yểng khác và dạy nói một câu khác :

‘Nhồng ơi ! nhớ sống lâu nghe, nhồng!


Đến Huế đã bẩy rưỡi tối, xe ca chạy thẳng đến quán  An Phú, đường Chu Văn An. Phải  thừa nhận bữa cơm tối có nhiều món đặc sản đất cố đô rất ngon miệng: canh chua tôm chả, cá chiên sốt cà, rau muống sào tỏi, mực sào hành, thịt luộc tôm chua khoái khẩu. Ăn chưa xong, càc em thiếu nhi vào múa  lân  đúng dịp trung thu trời tạnh ráo  thật vui nhộn. Nhiều khách trong đoàn ủng hộ tiền gây qũy cho các em ,và chuẩn bị về khách sạn. Hướng dẫn viên  thông báo quí khách nào mệt không tham dự nghe nhạc cung đình  có thể mang đồ đạc xuống khách sạn Á Đông  II, và ai tham dự đi thuyền, nghe nhạc cung đình xin mời đi tiếp.

Tối trung thu, bầu trời trong vắt, đó là điều kỳ lạ hiếm  thấy, khác hẳn với đêm rằm các năm tết thiếu nhi mưa sụt sùi, dai dẳng.  Đêm trăng rằm được lênh đênh trên thuyền  rồng , nhìn bốn cô ca sĩ aó tím Huế chân dài, có  mệt mấy đi nữa, tôi vẫn rủ vợ  cùng tham dự. Đoàn còn lại khoảng mươi người, kể cả vợ chồng tôi.

 Hai chiếc thuyền rồng nổ máy ra giữa dòng neo lại, ban nhạc cùng bốn ca sĩ tha thướt ẩn mình     trong  những chiếc áo dài đẹp mê hồn, giọng ca da diết, đôi mắt cô nhiều tuổi nhất hớp hồn nhận bông hồng tặng từ một  khách nam. Một bó hồng cắm trong chậu chờ bán, cứ mười ngàn/ bông, khách mua tặng ca sĩ  có giọng ca vừa ý. Cô ca sĩ áo tím Huế đàn chị được mươi lăm bông cbi đó, còn ít nhất cũng được  năm,bẩy bông. Nữ bác sĩ Kim  tướng ẩn phu quân , bước thình thịch trên cầu ván , chao đảo thuyền làm  chòng trành, cũng  chịu khó trườn mặt  nhiều lần tặng hoa  nhạc công nam. Thế ra, tôi đã chụp được vô số ảnh bốn nữ ca sĩ trên thuyền rồng đêm ấy.

Trở về khách sạn gần mười một giờ đêm, nhận phòng chậm , chìa khoá  phòng mang số 402. Phòng ốc đẹp, hai giường, có bồn tắm , ti vi, tủ lạnh, trên bàn bốn trái chuối  tiêu vàng óng  ghi  hàng chữ khuyến mãi. Khổ nhất là  không có nước tắm , lần này phải giúng khăn mặt ướt tắm khô,  vòi khô rang không có một giọt. Lên giường nằm trằn trọc mãi, giấc ngủ không cần vỗ về , may mắn làm sao cũng chợp mắt được vài tiếng đồng hồ.


     HAI :  QUẢNG TRỊ - QUẢNG BÌNH: THÁNH ĐỊA LA VANG - PHONG NHA-KẺ BÀNG.


Bây giờ đến thành cổ Quảng  Trị. Xe rẽ vào khu thánh địa Mẹ La Vang. Toạ lạc trên một khu đất rộng vuông vức, cây lá xum suê, tượng Đức Mẹ xây cất từ thập niên  sáu hay bẩy mươi tôi không nhớ rõ, bàn thờ  nghi ngút khói hương tỏa mù mịt, người người vái lạy cầu nguyện không thôi. Chẳng phải sau 1975 mà từ những ngày trước đó,  đã nhiều lần  người người mách bảo nhau, tương truyền tượng Đức Mẹ chảy nước mắt, thế là tín đồ   lương giáo ùn ùn từ phiá  Nam ào ào ra Quảng Trị hành hương. Cảnh trẩy hội nhộn nhịp chẳng kém gì tín  đồ đạo Hồi hàng năm kéo về Mecca trẩy hội. Gần bàn thờ tượng Đức Mẹ là Nhà nguyện được xây cất từ thời trước,  xây cất đồ sộ, thiết kế mẫu mã thời La Mã. Nhà Nguyện như một pháo đài hình chữ  nhật  kiên cố -  trên bờ tường gạch  trần đầy vết tích dấu đạn, bom cày  sâu hoắm thời  kỳ mùa hè đỏ lửa bẩy hai. Có viên gạch trần trụi mầu nâu xậm, cũng có viên  cũng nâu thật đậm như máu khô, tôi chợt nghĩ đến giọt máu chiến sĩ hai mặt trận đối kháng trực diện  đổ ra, cả máu dân lành vô tội vào tìm nơi trú ẩn an toàn đã  bỏ mạng tại đây chăng? Trước cửa vòm Nhà nguyện một tấm bảng lớn đong đưa , tôi đọc hàng chữ :

       XIN MẸ PHÙ HỘ CHÚNG CON LUÔN SỐNG ĐỨC HẠNH ĐẦY LÒNG CẬY TRÔNG.

 Nhìn sâu vào trong nhà nguyện sâu hun hút, rất đông tín đồ tham dự, tiếng cầu kinh giữa trưa âm vang như đàn ong vĩ đại  bay vo ve trẩy hội xuân. Cũng nhiều xe ca hướng Bắc Nam dừng lại nghỉ ngơi cho khách tham quan ; bác tài, phụ xe treo võng đong đưa dưới tầng hầm hàng hóa.  Đi sâu vào phía trong, một tòa nhà mới xây cất thật đồ sộ,  phiá trước tòa nhà là tấm biển lớn  ở trên tầng cao chót :

                       TRUNG TÂM THÁNH MẪU LA VANG - NHÀ  HÀNH HƯƠNG

 Trưóc sảnh đặt tượng Đức Mẹ trước lối ra vào, ước tính  nhà hành hương ba  tầng lầu có thể chứa hàng ngàn tín đồ trẩy hội ngủ qua đêm cách nhưng không. Ông Đặng đi tập tễnh từ Nhà hành hưong bước ra  :

-Khách sạn thánh  nhà Cha  này lớn qúa ông ơi, hàng  trăm phòng là ít- giá đêm nay đuợc ngủ  một đêm ở Quảng Trị- tôi xung phong  thuê ngay  một phòng trên lầu ba, chỉ cần  qua đêm ngủ thôi, sáng mai trở dậy, mặc nhiên tôi trở nên người thánh!

Mưa bắt đầu nặng hạt, xe buộc giảm tốc độ chạy chậm hơn , lấy tờ chương trình  ra xem . Qua Quảng Trị thăm Thánh địa La Vang , viếng Nghĩa trang Trường Sơn- vậy cơn mưa này có gây trở ngại ít nhiều không đây? Hướng dẫn viên  trần tình với khách, cứ yên tâm đi, chương trình vẫn được thực hiện tốt thôi. Xe chạy qua các công trường  xây dựng đang xây cất, nào tiếng xe rờ mọoc  ầm ầm   lầm lũi xúc đất làm đường trong khu công nghiệp đang mở rộng, chẳng bao lâu nơi này sẽ trù phú.

Tôi nhìn thấy tấm bảng chỉ đường  ĐÈO MỤ GỊA, nhớ lại thời chiến tranh thường ngày bị Không lực Mỹ thả bom ác liệt. Vẫn để mắt  nhìn hai bên đường, quang cảnh êm lặng, cây cối bắt đầu  được phủ mầu xanh ; dường như vẫn ẩn chìm nhiều bất trắc: còn rất nhiều bom đạn chưa được gỡ đi, nhiều nạn nhân cụt tay, chân vì cưa bom  năm trăm, một ngàn cân Anh  lấy thuốc đạn, lại tưởng chừng ngon cơm như cưa gỗ vậy.  Khi xe  chạy tới đường Hồ Chí Minh, hướng dẫn viên thuyết minh, từ  đây chỉ cách nước Lào anh em chín cây số, bác tài cho xe quẹo sang tay mặt đến Nghĩa trang Trường Sơn.

Cơn mưa  tạnh hẳn, đã nhìn thấy tia nắng vàng èo uột chiếu trên bông sim tím bên vệ đường.  Mầu tím dại  hoa sim gặp trên đường hành quân  đã tạo cơ hội cho  Vệ quốc quân Hữu Loan trở thành nổi tiếng cực kỳ với Mầu tím hoa sim đấy thôi ! Mầu tím hoa sim / tím cả chiều hoang biền biệt !

Biết đâu đồi MỤ GỊA PASS  còn nhìn thấy  kia kìa , xưa  phi công Mỹ đi không ai tìm xác rơi ,  máu hoà quyện tím hoa sim cùng biết bao chiến sĩ khuyết danh bỏ mạng nơi này!
Rồi xe ca bắt đầu quẹo vào Nghĩa trang Trường Sơn.

 Ông Thành, người  đầu tiên mua bó nhang thật lớn, một mình đi phăng phăng qua khu bia mộ .

Giữa bạt ngàn ngôi mộ, với người lần đầu đến đây, chắc sẽ phải hỏi  ban hướng dẫn , vẫn chưa  chắc tìm thấy – với ông Thành, đây không là lần đầu đến thắp nhang trên mộ cậu em vợ bỏ mạng trên Đèo Mụ Giạ năm nào.

 Câu chuyện trai sinh bắc, tử nam chẳng  phải lạ lẫm với thanh niên miền bắc thời chống Mỹ-em vợ ông Thành giã từ  đời chưa một lần biết đến da thịt phụ nữ  thật sao? Xác được tập kết chôn  ở đây thật may mắn; còn biết bao xác vô danh chưa tìm thấy, cứ mỗi lần người thân nghĩ tới thôi  đã nhức nhối lắm rồi !
-Làm sao ông biết- chị cậu ấy nhận thư cuối cùng  tâm sự vậy. 
 Một thanh niên mua cặp nón tai bèo, hai bên vành mũ đề thơ: Trường sơn đông nắng tây mưa / Anh chưa tới đó như chưa hiểu mình? lại chẳng đề tên tác giả.
 Buột miệng, cậu nói với bà bán hàng:
 ..”vè lục bát hay đấy chứ, lần này đem về Mỹ  lưu niệm chuyến đi xuyên việt cũng đặc biệt , cũng tốt  phải không?

 Ông Thành gân cổ phản biện : thơ nhà thơ lớn  không cần  xướng danh - cả nước phải biết  là của ai – chỉ mình cậu không biết mà thôi.Thơ lục bát hay vậy sao dám cho là vè? Thời mở cửa  tha thứ hết , chứ vào thời  thủ đô mới được giải phóng- cậu Trần Dần ti toe vài câu chê bai , tương lai cuộc đời un point final cho đến lúc chết đấy!

Thanh niên  gang bạnh cổ ra, hùng hổ phản biện :
-… lục bát dở gọi là vè-  vè hay mới được gọi là lục bát . Hai câu vè  kia tàm tạm thôi bác ạ !
 Ông Thành vẫn không đồng ý, hai khách già trẻ, kẻ  bên đông, người tây, chẳng ai chịu ai -  tốt nhất mời lên xe là hết cãi cọ, nên  hướng dẫn viên  gióng tiếng khách lên xe kịp đến Đồng  Hới .

Và cậu thanh niên  ôm cặp nón tai bèo chạy vội trả lại . Mũ bị lỗi hay sao- không phải -chỉ  muốn đổi cái  nào trống trơn, không  thơ thẩn, vè viếc gì sất cả..
 Bà hàng trả lời không có- cậu  bỏ hai chiếc nón lại-
-…-thôi cháu biếu laị bác đấy!

Ông Thành lắc đầu, thanh niên bây giờ ngang như cua, đáng tuổi cháu lại cứ như tưởng  mình ông nội!

 Giã từ Nghĩa trang Trường Sơn, nhìn đàn bò lững thững gặm cỏ bên hồ- bò đực lông  vàng-   đực ít hơn cái , bò cái  lại  nhiều hơn bê;  tôi đếm được đến  con thứ mười hai - có phải  nguồn lợi phụ  của  cô  chú, anh chị bảo vệ  nghĩa trang- ngày đêm canh gác linh hồn chiến sĩ vị quốc vong thân  xếp hàng yên nghỉ trong chiều  lộng gió Trường sơn.

Mưa càng nặng hạt hơn khi xe ca đậu trước cửa nhà hàng Hương Giang trên đường Quang Trung, thị xã Quảng Bình. Chúng tôi được cô Huyền chia phòng ở lầu một- thuộc diện già cả-khách đăng ký phòng riêng hai người được ưu tiên hơn
.
Một phụ nữ to béo trạc tuổi sáu mươi mặc áo mưa, tướng đi ục ịch , đẩy  chiếc va li Samsonite to xù vào phòng tôi. -Phòng đã có người rồi xin lỗi – khách quay mặt lại, cởi áo mưa; tôi nhận ra ngay bác sĩ Kim.

Chị gửi va li, vì được sắp xếp phòng  ở  khách sạn  Hương Giang II rất xa đây,  đẩy đi rất cực.  Thế là chị không giận  hờn  tôi, lần  nào  kể  chuyện vui phúng thích  châm biếm một nhân vật chính trị, với chị lạ là thần tượng  không thể ai được quyền đụng chạm tới.

Phòng nghỉ  khang trang , máy điều hòa, ti vi, tủ lạnh, tủ đựng quần áo, phòng vệ sinh  sạch sẽ,  nước non có đấy, chứ không như  phòng 402 Khách Sạn Á Đông II -Huế.  Đối với khách du lịch, restroom  cần riêng biệt, bồn tắm  đầy đủ nước nôi .Chỉ mới kịp tắm xong,  hướng dẫn viên gọi ơi ới  đến giờ cơm tối. Quầy nhận giặt quần áo, sáng mai nhận lại , tôi giao luôn mấy bộ tồn đọng từ  mấy ngày nay.

 Chân  tôi đang giẫm  lên đất này, nhớ ra rồi - Quảng Bình – chính là quê Trần Nhật Thu , người viết chung với tôi  hai chương sách ,và là đầu nậu  thầu in cuốn sách  T.T. KH. Nàng là Ai?.

 Cuốn sách bán chạy nhất năm chín tư- hơn bẩy chục bài báo, dài, ngắn, từ bắc chí nam, từ trong đến ngoài nước ầm ĩ khen, chê -đến  nỗi  tin đồn thổi loan ra sách có vấn đề nên thị thu hồi cấm bán- khiếnT rần nhật Thu phải đính chính, anh gọi điện thoại hỏi thẳng bộ trưởng và làm việc với A 25 làm gì có chuyện này.

Câu chuyện  được hồi tướng , một sáng  bốn  bạn văn chương cùng  uống cà phê ,bỗng có khách lạ vào toà soạn tìm Thu. Và, câu chuyện trao đổi giữa hai người diễn ra.
-Em ( người khách)  đi kiểm tra một số cơ sở in ấn trong thành phố, nhìn thấy  cuốn Nàng là  Ai? hay Ai là Nàng?  chất từng chồng  chưa vào bìa .Quản đốc phân xưởng trả lời sách in hai ngàn  thôi,  có ghi ở  trang lưu chiếu  đàng hoàng. Con mắt nhà nghề chỉ cần  liếc qua, biết ngay những ram  giấy đã in xong  xếp từng chồng cao vút kia gấp năm, sáu lần số lượng kê khai. Hợp đồng nhà in với người đại diện bên B đâu? Quản đốc xoa tay  xuống nước:- Thưa sếp, sách này  của anh  N.T  in đấy ạ!-/Thôi được, có thật cuả anh N.T. không? – Dạ thật ạ! Thế là em biết tỏng anh  đặt in  lần đầu  ít nhất  cũng trên mười ngàn?

Khách bước ra cổng vui , huơ chiếc phong bì lì xì ,Thu trở vào- nói  bâng quơ:
-Đó là cậu Khánh ở  PA  1…đến chúc tết sớm thôi, chẳng có chuyện gì đâu?

Trần nhật Thu thường kể cho tôi nghe mấy kỳ quan nơi quê anh – thì hôm nay tôi được chiêm ngưỡng bằng chính đôi mắt của mình. Giờ đây , trước mắt tôi đang được ngắm Quảng Bình Quan, di tích lịch sử được trùng tu nguyên trạng, và nhiều khách sạn xây mới, nhà nghỉ nâng cấp, tạo bộ mặt đường phố sang trọng hơn. Có điều tiếc nữa, chưa được đặt chân lên sân cỏ Nhà thờ Tam Tòa, nơi đã chứng kiến làm pháp rửa tội  đầu tiên của Nguyễn Trọng Trí – nhà thơ Hàn Mặc Tử tài danh sau này – bay giờ có một con đường mang tên thi nhân;  còn nhà thơ bị bom Mỹ đánh sập, chơ vơ gác  chuông cụt ngọn, như chứng kiến đạn bom để lại trong thời chiến tranh tên đất Quảng Bình.

Khách đi xuyện việt bằng xe ca đương nhiên ngồi trên xe nhiều hơn tham quan thắng cảnh , đi suốt ngày mệt nhoài. Rất may bữa cơm tối ở Đồng Hới ngon miệng. Thức ăn hải sản, chỉ  một đĩa mực luộc thịt trắng phau  thôi đã khiến tôi thèm nhỏ dãi, cá chiên  dầm nước mắm, rau lang luộc, canh chua nấu hến, thịt bò xào  la ghim ( tiếng địa phương phiên âm légume) với cơm trắng dẻo, một ly trà  đá tiêu chuẩn . Gọi thêm lon bia hộp,  tôi đưa lên nhấp vài ngụm, hít hà khen tuyệt!

Chương trình sáng sau, chúng tôi đi thăm Động Phong Nha-Kẻ Bàng , từ thị xã Đồng Hới đến đó trên dưới bốn chục cây số, xe chạy hơn tiếng đồng hồ, điểm dừng đầu tiên , nhà hàng ven sông : Quán Cô Phượng. Hướng dẫn viên cho biết đi trên dòng sông Son bằng thuyền máy khoảng trên một tiếng nữa tới động. Hy vọng cơn mưa đêm qua  không bít động ướt, và ta chỉ thăm động khô thôi.

Dòng sông Son nước đỏ màu son, lững lỡ dòng chảy đến  giáp khu vực núi đá xanh  biếc đến rợn người.  Nhà cửa mới xây, đa số nhà trệt, tường gạch, mái tôn như Quán Cô Phượng lèo tèo mấy cái,  xa hơn là Nhà thờ Công giáo, bao quanh đó vài ngôi nhà xây kiên cố  lên một hai tấm. Nhớ đến chị Lê Thị Cả- một tín đồ Báp tít Sài Gòn - cũng ở đâu đó trong xã Sơn Trạch này, nhìn quanh quất, giá gặp được chị sẽ vui biết mấy! Chị Cả từng giúp việc nhà chúng tôi ở Sài Gòn một thời gian ngắn. Chúng tôi rất quí mến chị, người giúp việc siêng năng, chịu khó, trung thực -  làm được mấy tháng nhận tin chồng  phải vào bệnh viện Việt Nam- Cu Ba , chị lấy vé tàu về gấp Đồng Hới nuôi chồng. Chị hứa trở lại, lúc giã từ  vợ tôi tặng chiếc bàn ủi , nên  vừa rồi nói đùa, ít ra nơi này chúng ta có một chiếc bàn ủi nằm đâu đó muốn gặp lại chủ cũ. Tôi cứ tưởng tượng nhà chị Cả  khuất sau một khu vườn có cây cối bao quanh, nằm bên dòng sông Son thơ mộng .

 Nhìn vào hang động sâu hun hút, bến đỗ của chiếc thuyền mới chở chúng tôi tới- tôi đưa máy lên chụp, một tài công chỉ vào vach đá bị sạt, đó là chiến tích  giặc lái Mỹ thả bom mà chẳng hề hấn gì! Chúng tôi bắt đầu  leo  dốc đá cao vòi vọi, có chỗ khe đá chỉ đủ một người nghiêng mình  lách qua, tứ phía hang động thạch nhũ loè ánh  sáng, máy ảnh đủ loại , kỹ thuật số thợ ảnh, máy cơ  du khách. Cái đèn pin chuẩn bị mang theo thật  tình cờ, giờ này giúp ích  không ít  chúng tôi  ngắm  nhìn cảnh đẹp từ  hàng triệu năm để lại. Lên tới đỉnh, đếm được trên năm trăm bậc, chúng tôi thở hổn hến mệt nhoài, vợ tôi cũng được thử sức khoẻ qua thân xác đàn bà tròn bẩy mươi đủ sức lực  leo tới đỉnh núi Kẻ  Bàng-Phong Nha.
 
Bắt đầu  xuống núi -tạt vào quầy bán lưu niệm, đồ uống giải khát -phóng tầm mắt nhìn  xuống dưới kia, dòng sông Son  bao  quanh  núi đá chập chùng uốn lượn- quang cảnh thiên nhiên hùng vĩ,  xứng đáng di sản thiên nhiên quốc tế thừa nhận.

 Rồi thuyền máy lại  đưa chúng tôi trở ra Quán Cô Phượng. Xế trưa , bụng đói cồn cào, cơm nóng canh sốt bưng ra, ăn xong gọi ly cà phê đen mườì ngàn đồng – chất lượng thua xa  ly ba ngàn, nơi  quán cóc anh Minh,  ngã tư Đặng Dung-Trần Khắc Chân-Tân Định .

Trước khi lên xe ca,  thợ ảnh bu quanh , tay cầm ảnh, miệng rao ai chụp ảnh ra nhận trả tiền.  Đa số khách  từ chối không chụp trong hang động,  bây giờ đây vẫn bị một phụ nữ mời nhận ảnh, giọng ồm ồm nam tính tía lia: ảnh đẹp đây hai chục nghìn tấm ép ny lông, cả đời mới có một lần thăm Động Phong Nha- Kẻ Bàng. Khách kêu đắt, và có ai gọi chụp đâu mà mời nhận ảnh. Bác sĩ Kim ghé vào tai nói nhỏ:
-Anh chị đợi lúc xe chạy hãy lấy ảnh, bốn tấm 13x18 trả hai chục ngàn  thôi.
                                                                                                                                                                                
Bốc di động thăm Ý Nhi, lúc đi không kịp báo, chuông điện thoại reo liên hồi, mãi sau người bắt máy  trả lời chú cô đã xuống Sài Gòn  từ sáng sớm. Một thanh niên hỏi , chú xài  mạng 090 hay 091 mà ngon lành vậy? Chắc chú xài mạng khác cháu, nên máy mới bắt ngon lành vậy, có gọi ra nước ngoài vẫn  number one.

Vậy là từ trên đỉnh núi , tôi có thể gọi di động cho Lê Duyên đang chu du Mỹ quốc- hiện đang ở Houston thăm vợ chồng anh Đắc rồi.

Và  tôi nhớ chuyện  cô biên tập viên NXB Văn nghệ thành phố- có đôi mắt luôn được che chắn bởi cặp kính râm. Đã rất nhiều lần vào cuối thập niên chín mươi, Lý Văn Sâm từ đường Trương Quốc Dung- Phú Nhuận  thuê xe ôm,  hoặc xích lô đạp tới Tân Định rủ tôi đến Nhà sách Văn Nghệ đường Lý Chính Thắng ăn sáng, uống cà phê , để  lấy hứng để viết tác phẩm mới. Lúc đầu tôi tưởng thật, anh chàng này đang dự  tính viết oeuvre posthume chăng ; song không phải vậy, anh tìm hứng từ cô biên tập có đôi mắt đẹp , từng  biên  tập Kòn Trô tái bản- nhưng đôi mắt kia lúc nào cũng bị cầm tù qua đôi kính  râm rất vô duyên  , khiến  tui chẳng bao giờ được thỏa thuê nhín ngắm?! Một lần, hai chúng tôi đang uống cà phê, gặp giám đốc, sếp của Lê Duyên, sà vào kéo ghế ngồi chung bàn, tự gọi đồ uống, rút điếu 555 để trước mặt Sâm, châm lưả hít một hơi :

Uả, anh Hai Lý kiếm em ,sao không điện báo trước cà?  Ở bìa 4 Kòn Trô- in lời bình nhà văn Sài Gòn cũ, em gạch bỏ tên chả, chỉ để lại  texte thôi. Anh Hai Lý thông cảm nghe!
–Tui đến đây đâu phải kiếm chú  ,mà chỉ tìm gặp cô Lê Duyên , biên tập viên sách Kòn Trô thôi. Mà bữa nay cô ấy có đến làm việc không, Nhã?

 Một lát sau , Lê Duyên  cùng hai người nữ chọn bàn gần đó, Sâm lau mắt kính chăm chú nhìn.  Cô biên tập trò chuyện rôm rả, cười nói vui vẻ với bạn -tôi để ý, hình như chưa một lần gỡ cặp kính râm ra khỏi mắt.

Tôi nói đùa Hai Lý:
-Này ông ơi, nói chơi nghe thôi - chỉ ngắm mắt đã  tốn bao công khó, huống hồ  coi mắt được rồi giả thiết vậy-  được người đẹp chấp thuận- thì còn khó  hơn  lạc đà chui qua lỗ kim còn  dễ hơn người giàu vào nước Đức Chúa Trời.'
( Luca-18:25) 

Xe chạy thẳng ra Cửa Lò, hướng dẫn viên thuyết minh: cuộc hành trình này  rất mệt,  sẽ đi  qua Ba Đồn, Hòn La, Cẩm Xuyên, Hồng Lĩnh… mới tới nơi nghỉ.  Lần đi ,sẽ không ghé huyện Can Lộc- Hà Tĩnh, thăm Ngã Ba Đồng Lộc, như chương trình dự định- và lần về sẽ ghé thăm mười cô gái thanh niên xung phong  làm đường bị máy bay Mỹ chôn vùi.

 Xe bon bon chạy trên quốc lộ, tôi đảo mắt nhìn  cảnh bên ngoài, qua Ba Đồn, Hòn La, Kỳ Anh, Nghèn, Hồng  Lĩnh, thì hướng dẫn viên cho biết:

-Núi Hồng Lĩnh có 99 ngọn, thi hào Nguyễn Du đã lội từ chân núi lên đỉnh đèo, chẳng biêt có qua hết 99 ngọn không? Dãy núi xa xa kia, chính là Hồng Lĩnh- chúng ta sắp vào ranh giới Nghệ An, thành phố Vinh , và thêm  khoảng hai chục cây số tới Cửa Lò. Nơi đây có bãi biển đẹp, dân Hà Nội thường đăng ký về đây nghỉ mát cuối tuần, tiện dịp mua hàng giá rẻ từ biên giới chuyển về.

Bẩy giờ tối , xe ca tới đường Lê Hồng Phong –thành phố Vinh.  Đường rộng thênh thang đã đành, đến  vỉa hè  cũng rộng,  trồng tới hai  hàng cây song song  thẳng  tắp chạy đến  cửa khách sạn Phương Nam . Xe chạy ngon trớn trên quốc lộ , từ lúc rẽ phải vào Cửa Lò thì  gập ghềnh  toàn ổ  gà, ổ voi, đèn đường chẳng có , ánh sáng  hai bên phố hoặc đèn ô tô  loang  loáng  sáng, chỗ có, chỗ không.  Xe ô tô lăn trên đường bộ lại  có cảm giác lắc lư như đi  trên biển -ông  Thành phát biểu :chúng ta đang viễn du trong chuyến hải hành  phong ba bão táp biển Đông. Bụng đói, mệt đã đành rồi – đường còn xa chân đã mỏi - chẳng biết câu thơ này có phải của Tản Đà –Nguyễn Khắc Hiếu  đang lởn vởn sống lại trong tâm trí kẻ hậu sinh- mà còn hơn thế nữa kìa- trời tối, bác tài chưa thuộc đường đi,  tay ôm vô lăng xoay dọc, ngang ; miệng  kêu hướng dẫn viên xuống hỏi thăm đường.

 Xe đậu lại giữa ngã ba đường , tôi vội xuống xả bầu tâm sự, bệnh hay lây dẫn tới các  bà, cô, các ông- vậy   nam tả  nữ hữu nhé, mà chẳng ai chịu nghe. Một ông đang vạch quần tè lên bụi-  nghe tiếng  phụ nữ kêu:  thôi chết tôi rồi, ông ơi !- ông hoảng quá, vội  ôm quần trở lui, rối rít xin lỗi.  Và lần này, bác tài rẽ  tay mặt mới đúng hướng đường Quang Trung , nơi tọa lạc khách sạn  Đại  Huệ -Cưả Lò. Tua gọi di động báo sửa soạn cơm  cho 36 thực khách, cứ bày lên bàn đi chúng tôi tới ngay bây giờ!

Tám rưỡi tối, xe bắt đầu vào cổng  biệt thự , hai tòa nhà  ba tầng xây cất thật hoành tráng. Ở đây khách sạn rộng rãi, nhiều phòng, chẳng ai  khiếu nại phải lên lầu ba, lầu bốn; song vẫn thích chọn lầu một hơn .Tắm rửa xong, chúng tôi xuống phòng ăn, chỉ nhìn cách bầy biện thức ăn, nhìn bát, đũa, chén, tô, ly, cốc, sẽ biết ngay bữa ăn này chẳng ra sao rồi!. Và đúng vậy thật!
Gọi đại  một ly cà phê  phin đen , hy vọng uống  sẽ đỡ nhạt miệng hơn, chỉ mới đưa lên miệng nhấp một hớp ,mùi ngô rang  khét lẹt, thôi cũng đành ực ực cạn ly, sau đành phun ra– cà phê phin bốn nghìn đồng , của rẻ xó xỉnh Cửa Lò  làm sao ngon được !

 Như có tiếng ai  gọi,  nhìn xuống lầu một, lại bạn việt kiều tây mặc quần sọoc mời ra phố ban đêm- tìm rượu uống trước, rồi thăm em cho biết sự tình. Đây chẳng phải lần đầu, đến đâu Đức cũng xông xáo hệt nhà báo cần tư liệu sống viết bài , nhằm trúng nơi, đánh trúng đích , rút quân an toàn  mới  yên lòng hả dạ .Chẳng thế, ngay đêm đầu  ở Quy Nhơn, anh rủ ngay vài bạn trẻ   vào quán tươi mát lắc lư con tàu đi đến khuya mới về khách sạn.

Chúng tôi thường đi ngủ sớm, ti vi chẳng có chương trình hấp dẫn như Sài Gòn, nghe qua loa  dự báo thời tiết xong   là leo lên giường; thật đúng tâm trạng  lão  già không chịu nhận  già cứ tưởng  bở  mình  mới đà lớn tuổi đôi chút.

 Sáng nay dậy rất sớm, nhìn đồng bồ ba rưỡi sáng, thói quen  ở nhà nằm xuống tiếp  hẳn sáng sau sẽ dậy muộn, nên tôi  thức luôn ,tập thể dục dọc hành lang, nghe sóng biển giội vào, âm vang nhịp điệu đơn điệu  hắt vào bờ rồi lại  giội ra .

Bỗng có ánh sáng chiếc đèn pin ai đó soi lên hành lang hướng về phía tôi – nhận ra ngay, viên quản lý đi tuần đêm, trang bị gậy gộc, lũ chó dăm con gâu gâu theo sát chủ. Như vậy, đêm Cửa Lò không mấy yên tĩnh , ngoài đường không ánh sáng, đèn tỏ ít, đèn lu nhiều. Nên khách sạn nuôi chó  canh đêm, quản lý canh chừng trộm cướp đột  nhập. Lúc này ,chắc đã bốn giờ hơn, lại nghe  tiếng húyt sáo  ngoài cổng , vẫn là Đức cầm đèn pin rủ ra phố. Cổng còn khóa , chỉ mở lúc sáu giờ sáng - Đức leo rào ra ngoài- hàng rào rất thấp – phân ranh giới giữa hàng xóm với nhau thôi.

 Và sáng nay, vẫn chỉ được  ngắm mà không được tắm biển- tự an ủi-  thôi thì chỉ hơi gíó biển lùa vào  thân thể đã như thêm sức khỏe rồi!
Sáu giờ, chúng tôi ra biển dạo quanh  công viên Cửa Lò –gió biển rì rào  thổi tung áo du khách  -và như  hầu hết  các ki-ốt ở đây mở cửa rất muộn tôi lại gần một ki-ốt quảng cáo bia ANCHOR- biết quán bán bia, có muốn uống đi nữa lại chưa phải lúc.

Buổi sáng : chương trình  đi  thăm Làng Sen ,Làng Trù , và viếng mộ bà Hoàng Thị Loan - thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh.
 Trên đường ra đất Hoa Lư, Tua thuyết minh, gia đình chúng ta sẽ qua Tĩnh Gia, nơi  sản xuất  mắm tôm tuyệt hảo, và cầu Hàm Rồng lịch sử - bao tấn bom  giội xuống đây như ném xuống dòng chảy - cây cầu vẫn hiên ngang  tự tại thách đố chú  Sam.

 Qua Tam Điệp tới thị xã Ninh Bình, ăn trưa quán Anh Dzũng , đi thuyền dọc sông Ngô Đồng nước  biếc xanh phủ lên rêu xanh biếc, nhớ cúi đầu thấp xuống qua Hang Cả, Hang Hai, Hang Ba-thắng cảnh có một không  hai, được ví von- một Vịnh Hạ Long trên cạn -rất ư hoành tráng độc nhất thủ phủ Ninh Bình.

Xe lướt qua làng mạc, xã thôn, thị trấn thị xã, phong cảnh  thanh bình trên quốc lộ 1 A thật tuyệt vời, núi  vẫn phủ mầu xanh  cây lá, sông nước mênh mang , dòng sông  nào mà chẳng đổ ra biển - tôi lại nhớ  hai   nghịch giang,  nước chảy xuôi  có  khúc đảo ngược hướng bắc- dòng Nhật Lệ-Quảng Bình mới đi qua, và sông Kỳ Cùng, Thất Khê -Lạng Sơn  chưa  đi đến.

 Tới Hàm Rồng, nhìn sang tay trái , con đường dẫn tới Rừng Thông, tay phải đi vào bãi biển Sầm Sơn nổi tiếng của Thanh Hoá.

Với tôi , hai tiếng Sầm Sơn âm vang bên tai không phải nhìn lên bản đồ biết bãi biển này, mà được biết qua câu chuyện  kể lại .Vì vậy , tôi rất háo hức hy vọng  có một lần sẽ được ngắm mặt trời ngụp biển Sầm Sơn, chiêm nghiệm vẻ đẹp  thiên nhiên có một không hai bãi biển trên đất nước  mình-như lời kể, từ  bậc đàn anh Nguyễn Đức Quỳnh.  
 Có đến vài chục năm qua đi, chẳng  biết Sầm Sơn đẹp hoang vu ra sao,  hoa lông chông giống con nhím vàng hình tròn bay theo gió thế nào ?

Thời kháng chiến  trên bãi biển  Sầm Sơn - khi ấy Nguyễn Đức Quỳnh ngưng tay ném đĩa  trò chuyện tri âm  với Đặng Thai Mai- còn  Hoàng Lập Ngôn với  chiếc xe ru- lốt Mê Ly lăn bánh giang hồ, và đến câu chuyện Đặng Thai Mai  tranh luận sử học với giáo sư Nguyễn Thiệu Lâu- nhà sử học danh tiếng  lẫy lừng - đồng môn  Ngô Đình Nhu ở École de Chartres   vv…

Tôi cứ nghĩ  vẩn vơ, bãi biển đẹp nước xanh vắt, bãi  cát trắng  soải dài thoai thoải, độ mặn  cần và đủ,  kia núi đồi, đây lạch nước ngọt chảy bên, có biệt thự sang trọng, có phong cảnh hữu tình -  đẹp tựa hồ bãi Đại Lãnh; nếu không ẩn phía sau kỷ niệm, sự kiện  nào đáng ghi nhớ  trải qua từ một thời đoạn sống -khắc sâu tâm khảm, trở thành  ký ức không thể quên- thì chắc gì làm người ta nhớ lâu được!

Và tôi không cần phải mong  đến ngay bãi biển Sầm Sơn - vẫn biết được Sầm Sơn - qua câu chuyện kể Cát biển Sầm Sơn :

”… Buổi tối mọi người kéo nhau ra biển ngồi tới khuya. Thuyền bè nằm ngủ san sát chờ ra khơi: phải chăng biển hồi đó nhiều cá hơn bây giờ?Trăng sáng vằng vặc, vậy mà ngay giữa khoảng cát rộng mênh mông, trẻ con chơi trốn tìm, chỉ cần ngồi thụp xuống là khó bị bắt. Người lớn ngồi thành từng nhóm, chuyện trò, đàn hát. Những đứa bé dân chài, mi mắt, tóc vàng hoe vì không bao giờ đội mũ, da đỏ như đồng, bưng cái khay gỗ trên bày bán bánh pâté sô hoặc bánh rơm đến mời mọc. Bánh rơm làm bằng  khoai lang thái chỉ , tẩm bột sắn thành từng ổ sợi vàng ươm như tổ chim, trên có rắc đường.  Đơn giản vậy mà bánh có vị thanh, thơm. Giấc  ngủ ở biển thật sâu và bình thản. Nó( tác giả Đặng Anh Đào) say tới mức có lần giữa đêm nó thấy nằm lùng bùng như trên võng. Sờ quanh thấy mấy củ khoai, mới biết là mình rơi xuống gầm giường mà vẫn mắc trong màn. Gầm giường thường để khoai lang.(…) Biệt thự ( ba nó thuê biệt thự không tên của ông phó lý, năm 1944) nhìn ra dãy núi Người đàn bà chết đuối. Giờ đây, đi vào thị trấn Sầm Sơn, vẫn thấy bà nằm với mớ tóc xõa dài khoảng mấy cây số, nét mặt cắt nghiêng in vầng trán, cái mũi, cái cằm thanh tú trên nền trời vùng biển. Chỉ có phía bụng hơi phồng lên – do uống nhiều nước quá. Chiều chiều, nó ra ngắm rỉa quạt xanh thẵm in trên nền trời biếc cùng ngôi sao hôm trắng xoá long lanh, một giọt nước mắt của trời đang sắp nhoà theo rặng núi. Mẹ nó phải đi  chợ Thanh bán đường phèn, đường phổi, lụa tơ tầm và vải thô dệt bằng khung cửi. Lời lãi thế nào không biết, chỉ biết là mấy chị em suốt ngày ngậm đường phèn và chị hai nó may những áo bằng tơ và vải thô thêu tổ ong để mặc với quần đùi phồng mầu lam rất mốt thời ấy, gọi là bouffant.(…) Trên bãi biển sáng nào cũng có một người dài lêu nghêu đen kịt, trán hói bóng lộn đang ném đĩa.  Ông ta dừng tay để nói chuyện với ba nó( nhà văn hoá Đặng Thai Mai) : đó là Nguyễn Đức Quỳnh, một nhân vật của nhóm Hàn Thuyên. Dọc đường nhựa sát biển, chiếc ru- lốt Mê ly đang lăn bánh cùng gia đình  hoạ sĩ Hoàng Lập Ngôn. Trên kè đá ấy, một lần, nó thấy một người trắng trẻo như khẩu giò lụa, đi qua mặt ba nó vẻ tình cờ dừng lại nói nhỏ mấy câu. Sau mới biết đó là ông Phan Mỹ, lãnh đạo phong trào sinh viên bị mật tham đuổi, đang tạm trốn về đây.
Những biệt thự đẹp nhất của Pháp đang dần dần hoang vắng: Nhật đảo chính Tây.  Trước khi trường Lycée Albert Sarraut rút đi,  họ tổ chức buổi lửa trại cuối cùng.  Các nữ sinh Pháp xinh đẹp nhất múa điệu Tahitiennnes bên lửa, mặc đúng kiểu các cô gái Tahiti. Những bông hoa trắng  và tím năm cánh mọc dại( cũng được gọi là hoa tứ thời ) kết lại thành váy khóac ra ngoài  xi líp, coóc xê, xâu thành vòng đội lên đầu, rung rinh theo điệu lắc hông hoang dại. Chỉ còn nhà Navaret Tây lại nấn ná ở lại, họ mở lò bánh mì kiếm tiền. Nhà đông con gái rất  sexy, da luôm luôm, khá xinh nhưng quá bỗ bã, bị cả tây lẫn ta coi thường. Tây đi, bãi tắm thôi không phân chia thành khu tây, khu ta.Trước đây nếu không phải dân vào làng tây, hoặc đi với tây, người việt nào lớ xớ đến tắm  ở bãi đá sát chân chùa Độc Cước - được gọi là terrasse- sẽ bị tây đuổi. Rồi nhà Navaret cũng phải rút đi...(…)
Trước khi rời Sầm Sơn, nó lên núi ngắm tòa biệt thự Maiténa, biệt thự vào loại đẹp nhất Sầm Sơn của một chủ ngân hàng Pháp vừa xây xong chưa kịp ở.  Và cũng không ai kịp ở. Vì sau đó nó bị phá hủy ngay trong những ngày đầu năm 47. Khi phá hủy khách sạn Reynauld, người ta kéo được ở dưới giếng lên một thùng kẽm chứa đầy bạc Đông Dương; phát hiện chậm chỉ ít ngày, một kho báu đã biến thành đống giấy lộn… Còn cái khách sạn của viên công sứ tỉnh Ninh Bình, họ đào được một cái quan tài. Đập ra, ở trong có một cái tiểu. Mở cái tiểu ra, họ tìm thấy hai thanh bạc, mỗi thanh bạc mười lạng. Cạo lớp bạc đi, ở trong là  vàng.
Song ngày nó rời Sầm Sơn, tất cả hãy còn nguyên vẹn. Cả những viên cát dã tràng, thủy triều xóa đi hàng ngày,  vậy mà lúc nào cũng vẫn  hằng hà sa số những viên tròn trịa nho nhỏ. Nó dậy trước bình minh. Trên nền trời đen sẫm như nhung chợt xuất hiện những vệt đỏ thắm, hồng, vàng, xanh, xanh lá mạ, nâu… Dường như ông trời - hoạ sĩ muốn phết bút thử màu lên cái pa lét vĩ đại của mình, trước khi nhô ra khỏi biển.
… Giờ đây biển Sầm Sơn đông người đến nỗi mạnh hơn cả thủy triều, họ giẫm nát hết những viên cát li ti, dã tràng xe không kịp. Nhìn lại ngày tháng của mình, hóa ra đó cũng chỉ là những viên tròn đơn điệu giống hệt nhau, thủy triều không xóa đi thì chân người cũng dẫm lên mà không để ý.  Nhưng con dã tràng là tôi đây vẫn cứ viên những viên cát, hình như không thể làm việc khác một khi sống nhờ biển  . 
(  trích ĐẶNG ANH ĐÀO -- TẦM XUÂN  - NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 2005).

Sắp vào thị  xã Ninh Bình, bác tài  cho xe đậu lại vệ đường, hai vợ chồng ông Thành xuống nghỉ lại đêm, có lời bộc bạch:
-Tối nay chúng tôi ngủ một tối ở nhà con trai, sáng mai  gặp lại tại khách sạn Kinh Đô cùng ăn sáng, rồi tiếp tục lên đuờng xuyên việt nhé.

Ông Thành, cán bộ về hưu, người thuộc thơ Tố Hữu làu làu, nhắc tượng mẹ Suốt Quảng Bình,  nhớ ngay Tố Hữu  có mấy câu hay nói về mẹ- nhìn hai câu thơ in  trên mũ tai bèo ( khuyết danh )- anh bạn trẻ nhất định cho  lục bát dở- khiến ông tức giận đỏ mặt, tía tai tranh cãi , quyết ăn thua đủ, dành phần thắng về mình.

Thị xã Ninh Bình có nhiều khu du lịch, đi thăm cố đô Hoa Lư, khu Tràng An,  Vườn quốc gia Cúc Phương, suối nước nóng Kênh  Gà, Nhà thờ đá Phát Diệm ..vv, nhưng chỉ đến đây  dăm bấy tiếng đồng hồ, thì gia đình Nimbus chỉ thăm được Động Tam Cốc thôi. Và đa số chúng tôi chuẩn bị xuống thuyền thăm Tam Cốc.

Cứ bốn người một thuyền nan không gắn máy như thuyền máy  trên sông Son-Quảng Bình. Bà lão chèo  thuyền cho chúng tôi  tóc bạc  rồi, vẫn lam lũ kiếm sống trên dòng sông, hàng ngày đôi ba chuyến,  có khi bà ngồi không cần dùng tay chèo, dùng hai chân  chèo như đôi tay thật điệu nghệ.  Nước xanh mầu lục, hai bên núi đá dựng như tường thành cao vút – sắp tới Hang Cả, nhìn thấy trên đỉnh  núi  phía bên trái  tay tôi, có một đốm trắng lay động  ngoài mỏm đá cheo leo. Ánh nắng chiều  loang loáng trên núi, tôi không thể phân biệt chấm trắng di động kia là vật gì- chưa kịp hỏi, bà lão đoán được ý khách-  chú dê  trắng  vươn mình ra ngắt nhánh lá bỏm bẻm nhai trên ghềnh đá.

 Ông bạn ngồi bên cạnh quay phim, bấm nút  review cho  xem hình dáng chú  dê đực cao lớn, bảnh bao, hoang đàng, lông trắng như  tóc bà lão chèo thuyền, bỏm bẻm ăn  lá cây  tựa bà trầu. Không  những dê hoang được săn bắt đem bán cho nhà hàng,  dê nhà nuôi cũng nhiều, thường được  quảng cáo ở nhà hàng đường Trần Khánh Dư-Tân Định (Sài Gòn) – dê có xuất xứ từ Ninh Bình đem vào.

 Thời chú bé họ  Đinh chăn thuê  bò cho chú, dám cả gan xẻ thịt một con khao lũ bạn; thời đó chắc dê chưa là đặc sản Ninh Bình
.
 Hướng dẫn viên giải thích- đến Ninh Bình – thứ nhất : không xơi thịt dê sẽ là thiếu sót lớn trong đời qúy ông- thứ hai:  ăn thử rồi biết  hiệu quả : trên bảo dưới tuân theo tắp lự, nhại lời  một nhà cầm quyền than: trên bảo dưới không nghe, lệnh trên ban, dưới bất tuân .Cách nói tưng tửng dễ gây cười ,vui vui, làm quên đường xa chân mỏi rã rời -cười lên cho răng dzàng lấp lánh. Anh chàng bẻm mép  tự bạch , ăn chung, ngủ chạ , không bậy bạ , có con chính thức với cô vợ gốc bắc thường hay  xài  : tắp  lự , tất tần tật, cực kỳ , thi thoảng, cứ vô tư đi , tự nhiên như người Hà Nội, rất là .. vv… lại thanh minh-thanh nga, em chả dám pha tiếng bắc, mấy chú, bác, anh chị đâu nhé!

Qua Hang Cả đến Hang II, rồi Hang III , trở về khách sạn  trên đường Phan Đỉnh Phùng.
  Phố xá đông vui, nhà cao, to đùng không thể de xe  vào, lại bốc di động cho người ra dẫn đường- nùi tí nữa đi  bác tài.
 Anh Năm đốp chát :
-…nùi gì mà nùi, xe tớ  thắng cái kịch,  không phải phanh không xơi đâu nhé!
Khách sạn Kinh Đô, … đường Phan Đình Phùng, nhà hàng to đùng xây hai căn liền kề ba tấm rất ấn tượng, và gần đó còn nhiều  khách sạn  xây cất lớn ngang ngửa - phòng ốc ở đây trang bị nội thất tối tân, giường, tủ, bàn phấn các bà, cô - gỗ gụ đánh vẹc- ni rất bóng, toa lét bồn tắm đầy đủ nước nóng ,lạnh, ti vi treo tưòng, điện thoại bàn, tủ lạnh nhỏ đầy đủ thức uống- phòng ăn,  hội trường  rộng rãi, và quầy rượu rất bắt mắt.

Thường ra dinh thự, khách sạn nguy nga, miền bắc xây chóp trên nóc- với Kinh Đô Hôtel không khác hơn - hoặc bắt gặp căn nhà bề thế ở Sài Gòn có chóp  trên  đỉnh,đích thị  chủ nhân gốc bắc. Chủ nhân Kinh Đô tuổi trung niên , thân hình đẫy đà, dáng đi chắc chắn, mặc quần aó ngủ hàng hiệu, ra lệnh nhân viên  làm việc hệt lệnh cho lính. Hỏi ra, từng là sĩ quan trung cấp về hưu, chủ  họ Đỗ. Có thể ông tổ Đỗ Thích không chừng, tôi định làm quen chủ nhân rồi lân la hỏi lai lịch bố con họ Đỗ đầu độc vua cờ lau ra sao - thì tôi liên tưởng đến chuyện một  nhà gia phả học đến gặp tôi , lấy tư liệu phổ trạng dòng họ Đỗ- để viết: Phổ trạng các nhà văn miền Nam đương đại
Đầu tiên ông hỏi lý lịch:
-Tên bố?
-Đỗ Văn Đức.
-Năm sinh?
-Hình như năm 1897.
-Năm qua đời?
- 1947.
-Tên ông nội?
-Tôi không còn nhớ, xin cho tôi có thời gian coi lại gia phả, sẽ trả lời sau.
 -Ông nội không nhớ là sao, thế mà là nhà văn được à - thật lạ kỳ?!
-Nội tôi tên Đỗ Thích – bởi  ông tôi  thích gì thì  làm nấy.
 Khi nhìn ông mở sổ tay ghi chép , nhận ra ngay cách đùa vô ý thức không nên có- và tôi khai tên ông nội ra ngay.

Đã có  một lần trước bảy lăm , ông buộc đưa lại gặp bà cô ruột, chú dượng tôi- để tra xét lý lịch chính xác hơn-  nhờ vậy bà cô ruột tiết lộ cho ông hay- cô ruột tôi Đỗ Thị Kha có đưa con trai , tên Lê Minh- Hoàng Thái Sơn, bỏ nhà vào Nam giang hồ, xuất ngoại làm lính thủy, trở về Sài Gòn viết báo-  từng là tay chơi, buôn lậu  khét tiếng- vào thập niên năm, sáu mươi- anh ta tổ chứcdu lịch bịp bợm , rêu rao đi Hồng Kông, Nhật Bản- du lịch cùng trời khắp đất giá rẻ, hãy đến với chương trình đi và sống  đóng tiền  trước đặt cọc. Thời kỳ ấy, anh ta là chủ nhiệm Đi & Sống, loại báo lá cải bán rất chạy - khách hàng đóng tiền không được đi du lịch, đưa đơn  khởi tố kiện  vv.. vv . Tôi cũng  không theo dõi vụ án tòa giải quyết ra sao. Mãi sau này, nhờ ông Dã Lan, tôi mới biết Lê Minh , con cô cậu ruột  mà ban đầu không hề hay biết- anh ta hơn tôi chừng dăm, bẩy tuổi- có đôi lần gặp  ở nhật báo Dân Đen (chủ nhiệm :Nguyễn Duy Hinh) - tướng tá cao ráo, mặt mày bậm trợn, ít nói, lầm lì- đúng là tay mưu sĩ  giỏi hành động.

-Bây giờ  nhà văn đã phải khai tên ông nội rồi hả?  Viết phổ trạng là phải biết từ ba đời trở lên- làm việc này tôi đã trải qua rất nhiều cực nhọc- phải biết nhẫn nại, có gia đình tôi đến bẩy tám lần mới được tiếp đấy?

-Như với gia đình nào chẳng hạn? tôi hỏi.

-Gia đình cụ Trần Trọng Kim chẳng hạn,  tôi đến lần thứ năm ,ì bàcụ đành mở cổng ,và cô con gái duy nhất sử gia trách khéo mẹ- bác ấy  là người đã giúp cho thế hệ mai hậu hiểu rõ phổ trạng gia đinh ta, sao mẹ lại  thế?  Và sau này, cô con gái đã tặng tôi  bản thảo viết tay Một thời gió bụi, với chữ ký của cụ rành rành -  viết xong ở Phnom Penh- đấy ông ạ! À này, mà tên ông nội sao nghe quen quen, có trùng hợp với tên ai không nhỉ?

 Và,  quả thực, nhà gia phả học Dã Lan  không còn nhớ ai  tên là Đỗ Thích được  chép trong sử đất Hoa Lư thật rồi !?* ( xem thêm phần Phụ Lục: PHỔ TRẠNG ĐỖ MẠNH TƯỜNG của Dã Lan- Nguyễn Đức Dụ)

 Chủ nhân khách sạn họ Đỗ  như đang theo dõi tôi  đọc bảng quảng cáo Kinh Đô Hôtel :
“Thanks  for choosing KINH DO café tours, hopefully you will give us the best ideas to help our hotel serves BESTER day by day have good time to you.Thank!”

Cách viết  đích thị  văn chương bình dân : tiếng tây viết diễn ý ta -BESTER sai có đáng gì làm ầm ỹ  !Cả tây lẫn ta đọc vẫn hiểu được hết- nhưng chữ NOEL thì không, nếu thiếu dấu tréma trên đầu chữ E-sẽ đọc là NOEN- chứ không là NÔ- EN. Tôi để ý, cứ dịp Giáng sinh, các báo viết đều  in chữ NOEL đủ kích cỡ, lớn  dùng co chữ 48, nhỏ thì 6, 8. Lấy thí dụ, một bài báo được viết ra- bắt đầu là phóng viên, chuyển qua biên tập, thông qua thư ký toà soạn, trình biên ủy, tổng biên tập duyệt- dường như  tất cả - một trăm phần trăm nhất trí diệt dấu chấm tréma* trên đầu chữ E. Vẫn là chuyện  chẳng đáng gì,- nếu thiểu số độc giả biết thì sẽ không làm theo cái không biết-còn đa số không biết sẽ vẫn làm theo điều báo chí viết – thì hỏi xem, đã có ông tây, bà đầm xoè nào dám ti toe phản đối :… đồ dốt đặc tiếng pháp đâu?

 Lão luyện  như nhà báo giá đời  Phan Quang, hoặc tác giả sáng giá Đặng Anh Đào-cũng không được miễn trừ?!

Thà phiên âm tiếng việt Nô-En tốt hơn nhiều, vừa dễ đọc, chẳng ông tây nào cười mỉm, cũng không cô đầm nào đang học tiếng việt bị bối rối-  vì bé cái lầm này!

Nhớ lại đầu thập niên chín mươi,  từ nhân viên an toàn giao thông bị chuyển sang làm bảo vệ, rồi lại bị tống ra phụ xe chấm công trực tiếp- chỉ vì  thư  ký công đoàn  Đăng Hải rắp tâm đì sói trán -tôi  vào chấm công,  lại  đụng đầu ngay  giám đốc Công ty đang tiếp chuyện một người Pháp qua thông ngôn. Ông ngoắc lại, đưa ngay cuốn Sciences et Communications, và ra lệnh sáng mai có mặt vào lớp học. Giám đốcNguyễn Văn  Minh chẳng cần  hỏi ý  phụ xe ra sao, và cho biết được học tiếng tây đã là đặc cách, vì học lớp bổ túc này chỉ  tuyển cấp đội phó trở lên. Nay mai người Pháp sang đầu tư ào ào, ta cần nhiều nhân viên biết  nói tiếng tây. Cầm sách, tôi mở trang ba: bên phải câu đàm thoại tiếng việt, bên trái tiếng Pháp.

-Tên anh, chị ( ông, bà, cô) là gì?  : - Vous vous appellez comment?

Kỷ niệm xưa  bật dậy - gần sáu chục năm xưa - ba tôi bắt dịch câu tiếng  việt sang pháp, hệt như câu trong sách hỏi tên anh, chị, ông bà, cô cậu là gì? Tự mãn cho giỏi, không cần suy nghĩ trả lời: Vous vous appellez comment? rồi cười khẩy . Nhưng không , ông đi vào bàn lấy thước bắt xoè ra  đánh tới tấp liền tù tì , tôi  đếm được một chục: con ơi là con , dịch với thuật  giống hệt  bọn bồi tây!  Quì xuống, úp mặt vào tường  nhắc lại mười lần  : Comment vous appellez vous?
--------
* dấu đặt cạnh hai nguyên âm đối nhau, như i, e, u- khi nhận biết vậy, phải dùng dấu tréma ( hai chấm), người đọc sẽ biết tách ra hai âm .Thí dụ: ci-gue (cây độc cần) ,  na-if (ngây thơ, hồn nhiên),  no-el ( giáng sinh)         ( theo Larousse en Couleurs (nouvelle édition-Paris 1994)



BA:  TỪ ĐẤT HOA LƯ QUA HÒA BÌNH  VỀ HÀ NỘI NGÀY 10 THÁNG 10


Từ giã thị xã Ninh Bình, xe ca lại bon bon từ Nho Quan theo đường 59 đi Hòa Bình. Hướng dẫn viên thuyết minh, gia đình Nimbus bữa nay được thỏa thuê  ngắm cảnh núi rừng  mầu xanh cây lá bạt ngàn, cả nàng sơn nữ  có nụ cười lấp lánh, đôi mắt long lanh chết lòng du khách miền xuôi.  Thấy đa số khách nghẹo đầu, rụt cổ lắc lư con tàu đi theo nhịp lộ hành.

 Tua bẻm mép  kể tiếp  chuyện khôi hài dí dỏm gây cười có duyên ra phết. Nhìn sang bên đường tay trái, xe đã qua Vụ Bản, đến Mường Khen thì trước mặt mũi tên chỉ: rẽ trái đi Mai Châu, Mộc Châu đến Sơn La; còn rẽ phải leo Dốc Cún tới thị xã Hoà Bình.

Cảnh vật xa xa, có suối nước chảy róc rách, ven  bờ lơ thơ dăm ba gốc chuối rừng hoa đỏ chói chang , có chú chim mỏ đỏ nhỏ xíu ngơ ngác nhìn, bụi giang, rừng trúc chen chúc mọc- nhìn thấy căn nhà  sàn thân thuộc ló dạng,  tôi húyt sáo nhè nhẹ điệu nhạc : Ai có về bên dãy núi xanh lơ…Hiển nhiên  nhạc sĩ  Tô Hải  đã qua đây một mùa chinh chiến xa xôi, từng ăn xôi đồ chõ cạnh bếp lửa hồng cùng cô gái Thái bản  Kim Bôi , xin cho ngủ nhờ qua đêm lạnh lẽo , nhà sàn tứ bề lộng gió!  Chỉ tưởng tượng vậy, chẳng biết  đúng không; và mỗi lần nghe sơn nữ ca, tôi như luôn luôn bị đánh thức nhớ  chiều vàng đồi Việt bắc, với chú Quít lông vàng ở nông trại Làng Bữu - xã Thượng Bằng La,  huyện Văn Chấn-Yên Bái. Tuổi thơ rất ít bạn: chó Quít,  chú mèo xiêm lông vàng ve vuốt, thêm con sáo nói tiếng người.  Bài Con Mèo Xiêm - viết khi nhớ chúng.

                                                          CON MÈO XIÊM

                                                                      Tôi  lớn lên trên cót thóc
                                                                      bạn bè thân thuộc
                                                                      con mèo xiêm thiêm thiếp ngủ
                                                                      quấn lên đấu cổ
                                                                      chiều vàng Việt bắc
                                                                      lưng đồi nhạc diều
                                                                     lá vàng xào xạc chân giầy
                                                                     sao nói tiếng người
                                                                     ba-bạn-vật-người
                                                                     mẹ tôi roi vọt xua
                                                                    giữ nhà săn sóc chủ
                                                                    thoát chết gặp chó sói
                                                                    chó Quít vàng theo sau
                                                                    lớn lên rời quê hương
                                                                    xa núi rừng tây bắc
                                                                    đô hội lớn nghiêm trang
                                                                    khói lửa mùi thuốc súng
                                                                   chim sáo nhịn ăn chết
                                                                   mèo bỏ nhà thành cáo
                                                                   Quít vàng chết mất xác
                                                                    viên đạn nào xuyên lưng
                                                                    Tôi về qua cửa hẹp
                                                                   Rừng chiều nhớ quê cũ
                                                                   Xót sa lòng rưng rưng
                                                                   Đô thị ních chen vai
                                                                   tình nhân đi xa bỏ
                                                                   nhớ giọng hát câu ca
                                                      ví ( ví) dầu cầu dzán (ván) đóng đinh
                                                      cầu tre lắt lẻo gập ghếnh khó đi

 và đến Hoà Bình đúng  mười một giờ trưa. Nắng chang chang, xe ca leo đồi Ông Tượng, địa điểm  xây Thủy điện Hòa Bình được coi lớn nhất miền bắc thời ấy.  Nhìn Sông Đà dưới kia, nước đục ngầu dòng chảy xiết, nhà cửa xây cất hàng hàng lớp lớp  vuông vức, thẳng hàng trông thật đẹp mắt.

 Cùng lên đồi tham quan, kỹ sư Thắng thuyết minh  rất bài bản ,thời kỳ xây dựng, có sự giúp đỡ  của nưóc Liên Xô anh em , du khách đến đây không nhìn  thấy máy móc thiết bị bầy biện  trước mắt như thủy điện thời kỳ đổi mới- bởi lẽ hồi ấy rất sợ bom Mỹ ném ,các tổ máy thiết kế ngầm trong  núi - trên  đỉnh dựng tượng Bác Hồ. Chúng tôi lên tham quan, tượng cao 18 thước, nặng 400 tấn, 79 bậc thang biểu tượng tuổi thọ ,dưới bệ tượng khắc bốn câu :
                                            Không có việc gì khó
                                            Chỉ sợ lòng không bền
                                            Đào núi và lấp biển
                                            Quyết chí ắt làm nên     
                                             HỒ CHÍ MINH

Pho tượng  lớn nhất do kiến trúc sư Nguyễn Vũ An, gốc người Hà Nội thiết kế. Rất đông du khách chụp ảnh, quay phim. Lại  có người thắc mắc chẳng thấy tổ máy thiết kế như ở thủy điện  Yaly -Gia Lai - kỹ sư Thắng lấy tay chỉ xuống chân:- các tổ máy  nằm dưới chân chúng ta. Và quí vị đến đây thật may, một  trong sáu cửa xả nước, chỉ một cửa thôi mà đã mù mịt tia nước bắn tung toé lên không trung trắng soá.
 Sau đó, thăm đài tưởng niệm , đây có một cái  tủ lớn  chứa  một bức thư rất đặc biệt. Đó là :

                                              BỨC THƯ TÌNH THẾ KỶ

 đựng trong  một hộp riêng - tưởng nhớ đến 17 kỹ sư Liên Xô đã thiệt mạng cùng một số nhân viên bản địa- đã góp công lao xây dựng  thành công Thủy điện Sông Đà. Vẫn lời kỹ sư Thắng, bức thư lịch sử chỉ được mở vào năm 2100, quí vị nào sống đến thời điểm đó tất được đọc mật thư nói gì, và chỉ duy nhất một người được biết trước nội dung - tác giả bức thư: nhà báo Thép Mới chấp bút.

Tới giờ ăn trưa, xe ca xuống núi, qua cầu chạy thẳng đến Nhà hàng Mai Lâm, phường Hoà Lâm. Thực đơn đặt trước, hai bàn  dài nối nhau kiểu ăn tập thể  hội nghị, gia đình Nimbus Tourist đến đây chỉ cần rửa tay  xong, ngồi ngay vào bàn là có cơm ăn. Một bữa trưa chẳng có món gì đặc sản, không  để lại ấn tượng cần nhớ- tuy vậy vẫn  là bữa trưa không tồi! Tua tiếp tục thuyết minh,  ăn xong lên xe ca đi ngay,  thời tiết thuận lợi, bác tài tăng ga hướng thẳng  về thủ đô yêu mến trước  16 giờ - xe 45 chỗ  đến chậm sẽ phải   xin phép mới được  nhập thị . Tua luôn có nụ cười kèm sau  lời dẫn giải, nhớ rằng  tối nay đến Hà Nội đúng lần thứ 52 kỷ niệm  giải phóng thủ đô : 10.10/1954 - 10.10.2006.


 



BỐN : HÀ NỘI, NHỚ CÔ GÁI,  CON CHỦ NHÀ HÀNG PIGALLE.


Khác với lần trước đến Hà Nội bằng máy bay –đi dường bộ thú vị nhiều, từ Hoà Bình men  theo đướng 6 tới Xuân Mai, Hà Đông thẳng tới thủ đô. Xe qua Chương Đức, nơi tôi đã đến  bằng xe đạp khi  là học sinh, cảnh vật chẳng thay đổi bao nhiêu -trừ đổi  tên  thôn, xã- tên  gọi bây giờ Chuơng Mỹ.

 Cũng là  nguyên quán Châu, bạn thân từng chung sớt đồng bạc lẻ, ly  cà phê xê chừng một đồng rưỡi thời ông Diệm trị vì- chúng tôi  in tác phẩm ronéo chui không giấy phép kiểm duyệt.

Sau  năm 1975, Châu lắp một đài phát thanh chui bị đưa vào trại cải tạo dài ngày, hình như chỉ  sau 30 tháng tư vài ba tháng.  Cô vợ còn  trẻ , quen sống đồng lương chồng cung cấp, không thể nuôi con  thiếu chồng ,mặc dầu căn nhà  hai tầng  có vườn  cây ăn trái bán  giá rẻ cho chủ  cán bộ. Ít lâu sau, người vợ ngồi sau xe scooter ôm eo chặt cứng viên quản lý trị sự báo, xưa kia  Châu là chủ bút. Một tay cầm lái, tay kia  quàng ra phía sau cầm tay vợ sếp cũ đặt lên  trước bụng vỗ về - cười típ mắt.

Châu nằm trong trại cải tạo không dưới mười năm, được trả tự do, về lại Sài Gòn, ăn  chực nằm nhờ trong chùa  sát  cầu Trương Minh Giảng.

 Bẩy tám năm sau, cả gia đình sang Hoa Kỳ theo chương  trình nhân đạo, nhờ sự can thiệp không mệt mỏi của bà Khúc Minh Thơ.

Nhớ Châu cách tình cờ, khi qua Chương  Mỹ, và trước khi vợ chồng tôi đi  xuyên việt-Châu  báo tin đang đi du lịch châu Âu,   qua Paris, Copenhague, Amsterdam …vv,chỉ vài năm Châu sang Virginia đã in được một số tác phẩm văn chuơng cuả một số nhà văn quen thuộc.

Nguyễn Thụy Long với tác phẩm -Ma Trơi; Vương Đức Lệ-Mấy vần thơ còn sót lại;  Mai Trung Tĩnh- Ngoài vườn địa đàng; Văn Quang-Ngã tư hoàng hôn; Bùi Ngọc Tấn-Viết về bè bạn, (tái bản) ; Tạ Duy Anh –Đi tìm nhân vật  (tái bản) ;  Dương Hiếu Nghĩa-Việt Nam quê mẹ oan khiên (dịch); Trần Phong Vũ-Giáo hoàng Phao lô II;, Lê Mỹ Hân-Quê hương ngày trở lại, vv…

Nhờ Lê Mỹ Hân , tôi đọc và biết  có một trại cải tạo sĩ quan Cộng hoà, nằm ở địa danh huyện Phù Yên, ranh giới hai tỉnh Sơn La-Yên Bái. Và nông trại bố mẹ tôi  ở xã Thượng Bằng La-một khi  muốn qua Phù Yên , chỉ cần theo đường mòn vượt  dốc Pú Khau Phạ-   ngọn núi cao hiểm trở , qua được là tới huyện Phù Yên.

 Ngày xưa ở nông trại,  mở mắt thức dậy, tôi thường nhìn sang hướng tây, nơi đàn  chim yểng mỗi sáng bay về hướng ấy; nơi có một giải trắng ngần từ lưng chừng núi  đổ xuống từ ngọn Núi Sừng Giời. Thật  kỳ bí, chẳng ai có thể ngờ thời hậu chiến, nơi thâm  sơn cùng cốc , đèo cao, gió lộng, rừng thiêng , nước độc, bản làng heo hút  ; lại có  một trại cải tạo được xây dựng bên  cạnh   đường đèo hung hiểm - đã có lần đoàn quân thất trận  Pháp  bị Nhật  xua đuổi  chạy qua  đây sang Làng Bữu, ra  Ba Khe, qua Nghiã Lộ, ngược Tú Lệ , Mù Cang Chải, lần  đường tỉnh lộ 4 D tới được Sapa-Lào Cai  cuối cùng sang Vân Nam nương náu. Phù Yên- nơi bạn tôi, một sĩ quan Cộng hoà sáng tác nhạc, đi học cải tạo dài hạn , gia đình vợ con chỉ  liên lạc qua hòm thư.

 Có một lần,  vợ một người  bạn tôi cho biết : anh ấy đã qua đời ở Phù Yên, Sơn La.

 Chị ấy hỏi địa danh này ở đâu, có thể đến đó được không? Từ lâu, tôi không nhớ tới Phù Yên nữa, đến khi  có người hỏi, mới bật nhớ : muốn đến Phù Yên phải vượt qua Pú Khau Phạ (  tiếng thái: : núi, khau: sừng, Phạ: Trời ).

Giả dụ, một cải tạo viên nào đó có ý muốn vượt  trại, nếu không được đặc xá ,thì  cách duy nhất tồn tại  sống ở thác về cũng Phù Yên mà thôi .
“N. ơi, có lần vợ mày hỏi Phù Yên ở đâu anh?-  em tìm chẳng thấy trong bản đồ hành chính?
 Tao không giải thích địa danh này , có nói đi nữa vợ mày cũng không thể tìm được !  Nói với vợ mày, tao có một mơ ước nhỏ nhoi thôi, giá có một ngày nào đó được trở về thăm nông trại  Làng Bữu, tao sẽ cố vượt đèo Pú Khau Phạ vào Phù Yên tìm cho được mộ mày thì sung sướng biết chừng nào?
 Cứ  yên nghỉ  đi nhé N., hãy đợi, tao  mong  sẽ có một ngày đến  tìm thăm mộ mày!

Càng gần tới thị xã Hà Đông ,tôi càng nôn nóng như chờ đợi một cái gì đó! Ô kìa ! sao lại có bến đỗ xe khách Nghĩa Lộ- chợt nhớ quê hương Nghĩa Lộ -Yên Bái  cuả tôi ; và ở Quảng Ngãi cũng có một phuờng  Nghĩa Lộ. Nhớ một lần , tôi mang mấy bó sách  văn học đến ký gửi ở một nhà sách trung tâm,  một nữ nhân viên  gốc Quảng, cầm Cô gái Nghĩa Lộ lên, hỏi:  chú viết chuyện cô gái Nghĩa Lộ ở tỉnh Quảng Ngãi của cháu , phải không?

Thì  ở đây, trên đướng  tấm bảng  lớn treo trước cổng, chỉ THÔN NGHĨA LỘ xa hun hút kia, tôi vừa  ngạc nhiên vừa thích thú!

 Xe ca đến Ngã Tư Sở, tôi  chẳng thể nhận ra nữa, phố phường sầm uất, nhà cửa chen chúc mọc lên  cao nghều nghệu ,nghếch mắt nhìn mỏi cổ chưa nhận diện được tầng chót- xe cộ nườm nượp chẳng có chỗ chen chân cho người sang đường.

Nhìn bảng Phố Lê Duẩn, tôi  nhận ra  ngay Ga Hàng Cỏ, và Cửa Nam đây rồi , rẽ trái phố Nguyễn Khuyến, xe ca đậu  xịch thả khách trưóc khách sạn Volga. Đường nhỏ  hẹp, phố chật,  nhà đông, tầng lầu san sát, khách Nga nườm nượp  đăng ký tại phòng tiếp tân - bảo vệ đứng nghiêm quan sát  không nhúc nhích, cứ tưởng  ma-nơ-kanh dựng trước nhà may.

 Toà nhà ba tầng lầu  thiết kế theo  phong cách Á đông  gồm 24 phòng  đầy đủ tiện nghi, tiêu chuẩn quốc tế hai sao,  nằm sát Khu Văn Miếu, Bảo tàng Mỹ thuật, nhà ga tàu hỏa, tiện việc giao dịch trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế, thương mại, ngân hàng, ngoại giao, công sở, các nơi cần tham quan du lịch. Mới đọc tờ rơi; tôi chưa dễ tin ngay, bởi tờ rơi vẫn là  hình thức quảng cáo, mà quảng cáo thì cần phải so sánh thực tế đã mới có quyết định sau cùng . 

Và thật sự  khách sạn này gần khu trung tâm , chú Trang và vợ không cần gọi xe tắc xi, chồng dắt tay vợ cùng  nhau đi bộ ra Tràng Tiền ăn kem.
Bây giờ cô  Huyền mới  trao chìa khóa phòng 306 lầu ba, với câu thòng : cô chú yên tâm  nhé,  sử dụng thang máy cho khỏe thân.  Ăn  xong, lên  giường  ngả lưng,  tiếp tân báo có khách đợi.

Cùng  đến một lượt với Kiều Liên Sơn, anh xe ôm chừng bốn mươi  đứng trước cửa khách sạn chờ. Nhìn Kiều với sắc mặt lợt lạt, tóc rụng nhiều - có lẽ ung thử phổi  thời kỳ cuối - chạy hết thuốc tây đến thuốc nam; cuối cùng chưa thuốc nào trị tiệt nọc căn bệnh gần đất xa trời này. Sinh, bệnh, lão , tử -thì Kiều đang  đến ba nấc thang cuối cùng. Có lẽ chẳng bao giờ Kiều quên được căn nhà nhỏ gác xép  khu Nghĩa Tân bị rỡ bỏ, quận giao nền nhà cho một công thần khác   nặng ký hơn- trong khi  Kiều  đang  đau ốm  - nên càng sốc nặng . Nó nhắc chuyện mười hai năm trước khi ra Hà Nội họp với cùng các nhà văn từ Pháp sang,  nó cho ngủ trọ trên gác xép, sáng ra  tôi quen đứng phắt  dậy đụng mái  u đầu. Bây giờ căn gác  thân thương chỉ còn  được nhìn  thấy trong đôi ba tấm ảnh, và đôi ba dòng chữ  ghi vội  trong một  tập bút ký:

…. Về đến thị trấn Nghĩa  Tân, thuộc huyện Từ Liêm, căn nhà Kiều lọt thỏm trong dãy nhà nhiều tầng. Nó dành cho tôi một căn gác xép đụng đầu, cứ coi giang sơn nhỏ bé này so sánh với  phòng khách sạn, chưa chắc tôi đã quí bằng!  '  ( THẾ PHONG -  HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA- NXB Thanh niên ,1999, 2006).

Anh xe ôm tên Khánh chở tôi  chạy sau theo xe Kiều chở vợ tôi . Nó  dẫn giải  mỗi khi qua phố nào - đây Văn Miếu dấy chị Khê ạ- đường đang đi  phố Nguyễn Thái Học, xưa kia quen gọi Hàng Đẫy , rẽ tay trái đường đôi  Hoàng Diệu, thẳng tới Quảng trường Ba Đình, rẽ đưòng Cổ Ngư sẽ được ngắm Hồ  Tây ban đêm, còn đây chùa Trấn Võ,  kia Trấn Quốc, kia nữa đê Yên Phụ ;đi quanh vòng đai  lại  ra thẳng Hồ Gươm.

 Buổi tối thật đông vui,  hàng quán bày bàn ghế tràn lan trên vỉa hè chật ních cô, cậu  đang chen chân tìm  một chỗ ngồi giải khát tâm sự chẳng dễ dàng gì. Đêm nay ăn mừng thủ đô được giải phóng, cờ xí ngập phố phường, đèn sáng hơn sao trời lấp lánh.

Qua phố LýThái Tổ, anh xe ôm chỉ căn nhà năm tầng  mới xây xong  đẹp  tân kỳ, được báo chí nhắc đến,  nhà văn phòng cơ  quan bỗng chốc ông phó ký  giấy  biến thành tư thất thủ trưởng, rồi  phá đi xây lại , ngoại kiều mở văn phòng hốt cả đống đô la bỏ túi ngon ơ. Báo chí làm  rùm, dư luận  xôn sao, thủ trưởng  bày cách hạ nhiệt dư luận-  xin được trả nhà lại không có điều kiện nào kèm theo- độc giả đọc báo tưởng  thật, thể nào cũng bị mất chức, mất nhà , bị quy tội tham nhũng  tư hữu hóa công sản vv…. Nhưng bác cứ chờ xem sẽ  hạ  cánh an toàn thôi , và  màn trình diễn ồn ào  sẽ chẳng mấy lúc  chìm nghỉm, đi vào quên lãng .Quả  thật,các cụ dạy chớ có sai- muốn an phận đừng mó dái ngựa- cứ mũ ni che tai  hay nhất đấy bác ạ!

  -Đến Hồ Gươm , Nhà Thủy Tạ rồi bà Khê ơi,  tôi mời  ông bà vào nhà hàng Thủy Tạ ăn kem nhé!  Kiều mời.

Trước 1954, quán này , xưa Nhà Thông tin  thường  triển lãm tranh ảnh thời sự, nơi dán Tuyên ngôn gửi thanh niên quốc gia Việt Nam , thống tướng De Lattre De Tassigny kêu gọi thanh niên Việt  nhập ngũ, cầm súng ra trận sát cánh cùng quân đội Liên hiệp Pháp giữ vững bờ cõi.  Chuyện thanh niên  việt thay máu  lính tây -mấy chục năm  sau  lại được tổng thống  Nixon- Hợp chủng quốc xài lại, mở hội nghị hoà đàm, đẩy binh sĩ Cộng hoà thay máu G.I ngoài mặt trận xem ra giống hệt  cách xài  bình cũ  thay rượu mới .

Thời kỳ tôi còn là học sinh - có một buổi sáng nhìn vào cửa hàng bánh kẹo số 45 Hàng Lọng-nhà Vũ Thị Thanh Thúy- bạn học Kiều Liên Sơn,  Nguyễn Đăng Khải, Cao Bá Ân, Nguyễn Gia Vinh và tôi ở  Trung học chuyên khoa Phan Đình Phùng, bỗng nhiên  được thay bảng tên phố De Lattre DeTassigny. Vậy ra viên  thống tướng từng ký tên trên bản tuyên ngôn  hôm nào đã chết rồi sao?  Súng vẫn còn  nổ, đạn pháo vẫn ì ùng đêm đêm nghe vọng từ phía bắc lẫn phiá nam Hà Nội-  và nước Pháp đã đóng góp vào  mặt trận  Bắc Việt cả hai sinh mạng cha con- đưá con độc nhất , báo tây gọi là enfant unique, mang lon trung úy bỏ mạng trên pháo đài chiến trường Ninh Bình –còn cha , tướng năm sao đi  thị sát mặt trận Vĩnh Phúc, ban lệnh  thả bom tiêu diệt hai bên trực diện ; rồi một phút  đột nhiên máy  bay C&C ( Command  and Control) quay đầu về hướng Hà Nội. Và cùng  năm 1952, thống tướng qua đời  ở Paris.

 Với tôi, khoảng thời gian ấy, Hà Nội là  nơi  dung thân buổi đầu làm văn, viết báo đầu đời- nơi  tôi đã gặp lại  người  cô  ruột- bà  ĐỗThị Thảo đã  nuôi cháu  ăn học- nơi  ghi lại  mối tình học trò tha thiết với Nàng Oanh-  nơi tôi có  nhiều  bạn thân -thằng  Khải cưu mang tôi- cho  một ngàn đồng mua vé tàu thủy vào Sài Gòn- thằng Kiều Liên Sơn  chở tôi đi khắp Hà Nội - thằng Khánh, con nhà  tư sản dân tộc bộc tuệch, bộc tọac cùng tôi lên  rèn luyện thân thể ở  Septo- thằng Hiển  cho ngủ trọ đêm không nhà, giặt lén quần áo  khi chưa có tiền trả thợ giặt là - còn bạn  học nữ Nguyễn Thị Hoàng đẹp như đầm ,cho tôi  biết thế nào vẻ đẹp mẫu mực  người nữ- và Lê Bá Hùng- Hàm Long đạp xe  rủ đi  tập đánh bốc lò Vĩnh Tiên-  thằng Duật mắt trắng-môi thâm, lá mặt lá trái hại bạn bè xất bất xang bang - thằng Bách, con thầy Bùi  Đắc xin bố cho bạn chịu tiền ăn- vì nó mất liên lạc với mẹ ở Nghĩa Lộ tháng 11 vừa qua- thằng Chiểu xã Đường  Lâm-  Sơn Tây ,cho biết thôn Mộc Phụ có một dòng họ Đỗ - gà  luộc cúng chiều ba mươi  cổ vẫn cất cao như  đang tập gáy - vậy mày có phải  dân họ Đỗ -Mộc Phụ không? vv…

  Gọi  thức uống thật lâu, ba ly kem cốc được bưng ra – Khánh xe ôm  nhất định không chịu vào quán,  đậu xe nơi góc  phố Lê  Thái Tổ  chờ -Kiều giải thích xe ôm ở đây là vậy.  Lại  nhắc  đến  Vũ Thị Thanh Thúy, Kiều nhớ cô nữ sinh  thân hình mỏng tang, rất ư yểu điệu thục nữ , hình như  có một thời là  bạn gái Khải; còn Oanh, bạn gái Tường - nói tới đây nó bật  cười - có đúng vậy không? Nói xong,nó   nháy mắt nhìn sang phía vợ tôi.

 Rủ Kiều,  hay chúng ta cùng  đến 16 Phố Hàn Thuyên  thăm vợ chồng Khải cho chúng nó ngạc nhiên?  Cả ba chúng tôi đồng  ý , khi  tới  Phố Hàm Long Kiều định rẽ , thì anh xe ôm ngăn lại,  bác ơi rẽ xuống phía dưới mới là phố Hàn Thuyên – tôi thầm nghĩ, xưa nay Dzư được tiếng  thổ công -  như lần đi đêm xuống nhà vợ chồng Tạ Vũ ở Hoàng Mai, đường đi ngoắt ngoéo , lòng vòng , nó cho xe quẹo trái, rẽ phải, nay  giữa phố  đường thông  thoáng thế này bị lạc ; vậy sức khoẻ và  thị lực  mắt  Kiều có vấn đề thật rồi !

-     Phố Hàn Thuyên đây rồi, nhà số chẵn bên tay phải đấy-lời anh xe ôm.

 Có mấy cái chuông, chuông  chủ nhà tầng dưới- chuông chủ nhà  tầng một :KHẢI-THÁI –bấm chuông  chỉ  đợi ít phút đã gặp chị Thái xuống mở cổng. Vợ chồng Khải đã có lần vào Sài Gòn thăm chúng tôi từ mấy năm trước, nên đã biết nhau. Chị mời đi lên cầu thang gỗ, lên  nhà sàn gỗ, dấu tích  nhà xây dựng từ  thời tây. Căn biệt thự hai tầng được chia hai,  gia đình anh chị của Khải  tầng trệt, còn vợ chồng Khải  tầng một và một căn phòng khác ở tầng trệt, Khải cho vợ chồng  người Pháp thuê dài hạn. Chúng tôi ngồi trò chuyện, thì Khải bốc điện thoại gọi Vinh- tới ngay đi thằng Tường ở Sài Gòn ra đang ngồi đây . Mày gọi giùm tao nhắc thằng Ân ở Định Công bảo nó đến  ngay!

Cao Bá Ân đạo mạo trong  bà ba lụa trắng, kiểu lang ta hay mặc- khuôn mặt chữ điền, dáng mập mạp, khỏe mạnh, da hồng hào, ăn nói  nhỏ nhẹ như 56 năm xưa khi còn là học trò. Thời đi học, ngồi bàn đầu với Khải, hai lục cá nguyệt là hai lần nhất -hạng 1 :Cao Bá Ân  2: Nguyễn Đăng Khải, 3:  Đặng Ngọc Oanh... - còn tôi và  Dương Đức Dzư ( Kiều Liên Sơn sau này)  xếp loại trung bình .

Dzư  ngạc nhiên -xưa nay  thằng Tường vẫn nhất môn Pháp văn cơ mà!

Cao Bá Ân kể vanh vách cho vợ chồng Khải, vợ chồng tôi, Vinh, Dzư nghe chuyện  gia đình  Đặng Ngọc Oanh. Nó kể lại rất tự nhiên , không  ngại  ngùng , không cần biết  liệu vợ tôi có phiền lòng khi nghe chuyện người tình cũ của chồng không?  

Vợ tôi  trả lời Ân, anh cứ kể, tôi quen  nghe chuyện này rồi, không phải chỉ một cô Oanh đâu, mà còn nhiều cô Oanh khác  nữa  kìa. Ân  được mở đường, càng  kể  mạnh miệng hơn. Cô Oanh da  nhuôm nhuôm, đẹp gái, răng khểnh  cười duyên,  thân hình đẫy đà, so với tôi khi ấy như người chị từng trải vậy. Cô là con gái bà chủ nhà  hàng Pigalle phố Đội Cấn, chẳng biết  có phải cô  thường giao thiệp, ăn nói với tây  hay không, nhưng tiếng Pháp lại đứng hạng nhất nhì trong lớp,  và đối thủ đáng gờm là chàng Tường này . Chẳng biết hai gia đình quen biết ra sao, ba mẹ tôi hứa  hôn với mẹ Oanh thế nào (hình như ba Oanh mất sớm thì phải?) - một lần Oanh đến nhà cô tôi  phố Mai Hắc Đế gặp tôi nói vậy. Tự biết hãy còn con nít, dầu  tôi chi kém Oanh một tuổi, nhưng con gái  trưởng thành sớm hơn, già dặn nhiều .Tôi nhắm mắt lại, tụt quần cộc xuống, rồi hé một mắt ra  nhìn, qủa ớt mới bằng ngón tay, thì làm ăn cái nỗi gì  mà lấy vợ, sinh con. Sau, đem chuyện thật tâm sự với bà cô ruột - so với Oanh- tôi  như cậu em bé mọn-  vậy đúng  bà chị  Oanh đề cập chuyện này chưa đúng lúc rồi. 

 Sau đợt di cư vào Nam , cô Oanh  đi Sài Gòn  học nghề y tá, ra trường  làm ở Nhà thương Chợ Rẫy thì phải?

 Ân quay sang hỏi tôi hỏi,  có gặp lại bạn cũ không?  Không trả lời thẳng câu hỏi Ân, tôi  chỉ gật đầu ghi nhận, không nói gì thêm, và không cho  biết chuyện tình dang dở giữa tôi và Oanh –nàng  có một  đứa con gái với tôi mang họ  mẹ. Cao Bá Ân hỏi dồn, không gặp thật sao-  tôi chỉ ừ hứ lấy lệ ,cố ý đánh trống lảng , hứa sẽ gửi một copy  tiểu thuyết  Nửa Đường Đi Xuống đã in ở Sài Gòn  từ thập niên sáu mươi cho Ân đọc. Như chỉ  muốn thầm nói vơi bạn : Con gái tao và Oanh  đã 49 xuân  sanh; tệ thật,  hai bố con cùng ở Sài Gòn bấy nhiêu năm mà  chưa  hề biết mặt nhau –giờ này có mặt vợ tao ,nên chưa phải lúc kể cho mày nghe đó thôi Cao Bá Ân ạ.!


NĂM HÀ NỘI- VIỆT TRÌ-  KM9: YÊN BÌNH-  LÀO CAI- SAPA -HÀ KHẨU. 


Ăn sáng xong ở khách sạn Volga lên đường tinh mơ,  từ Hà Nội đến Lào Cai - Sapa trên dưới ba trăm cây số,  đường chỗ lồi , chỗ lõm nhiều hơn bằng phẳng thênh thang. Qua phố Nguyễn Thái Học, rẽ trái lên Hoàng  Diệu- tôi  cố ngoái cổ tìm Trường Trung Học Phan Đình Phùng (bây giờ: Phan Chu Trinh ) số nhà vẫn là 40-42  Hàng Đẫy- cách ngã tư vài căn mà chẳng thấy.

 Hình ảnh cậu học trò 18 tuổi từ Nghĩa Lộ về Hà Nội năm năm mươi trọ học, ấn tượng nhất vẫn là cái tết ta đầu tiên, cả ký túc xá chỉ còn mình tôi  ở lại, sau  khi xin phép thầy Bùi Đắc.
Ngôi trường đồ sộ  hai tầng xây kiểu tây, tường phía trươc đổ những tấm auvent cách nhau  có khoảng trống vừa phải, nên  cậu học sinh không cần phải theo lối cầu thang xuống nhà, mà nhảy lò cò trên mươi tấm auvent, sau cùng leo ống máng xuống sân đi chợ kermesse bờ Hồ Hoàn  Kiếm.

  Có một lần giữa giờ ra chơi vào  buổi chiều, ra trước vỉa hè, tôi  gặp một ông chở vợ trên xe mô tô Terrot đen đỗ xịch trước mặt cậu học trò ,bà vợ xuống xe lại gần hỏi:

 - Xin lỗi  cho tôi hỏi thăm, cậu có biết học sinh nào tên Tường ở Nghĩa Lộ-Yên Bái về trọ ở ký túc xá này không?

 Chưa vội trả lời,  nhìn tướng tá giống hệt đàn ông, đúng  tinh tướng mô tả trong văn Vũ Trọng Phụng ( bài văn mới học) bà có tướng đàn ông xấu trai , da bánh mật, khuôn mặt hao hao giống bà nội,  cao hơn ông chồng một tấc– trong đầu cậu học sinh nghĩ, chẳng lẽ cô Thảo?
-Xin lỗi bà có phải là bà Thảo? cậu học sinh hỏi mà không trả lời câu hỏi .
Bà gật đầu và ôm chầm cậu học sinh:
-Thôi đúng là con bác Đức rồi,  cháu chóng lớn quá!

Bà  hỏi  hàng chục câu hỏi một thôi một hồi, chẳng hiểu đứa cháu có kịp nghe không- bà kể bữa đi Chợ Hôm gặp bà Phó Vọng ở Nghĩa Lộ  tản cư về  mua nhà phố Huế, cho biết bà giáo Đỗ Văn Đức Nghĩa lộ nhờ ông giáo Bảo chạy giấy tờ cho cháu Tường về Hà Nội học hiện  ở ký túc xá Trường Phan Đình Phùng, 42 Nguyễn Thái  Học- gần Khu Nhà Tiền, đối diện Trường Huấn luyện Cảnh sát ấy.

-Bà Thảo  ghi lại địa chỉ: I Ngõ Liên Trì, (Reinach cũ),bảo đưa cháu tối nay lại ăn cơm, cô sắp sẵn một lô quần áo cũ của chú tha hồ mặc cho đẹp.

- Cơn tự ái cậu học sinh nổi dậy đùng đùng,  như vậy cô khinh cháu ăn mặc luộm thuộm, đúng tác phong thằng Thổ mừ rồi. Cậu nhớ lại thời kỳ học ở École  de Garcons de Yen  Bay,  đã gặp bà cô  đang chuyển về Hà Nội, chú dượng  chef de train được đổi nhiệm sở, cô thấy cháu ăn mặc hệt tên nhà quê thổ mừ, áo ngắn cũn cỡn, quần tây rộng thùng thình- bây giờ cậu dưới mắt bà không mấy khác!

Thời kỳ đó, có lần  bà cô hộc hơi đuổi theo cháu gọi nó về, vì lần đầu tiên thấy ô tô chạy trên phố, nó chạy theo sau ô tô  mà sao mãi không bắt kịp. Tuy tự ái, cậu bớt lo tiền ăn, tiền trọ  nợ ký túc xá-  từ khi  phủ Nghĩa Lộ rơi vào tayViệt Minh,qua chiến dịch thu đông  năm hai, cậu mất liên lạc với mẹ  từ đấy. Thầy Bùì Đắc thật rộng lượng- thương sót giúp đỡ kẻ gặp hoạn nạn .ThầyĐắc dạy anh văn lớp vỡ lòng  lại  kiêm quản lý ký túc xá. Hiệu trường  là thầy Bùi Quang Tời , gốc Sài Gòn, nói rặt giọng Nam kỳ. Còn các thầy Trần Mộng Chu, Nguyễn Xuân Hiếu dạy việt văn, riêng thầy Bùi Ý cao lòng khòng dạy anh văn lớp trên, học trò nói sau lưng :  giọng nói  đặc mít cứng khòng, văn phạm dạy hay  hết chê!

Xe ca ra tới vành đai, bác tài cho biết đi đường tắt qua Chèm- huyện Mê Linh, rồi qua xã Hương Canh tới Phúc Yên. Hướng dẫn viên chọn đĩa DVD cho vào máy bấm nút ,bắt đầu Cẩm Ly và Quốc Đại song ca. Tua  giới thiệu, cô bé này, em ca sĩ ngoại- nhưng nội hát hay hơn , nổi tiếng kiếm tiền nhiều  hơn chị ở Cali. Và ca sĩ em  mới sinh một cháu gái, đúng là gái một con trông mòn mắt.

Tới giọng ca  Đàm Vĩnh Hưng, Tua lại có lời bình, tuy không giống mấy MC truyền hình  nói văn hoa, bóng bẩy, nội dung  trớt lớt chẳng  biết nội dung nói gì?

Này nhé, năm 1990, gia đình ở Đà Nẵng xảy ra biến cố,  hai anh em Đàm Vĩnh Hưng lếch thếch kéo nhau  vào Sài Gòn tá túc nhà ngoại.  Ngày tết, gia đình nhà bên sum họp, con cái nhận bao lì xì, còn  hai anh em  chẳng được ai lì xì, bánh mứt thì không, thế là anh trai, em gái ôm nhau nằm trên gác xép khóc rưng rức thương thân tủi phận hẩm hiu. Rồi anh trai đi tìm lối thoát,  đăng ký dự  thi tiếng hát truyèn hình. Chẳng biết dự thi ca sĩ truyền hình thành phố  mấy lấn  , hình như lần cuối ôm giải ba tư gì đó,  từ đây có permis  xin đi hát lót dịp  tết nhận được nhiều , chậu - hát một bài bốn chục nghìn ở quán này, lại sang quán khác- khuya lắc khuya lơ về gác hẹp,  hai anh em giở ra đếm bộn bạc. Không ai ăn tiền hớt tóc cho mít tơ Đàm  được, vì mít tờ cắt tóc giỏi như thợ có tay nghề , lại  từng mở dăm hiệu hair cut; cũng  khó ai ăn tiền may áo quần ,vì  mít tơ mua quần áo hàng hiệu trả  tiền đô , tính  ra tiền việt cớ vài ba chục triệu. “ Sô nhỏ, chậu lớn, mít tơ Đàm “ hát ở Huê Kỳ chỉ đứng sau Mỹ Tâm-một  vạn đô la / sô - thì mít tơ  Đàm  tám nghìn chứ có it  gì đâu?
-Ôi!  đời ca sĩ ,có phải ai hát bài Limelight  thì khổ mãi  mãi đâu? đời ca hát ngày tháng cho người mua vui -với ngôi sao thượng thặng hốt bạc mỏi tay luôn!

Đến lượt Mỹ Tâm hát, ông Thành  yêu cầu  có lời bình ,Tua lắc đầu:
…  người đẹp tóc nâu thì chịu, cháu chẳng biết background cô ấy sao cả, chỉ biết cô ấy  thích bỏ mì tôm vào bát - rót nước sôi đậy vung lại- ngồi chờ đưa lên miệng mà thôi.

Sắp tới thành phố Việt Trì, nhìn đồng hồ: 8 giờ 5 sáng.  Xe ô tô chạy song song đường tàu hoả, bỗng dưng bác tài  phanh lại.  Phía trước một  xe container ra dấu xe bị hư, yêu cầu xe sau dừng.  Tôi bước xuống xe, ra ven đường  giải toả khối nước khỏi bàng quang, tưới cây cỏ, lá hoa trên quê nội- tự nhắc với chính mình. Bây giờ, chẳng biết nhà ông nội dòng họ Đỗ nằm ở chỗ nào?    Bà Thảo, cô ruột chỉ  kể  cho nghe cách mơ hồ, từ nhà ông nội đến caserne không xa mấy, và trại lính tây nằm song song với đường tàu hỏa. Nhìn xuống đôi chân tôi đứng, đường tàu cách xa hai thước, xa hơn Khu Vân Phú có doanh trại quân đội – đúng là caserne tây đóng quân xưa kia rồi.  Chỗ này hiện giờ doanh trại quân đội và Nhà bảo tàng Quân Khu II.

Điều này dễ hiểu thôi một khi  quân , cán  vào nội thị tiếp thu , ngành nào tiếp quản theo ngành nấy. 

 Vậy nhà  ông nội -tên Đỗ Văn Phác -thật sự chỗ nào?  Xưa, nội từng làm nghề giặt là quần áo cho lính tây, mỗi lần giao hàng chỉ mất chừng dăm phút đi bộ.  Ba tôi ,trưởng nam kiêm trưởng tộc, tốt nghiệp  Trường Bưởi đi dạy học khắp miền xứ Bắc Kỳ-  một đôi lần theo ba về thăm  nhà nội, chỉ nhớ mang máng trước nhà có bụi tre gai cao vút –đi hơn sáu chục năm trôi qua , làm sao  tôi có thể nhớ và tìm lại được? Thôi cũng đành, nhắm mắt lại ngủ vùi , và chỉ bừng tỉnh khi xe ca  vào  ranh giới Phú Thọ-Yên Bái.

Anh Năm đậu xe lại bên đường. Tua mời gia đình Nimbus xuống xe,  lại nam tả nữ hữu- tôi nhớ tới đêm nào có bà (hay cô)  kêu oai oái , nghe tiếng sè sè tả  bên nam, trời tối đi nhầm sang hữu-bên nữ. Ban ngày thì chẳng có chuyện này rồi. Tua bẻm mép ra lời , ai từng ăn bưởi Năm Roi Lục tỉnh Nam Kỳ, giờ ra Bắc, ngược xuôi qua miền trung du lên  vùng tây bắc, và Đoan Hùng- thị trấn ranh giới  cuối cùng Phú Thọ - nơi có thứ bưởi tuyệt vời trên cả tuyệt với,  bưởi đường phèn ngọt  như mía lùi- không mua sẽ chẳng còn cơ hội trở lại nơi này lần hai  thưởng thức bưởi Đoan Hùng.  Câu kinh thi dân gian chè Thái, gái Tuyên –ai  nghiện  nước chè ngon tất biết chè Thái , ai có  bà xã  đẹp người, tốt nết, lưng ong vừa khéo chiều chồng lại giỏi nuôi con, hẳn không thể không biết gái Tuyên.  Cứ như thể hướng dẫn viên bẻm mép đã  có ăn chia với nhà vườn trồng bưởi Đoan Hùng vậy.

Tôi  bước vào  căn nhà lá bên đường phía tay trái, từ ngoài vào trong bếp  bưởi là bười chồng chất cao  như núi. Chủ rao giá nhỏ ba/lớn năm, sống trên đời ô trọc, cần ăn miếng bưởi Đoan Hùng  hương vị  ngọt thanh tao, một mai này ai chẳng xuôi tay, nhắm mắt,  nếu chưa ai vuốt- bởi chết đi chưa được xơi múi bưởi Đoan Hùng.  Bưởi ngọt, mỏng cùi, ruột dầy, lại nhiều nước, mua về không thể ăn ngay, phải chờ da bưởi săn lại , càng héo càng ngọt, cứ để vài tháng da bưởi  sẽ  vàng óng, đó đúng thời kỳ vừa ăn. Bây giờ đầu tháng mười dương lịch đến tháng hai tây là đúng tết ta, lau sạch đặt vào đĩa  đưa lên ban thờ. Có một điều cấm kỵ trong nghề trồng bưởi, sở dĩ qúy khách miền nam không dễ gì mang giống bưởi Đoan Hùng về  trồng đất nhiệt đới , có trái bưởi Đoan Hùng ngon ngọt như ở đây-  nên chúng tôi mới nói điều này. Khách lắng tai nghe,  chàng bán bưởi trạc tứ tuần lưỡi nhọn chẳng kém gì Tua  bẻm mép. Vậy điều cấm kỵ ấy là gỉ? Mà thôi, để khi quí khách từ Sapa  trở về mua bưở i chúng tôi ăn tết nói ra ch ưa  muộn. Tôi   không phải dân vườn, chẳng mấy quan tâm,  anh nói cho nghe thì nghe, hay không  bao  giờ nói cũng mặc! Tôi nghe chủ nói nhỏ vào tai ông Thành câu gì đó ,rồi  quay sang  tôi đưa bốn trái,  những trái này đã bẻ xuống khá lâu, ăn ngọt vừa miệng , bác là người  có tuổi, cháu đâu dám dối trá!

 Cầm mấy trái bưởi mới mua, ông Thanh rỉ rả, nghề nào đều  có bí truyền cả, khâu quan trọng nhất giữ cho trái bưởi Đoan Hùng ngọt , khi hái không được phép cho bưởi rơi xuống đất-  đã rơi rồi coi như bỏ,  buởi không còn vị ngọt nguyên thủy nữa.

 
  Nhìn đồng hồ 11 giờ 35 tới Yên Bình- Km9, bác tài đậu xe bên đường . Hướng dẫn viên mời khách xuống xơi cơm trưa.

 Restaurant Quân Oanh  nằm phía tay phải- hai căn liền nhau  xây hai tầng, căn bên trái  nhà hàng ăn, bên phải khách sạn ngủ. Tôi đưa máy lên bấm, bỗng một cô trạc ba mươi chạy ra, miệng cười rất tươi,  đứng kế ngay vợ tôi rất tự nhiên-  Bấm máy đi,  cho em chụp chung với chị. Anh nhớ gửi cho em một tấm đấy nhé, em tên Oanh, Km9 Yên Bình-Yên Bái. Xưa kia ba mẹ em kể lại, thời tây đến thời  Bảo Đại, Yên Bình vẫn thuộc Tuyên Quang

Cô chủ quán dáng người đẫy đà, da  trắng trẻo,  một răng khểnh duyên  cười tươi,  thấp hơn vợ tôi nửa cái đầu. Giá mầu da cô này nhuôm nhuôm hẳn là giống hệt Nàng Oanh - mà tối qua Cao Bá Ân nhắc đến. Tự  nhiên, tôi  có cảm tình với cô chủ quán Quân Oanh này thật rồi!

Rời thị trấn Yên Bình, tôi chào cô chủ Quân Oanh lần chót, vẫn nhớ món gà luộc lá chanh chấm muối ớt, còn gì tuyệt hơn, gà  đi bộ thịt săn ,thịt không bở như gà công nghiệp. Tôi đã không muốn hỏi thêm nhân thân cô chủ Quân Oanh, như muốn ghi nhớ lâu hơn hình ảnh cô bạn đồng  hương nữ Yên Bình- với bộ đồ đen, làn da trắng , nếu còn  sức trai thuở chưa vợ, ao ước  được một lần vỗ bì bạch ngã ba  Km 9: Yên Bình – tôi xin ở lại  mãi mãi.

Tới ranh giới địa phận Lào Cai, nhìn đồng hồ đúng 14 giờ chiều.  Nhiều nhà thấp lè tè nơi  sườn đồi thoai thoải, mái  lợp bằng tấm fibrociment lại đặt máng nước hứng nước mưa giọt gianh. Lại nhớ đến ngày ở Khu gia binh không quân Tân sơn nhất, nhà đều lợp bằng  tấm fibrociment – sau được khuyến cáo không nên hứng   nước mưa làm nước ăn; kể cả rửa rau, vì chất amiant trên tấm lợp này rất độc, cộng thêm khí thải bụi bom đạn gây độc hại cho sức khoẻ. Không buồn ngủ-  tôi ráng  thức nhìn ra bên ngoài, phong cảnh núi rừng, sông suối miền tây bắc, quê hương  thời niên thiếu như được sống lại.

Hướng dẫn viên thông báo, từ Yên Bái đến Lào Cai 218 ki lô mét- chúng ta thấy đường vụt qua nhanh - trăm hay không tày tay quen , bác tài .

 Tôi nhìn đồng hồ; 16 giờ 30, buổi chiều nơi đây có đám mây xám đang bay lơ lửng trên dòng Hồng Hà đỏ ngầu cuộn sóng. Và đây Lào Cai, nhìn sang bên kia Cốc Lếu-Hà Khẩu- Trung quốc; nhìn qua trái ,một  dòng sông nữa chảy ra  sông Hồng, dòng nước màu vàng  quyện lẫn mấu đỏ đục ngầu Hồng Hà lại trở thành mầu đỏ hung hãn mùa bão lũ.

Từ đây đến thị trấn Sapa 38 cây  số đường đèo hiểm trở sẽ mất nhiều thời gian hơn, chúng ta sẽ  tới khách sạn Bình Minh II  trước 19 giờ tối nay.

Trời bắt đầu mưa lất phất, xe chạy chậm lại giúp tôi ngắm ngoại cảnh kỹ hơn.Cánh đồng bậc thang trùng điệp thấp thoáng sau mây mù sương, bên đường phất phơ  những đoá hoa rừng hoang tịch mịch đang khoe sắc man dại!

 Sapa  trước mắt tôi lần đầu tiên, một Đà Lạt thu nhỏ thơ mộng hệt tranh thủy mạc Tàu, lại  có nét kiến trúc phương tây.  Khách sạn ở Sapa thật hoành tráng, nguy nga ,một toà lâu đài  cắm trên đồi, phía trưóc công viên trồng hoa rực mầu đỏ.
Đi  trên đường Thủ Dầu Một, cứ ngỡ đang  thả bộ dốc đường thành ủy ở Bình Dương, lướt  qua Hải Yến Hôtel ,bước vào khách sạn Bình Minh II- nơi chúng tôi ngủ lại hai đêm.Cửa lớn vào khách sạn, một băng đơ rôn đỏ  :

                                HƯỞNG ỨNG PHONG TRÀO XANH SẠCH ĐẸP

 với tôi-hẳn là chẳng mang ý nghĩa gì? Tuy vậy, nó gợi  lại trong  tôi ấn tượng mạnh mẽ về  Sapa.

 Sapa không khí trong lành, rừng xanh biếc ngút ngàn, đường sá sạch boong, vẻ đẹp thiên nhiên  Trời ban tặng; vậy thì cần gì phải HƯỞNG với ỨNG?  Nghĩ xa hơn chẳng mấy sai, phong trào  do Ủy ban hô hào mà thôi , và nói thật  chẳng phong trào nào tồn tại bền lâu?

Như thời kỳ  tổng thống Diệm trị vì,  ông bộ trưởng thông tin Trần Chánh Thành  kiêm chủ tịch Phong trào cách mạng quốc gia  vung tiền ra báo ngày,báo tuần, báo tháng, thuê chủ bút cỡ Lê Văn Siêu (nhóm Hàn Thuyên tiền chiến) đánh trống  thổi kèn , hô hoán cao trào văn hoá cách mạng phải thế này thế kia ,các tác gia danh tiếng được mời viết trả nhuận bút sộp. Sau cuộc đảo chính 1963, phong trào văn hoá cách mạng quốc gia cũng bị khai tử cùng lúc với các văn tài bồi bút gia nô . Trên báo chương xuất hiện bài viết  ngắn  lạy lục  nhân quần xã  hội, dư luận thế  gian, xin tha mạng chết  thân  trâu ngựa, túng đói làm càn  có tiền nuôi vợ con; từ nay xin chừa  không  bán rẻ lương tâm , cán bút trên trận bút trường văn nữa. Tôi nhớ mang máng -nhà báo Hiếu Chân  thành khẩn nhất- trong số  Lê Văn Siêu,Vũ Bằng, Nguyễn Mạnh Côn… mặt dạn mày dày đổ tội hoàn cảnh khách quan, thế này, thế kia- cứ làm như bị bắt buộc làm tôi đòi, gia nô văn bút cho chế độ Ngô Đình Diệm vậy.

Phòng 206 nằm trên lầu hai nhìn ra mặt đườngThủ Dầu Một- như tờ rơi quảng cáo ,thì khách sạn này gồm nhiều phòng đủ tiêu chuẩn quốc tế, phòng nào cũng air conditioning system, phòng ăn, hội trường  đẹp, phòng ăn sang trọng, quầy rượu không thiếu rượu ngon quốc tế, trang bị quạt cũng chẳng cần bật  làm chi, vậy cái gọi là  trang bị hệ thống điều hòa không khí đúng là chơi chữ cho vui, dụ khách mà thôi – hình như chẳng khách sạn nào ở Sapa trang bị máy lạnh cả - vì thượng đế rất ưu ái  ban nhưng không một cái máy lạnh thiên nhiên khổng lồ . Sapa hấp dẫn du khách phương tây thường tìm  đến bản làng người Dao tắm lá thuốc tẩm, bài thuốc cổ  truyền được  khai thác bài bản thành lập một công ty , ông chủ  trẻ người Dao giúp cho hàng trăm dân thiểu số có công ăn việc làm. 

Sáng hôm sau, chúng tôi được xe đưa đến Thác Bạc, cách 12 cây số trên đường 4D đi Lai Châu. Nhìn bản đồ, rẽ trái theo tỉnh lộ 32 đi Mù Cang Chải , Nghĩa Lộ-Yên Bái.  Nhìn NGHĨA LỘ chữ in - hỏi lòng và  tự nhủ , nếu có dịp nào thuận tiện, tôi  đi ngay về thăm Nghĩa Lộ,  mới chỉ tưởng tượng  thôi , tôi đã thấy hạnh phúc biết bao  nhìn cảnh cũ, nhớ người xưa – trải nghiệm một thời đoạn sống vui, buồn, sung sướng, và  tủi cực lại càng không dễ quên!

Cơn mưa sáng vẫn rả rích đều hạt, tưởng chừng sẽ chẳng ai muốn ra đường- thì một quán cóc đầu tiên hiện ra – một cô gái trẻ nhẫn nại nép mình trong lều chăm chỉ  quạt bếp nướng khoai lang mật, đốt ống cơm lam  bên ngọn than hồng. Cả hai cô người Dao không mặc áo mưa, miệng cười tươi chào khách mua hàng thổ cẩm. Ông Đặng chống gậy đi lại  chọn sấp vải, như có ý định mua thêm  vài thứ khác - thì đúng lúc tôi đưa máy ảnh lên bấm . Nghĩ trong đầu ,các cô, bà, trẻ em người thiểu số thấy khách bấm máy xong ,xoè bàn tay đòi tiền – tôi đưa năm ngàn tặng ,hai cô lắc đầu. Ông Đặng hỏi một cô người  Dao:

-Ngộ muốn mua cái mũ cô đang đội trên đầu thôi, chứ không mua đồ thổ cầm trên tay đâu? Cô pán pao niêu, ngổ  trả đúng giá pấy niêu.
-Không bán đâu, đây là sỡ hữu riêng mà.
Ông Đặng như không hiểu  cách cô người Dao dùng chữ, hỏi lại:
-Sỡ hữu riêng là cái gì dzậy? tôi không hiểu.
-Là cái Trời ban cho, cái mắt, mũi, tai, miệng, thân hình, tiếng nói, sắc đẹp, cái duyên, cái hấp dẫn người khác  từ nơi người con gái dậy thì, còn là cái mũ, cái áo, cái váy này tôi đang mặc.  Nếu bán cái mũ này là bán  tất cả thân thể linh hồn tôi rồi, không thể bán được đâu! Mua cái thổ cầm này đi, đẹp lắm đó, mua về làm quà kỷ niệm nguời Dao Sapa mà.Tôi nói thật đấy!

Khen cô người Dao thông minh, ăn nói sắc sảo, có đôi chút đáo để- quay sang nói với tôi, ông muốn được chụp tấm ảnh đứng giữa hai cô Dao  làm kỷ niệm.Trả lời- tôi đã chụp trước khi ông yêu cầu .

Trở về ăn  trưa tại khách sạn, vào đầu giờ chiều đi thăm Nhà thờ Đá Sapa. Chợ Sapa,  Núi Hàm Rồng, Cổng Trời vv… Tua cho biết , chương trình ghi hạng mục THĂM CHỢ TÌNH SAPA .

ĐÊM THỨ BẨY không thực hiện được, cũng tại bão Xangsane ập tới- buộc phải lùi ngày khởi hành, thay vì  30 tháng 9 đến ngày 5 tháng 10 lên đường.

 Chợ tình  đêm thời tiết đẹp còn vui, chứ mưa lai rai như đêm nay chẳng hạn ,chẳng có ma nào đâu- cũng vẫn một số cô cậu tham dự trước sân  Nhà thờ Đá Sapa – cô gái múa may trong bộ váy thổ cẩm cực kỳ công phu nhiều mầu,  rực rỡ nhất mầu đỏ trên mầu chàm, cậu trai vận bộ quần áo mầu chàm  tượng trưng bộ tộc xuềnh  xoàng, đơn giản, cầm khèn thổi theo nhịp chân múa may. Nhảy  múa xong, cô gái cầm mũ  đòi tiền khách ủng hộ, thấy nhiều tiền cười  vang thoả thích , nhảy múa tiếp- tiền thưởng ít mất vui, xịu mặt, có khi không nhảy múa hát hò xung độ như ban đầu.

Tua than, ôi đồng tiền  là tiên là phật,  sức bật  tuổi trẻ, sức khoẻ tuổi già, cái đà danh vọng, cái lọng che thân, cán cân công lý…có sức làm tha hóa tính tốt con người trên rẻo núi cao,  đồng tiền tác động thực tế rất lớn  đời sống thường nhật- cô em người Dao gặp khách du lịch thường níu kéo  tặng sợi giây thêu may mắn bằng thổ cẩm, chúc may mắn, mạnh khoẻ - được khách tặng lại đồng hào khứa quanh viền  thì nhận ngay , đồng hào viền láng, lắc đầu từ chối .

Cũng  chẳng hoàn toàn vậy, tôi đã  gặp một cô người thiểu số mang gùi sau lưng, chân quấn xà cạp đi bộ đầu cúi nghiêng  phía trước, dáng người thon thon  tuổi mới mười ba ngực đã bồng, làn da trắng mịn, tóc bạch kim , mũi dọc dừa cao- chắc đứa bé được sinh ra vào thời kỳ đổi mới- khách phương tây cặp kè, bén duyên mẹ cô, nơi chợ tình lãng mạn không chừng? Cô đi chợ mua hàng quẩy về bản thì phải, không ngước mắt nhìn ai, không chào mời mua thổ cẩm, kỷ niệm, phong cách chững chạc, rất ư chừng mực, thật đáng kính trọng!. Tôi dừng lại trước mặt xin phép chụp một ảnh – cô cười đồng ý- sau gật đầu chào lặng lẽ bước nhanh tới bến xe khách Sapa-Lào  Cai. Cô ngồi lên xe khách cầm tờ hai chục ngàn mua một vé Sapa –Lào Cai, vậy ra cô này không thuộc loại dân nghèo – hai chục ngàn  giá trị bằng tiền công được trả cho một lao động phổ thông quần quật tám tiếng đồng hồ. Tôi  xin cô địa chỉ  gửi ảnh, cô lắc đầu:

-Cháu ở trong bản, thư từ gửi đến chẳng nhận được. Xem chừng chú là du khách bình thường, nếu có ý định in ảnh cháu  lên báo ,thì không nên đâu, cháu xin chú đấy!

 Vẫy tay chào lần cuối đúng lúc xe lăn bánh rời bến đỗ,  nếu có một ngày nào lại rất tình cờ được gặp  tại nhà cô, cô sẽ mời nước trà theo đúng tập tục người Dao :  tao thích thì tao mời mày nước chè, tao ghét sẽ không mời mày  uống nước chè đâu? (miền bắc: chètrà).
Liệu cô bé này có cho uống trà hay không đây, còn phải chờ có ngày gặp lại.

Trở lại khách sạn giờ nghỉ trưa thật bất tiện, giờ này vợ tôi đang quấn chăn bông ngơi nghỉ giấc trưa – tôi tạt vào gần đấy , gọi ly cà phê đen . Quán đối diện  khách sạn,  bán nước mía giải khát, khoai lang nướng, mía cắt từng khúc chưa dóc vỏ, phía trong nhà có kệ bán tạp hoá, rượu táo mèo.

Một cậu bé  chừng chín mười tuổi đi cạnh bà mẹ  Dao vào hỏi mua miếng xà phòng thơm. Chủ quán đưa miếng Lifebouy, cậu gật đầu, bà mẹ trẻ hỏi giá rồi  lắc đầu kêu đắt, có miếng khác nhỏ rẻ hơn không? Hai mẹ con đi ra với miếng xà phòng tắm nhỏ xíu bằng  hai đầu ngón tay,  bà chủ cho biết họ cần kiệm vì nghèo, đứa con đang theo học trường  nội trú dân tộc có trợ cấp, vẩn phải bù thêm tiền mua đồ dùng cá nhân: xà phòng tắm, bàn chải, thưốc đánh răng, khăn mặt. Bà chủ  cho biết thêm căn nhà một trệt, một lầu mới xây từ tiền đất  nhà nước bồi thường cho gia đình chính sách cũng khá, mẹ con tần tảo buôn bán lặt vặt sống qua ngày. Bố sĩ quan công an mất tích  thời chiến tranh ở Quảng Trị năm bẩy hai, nay chưa tìm thấy xác, con gái độc nhất chưa  hề một lần vào thành cổ dò tìm tin tức.Rồi hỏi đoàn du lịch từ Hà Nội  đến hay từ miền  Nam ra , thuê phòng khách sạn đắt lắm không, giả dụ gia đình chú lên du lịch Sapa vào dịp tết ta sẽ tha hồ ngắm tuyết rơi đỉnh đèo Ô Qui Hồ.

Và rút tấm danh thiếp trong hộp đưa cho tôi, dặn dò thêm, căn  nhà đầu tiên mang số chẵn, đường Thủ Dầu Một, và quảng cáo rượu thuốc ngâm táo mèo, uống vào bổ tì vị, nếu là dân nghiền  ( ngưng nói nhìn tôi từ đầu đến chân)  phong độ như chú đây ,chỉ cần uống một ly thôi , sẽ được cô nhà tấm tắc khen đấy!

Nghe bùi tai, tôi đặt mua một bình với giá hữu nghị trăm ngàn đồng. Nhìn khúc mía  vỏ trắng bắt mắt, nhờ dâu bà róc vỏ, đưa lên miệng nhai –quả thực danh bất hư truyền, chất ngọt rất thanh, không gắt, nuốt xuống cổ nhận được dòng chảy vào ruột.

 Nhắc tới mía Lào Cai ngọt danh bất hư truyền - nhờ bố vợ tôi kể lại. Vợ tôi - thứ nữ được sinh ra ở Thất Khê ( Lạng Sơn) năm 1937- trước đó bốn năm chị vợ tôi  được khai sinh, đẻ ở Bát Xát - bố vợ tôi đang dạy học tại đó.
 
Nói với vợ, giá chúng ta đến thăm Bát Xát thì tuyệt- đi theo đoàn lại  quá ít thời gian, không thể tách  đi tùy tiện- vả lại xe pháo khó khăn – ngay thị trấn Sapa tuyệt nhiên không thấy một anh xe ôm nào  đón khách – muốn thuê- phải nhờ người quen giới thiệu.  Tôi đem bản đồ ra tìm nơi chị Thư sinh ra - Bát Xát cách Lào Cai nửa centimét  theo tỷ lệ 1: 1.750.000 -vậy chừng trên dưới bốn chục ki lô mét -nằm trên ranh giới Việt Trung.  Bố vợ tôi sinh 1908 ở Lạng Sơn, tốt nghiệp Trường Bảo hộ sau bố tôi mươi lăm năm- tuổi kém một giáp; nhẩm tính  bố đẻ sinh năm 1896. Còn bố vợ tôi  lại thẳng tính,  đôi chút ngổ ngáo, gặp chuyện bất bình đối xử giữa quan thuộc địa và bản xứ, hay dính mũi can thiệp. Có một lần đánh tennis với quan thuộc địa, ông nghịch ngợm quất trái banh chui tọt vào chiếc váy  phu nhân Công sứ  (quan đầu tỉnh ). Bà la ré lên, quan ông  nhìn thấy vợ ngã bổ nhào ,rất tức giận tên giáo viên bản xứ vô lễ, buông lời  trách cứ quở phạt.

 Không ai ngờ  tay giáo viên bản xứ Nguyễn Quốc Bảo dám cãi tay đôi với quan ông – và quan  bà can thiệp cho là  chuyện nhỏ -khiến quan ông  càng ghen tức hơn - ra lệnh Nha Học chính làm giấy thuyên chuyển ngay tức khắc.

Chỉ ít ngày sau, bố vợ tôi nhận được giấy thuyên chuyển lên mạn ngược , nơi rừng thiêng, nước độc, đèo heo hút gió: địa danh Bát Xát-Lào Cai- tiếp theo, lên Lạng Sơn- Thất Khê, Tràng Định, Nghĩa Lộ, Tú Lệ- Yên  Bái… cả hàng chục năm sau mới về lại Hải Dương -một năm sau  đất nước phân chia, ông  di cư vào Nam.

 Trong tập album  lưu ảnh gia  đình, có chân dung một cô gái khuôn mặt giống hệt bố vợ, chẳng con cái nào được biết tên, tuổi, gốc gác –hỏi mẹ,  bà chỉ lắc đầu: có thể vai chị hay em chị Thư -con ngọai hôn ông giáo.

Tôi nhớ  lại , năm 1981 ông qua đời ở Đà Lạt,  vợ tôi lên dự đám tang, không đủ tiền mua vé xe về lại Sài Gòn đành phải  đi bán máu.  Thời bao cấp ai cũng khổ, bác Phòng ( quen  gia đình)  chỉ hút 180 c/c máu -thay vì 200c/c -đến  lần bán máu lần hai , cũng  lấy tiền mua vé xe  đưa  mẹ  về Sài Gòn  - em trai không thể nuôi – và bà qua đời đang khi khỏe mạnh, chỉ nghẹn cơm mà con gái lớn không hay biết.
-Ôi thôi lại một cái chết rất oan uổng của bà mẹ vợ!

Có lần, cậu Ba bênh vợ con mắng mẹ xối xả, vợ tôi lau nước mắt định từ con –nhờ  chậm nóng giận,  nghĩ lại  bản thân chẳng làm gì cho bố mẹ  vui ngày cuối đời, mẹ nhai bát bo bo  trệu trạo  mong  có chiếc khăn vuông quàng cổ  trời đổi gió  thì con  gái không mua nổi- tích cóp từng đồng  mua gạo nuôi con  ăn học lớn lên thành người.
Bây giờ con thành đạt rồi , có đứa  bất kính  với  mẹ đi nữa, thì :… dầu cho mày bất hiếu mấy đi nữa, mẹ cũng chỉ cầu nguyện Chúa tha tội  cho  con bất kính cha mẹ, bởi mày chính là cái giằm Chúa  găm lại để  phạt mẹ  xưa kia đã  bất kính với ông bà ngoại!.

 Nhìn vợ đưa tay lau  giọt nước mắt  ngậm ngùi- mỗi lần nhớ lại, tôi  chưa hết xót xa- nhất là ghi lại chuyện rất khó viết  này!

Còn bố ruột tôi bị đổi lên mạn ngược Yên Bái-từng  lần dạy học ở Thân Uyên (thời tây: Thân Uyên thuộc  tỉnh -Lào Cai ) sau thuyên chuyển về Làng Bữu - Văn Chấn,  Đại  Lịch-huyện Trấn Yên,   tiếp  theo  được trở lại Trường  Sơ học Hạnh Sơn- Văn Chấn- và một thời gian sau  được  chuyển ra  tỉnh lỵ, dạy ở École de Garcons de Yen Bay vào  năm 1932- nơi tôi được sinh ra ở  Nhà thưong Yên Bái-phố Yên Thái. Có một  điều mà tôi  ân hận nhất, tôi không thể hình dung được khuôn mặt bố và mẹ tôi ra sao cả.  Không còn lưu giữ được một  tấm ảnh  nào của bố - hỏi bà cô ruột tả chân dung anh Cả- vẫn chỉ cảm nhận cách  mờ nhạt. Còn mẹ tôi, ảnh người trong mắt tôi vào thời gian  Nghĩa Lộ-trước giờ lên máy bay hãng Autrex về Hà Nội học- tôi chẳng hình dung nổi khuôn mặt mẹ tôi , chỉ nhớ  khuôn mặt tròn phúc hậu , tóc mẹ quấn đuôi gà- bà con gái Sơn Tây- chẳng nhớ ở Quảng Oai hay Quốc Oai – nên  tôi phịa câu chuyện tưởng tượng thế này – ông bố nguyên quán Việt Trì, một buổi đẹp trời qua bến Trung Hà sang chơi xứ Đoài- gặp  cô gái Sơn Tây yếm thủng tày giần/ Răng đen hạt nhót má hồng  chôn niêu-mê như điếu đổ xin cưới bằng được!

 Mẹ tôi họ Phùng, tên Mùi ( ông bà ngoại đặt tên theo năm sinh chăng?)  và dân Sơn Tây có nhiều gia đình  mang họ Phùng thì phải –mỗi khi gặp người họ Phùng, không hiểu tại sao tôi qủa quyết là đồng hương với mẹ.

  Năm 1974, ban chủ biên  NXB Vàng Son thực hiện Tập thơ, trưyện không quân thời chiến  (Sài Gòn, 1974)  in bài  thơ Nguyễn Cao Kỳ khóc mẹ qua đời ở Sơn Tây :

                                          …   Mái tóc bạc sương bao năm khổ hạn
                                                Kiếp phù du mẹ cay đắng ngược xuôi
                                                Lắng nghe xem dòng nhạc giữa  dòng đời
                                                Ai gẩy hộ một cung đàn êm ái….
                                                                  THƠ NGUYỄN CAO KỲ

tôi lại quyết đoán bà mẹ tác giả  Kinh sám hối quê Sơn Tây , họ Phùng. Sau  kiểm tra lại , ít nhất Sơn Tây cũng  có hai bà mẹ họ Phùng- một, bà mẹ tác giả Kinh sám hối- bà kia , mẹ người biên tập – và cả hai bà mẹ qua đời - chẳng ai được nhìn ai vào lúc đậy nắp quan tài?

Bỗng nhiên, bà chủ quán cho hay , có một bà người Dao nào đó đứng  trên hành lang khách sạn gọi-  tôi  nhìn lên thấy vợ đang  vẫy tay.Vợ mặc áo váy dân tộc Dao, trông đặc sệt người Dao-  chỉ tay ra dấu đoàn sửa soạn lên xe ca dạo phố Sapa.

 Chẳng ai đến Sapa lại không đi thăm Nhà thờ Đá làm bằng đá khối trên khu đất rộng vuông vức tĩnh lặng lạ kỳ! Cánh cửa vòm lợp mái phụ hệt dáng vòm Nhà thờ Con Gà Đà Lạt, bước qua  vòm vào thánh đường , bên trái một dãy nhà dài ,cổng phụ , lối đi riêng  hàng rào sắt  thiết kế  giống hệt bất cứ  công thự ,phòng ốc nào  xây dựng  cuối thế kỷ XIX ,đầu thế kỷ XX.

 Tôi bấm nhiều ảnh sân nhà thờ đá, được lót bằng đá thiên nhiên mầu xám thẳng hàng ngay lối  phẳng lì.

 Nằm trên sườn đồi thoai thoải ở phía sau , những căn biệt thự xây dựng trong khu đất riêng biệt, thường ra  là hai tầng, sân trước, vườn sau, cây cối   cổ thụ . Hai lớp cửa sổ, cửa kính phía trong, ngoài cửa chớp, sơn nâu ,xám, tường quét vàng, từ phòng hắt ra ánh sáng đèn bóng tròn thật ấm cúng. Đem lại cảm giác bớt lạnh gía  khi khách trang bị áo len trong, áo khoác ngoài đi dạo phía ngoài.  Khu chợ, sân vận động bao quanh Nhà Thờ Đá, rất đúng với lời thơ Vũ Hữu  Định, Phạm Duy phổ : đi năm phút trở về chốn cũ - áp dụng cho Sapa  bây giờ đúng hơn Gia Lai – Gia Lai bây giờ phố phường xây dựng  mới, nhà cửa đông  đúc, người người lớp lớp chen chân trên vỉa hè mở rộng hơn nhiều.  

Bỗng dưng hình ảnh ông bố vợ hụt, cũng  từng là công chức thời tây ở Sapa trở về trong trí nhớ tôi  khi đứng trưóc sân Nhà Thờ Đá. Nghĩ lại rất  lôgic -chữ nghĩa thời thượng  miền bắc vẫn  xài -đã nhắc bố vợ , bố đẻ dạy học ở Sapa-Lào Cai  hà cớ gì  anh quên  ông  bố cô gái  sinh ở Sapa–nguồn cảm hứng  rạt rào cho tập thơ Nếu anh có em là vợ ?
.  
                                 VÀI HÀNG VỀ CÔ BÉ :  NÀNG THƠ CAO MỴ NHÂN 

Sinh năm 1939 ở Sapa, Hoàng  Liên Sơn, Bắc Việt. Học tiểu học tại Trường Tiểu học Lệ Hải- Hải Phòng. Năm 1954 , di cư vào Nam, học Trung học Trưng Vương Sài Gòn, sau đó học  cán sự xã hội Caritas. Ra trường gia nhập quân đội Cộng hoà. Năm 1975, thuộc thành phần sĩ quan cấp tá, đi tập trung cải tạo, đến cuối năm 1991 sang Hoa Kỳ định cư theo diện tị nạn, hiện ở thành phố Hawthorne, California.

 Sapa, nơi  nghỉ mát lý tưởng  từ xưa đến nay  không hề thay đổi: đèo thì  cao, gió lộng thổi qua thửa ruộng bậc thang - Thác Bạc ngày đêm giội đổ ào ào từ đỉnh núi xuống ngang đường 4D đi Lai Châu, rẽ phải  Mù Cang Chải, Nghĩa Lộ- Yên  Bái…

Nàng  thơ  được  sinh ra năm Mão, cầm tinh  con mèo theo con giáp, làm thơ tình tính ra  hàng nghìn , thơ đã  in trên dưới  dăm, bẩy tập. Tập mới nhất  tôi đang có trên tay in ở Hoa Kỳ : Thơ Mỵ II (phân biệt  Thơ Mỵ-  Sài Gòn 1961) nhà văn Duy Lam ( cháu ngoại chủ soái Tự Lực văn đoàn) săn sóc in ấn, hoạ sĩ tài tử Phan Diên kiêm phó nháy, chụp chân dung.

                                     NHÂN VẬT THƠ

Hỡi ơi nhân vật của em
Chỉ là hư ảnh sau phiên chợ chiều
Khi em ngó sững tịch  liêu
Thì nhân vật ấy vội dìu em đi
Tưởng như một khách tình si
Từ nơi xa thẳm tìm về chốn xưa
Suốt tuần bão nổi giông mưa
Em say huyễn mộng nhặt thưa đợi người
 Khách tình si rất tuyệt vời
Chờ em chạy tới chân trời sám mây
Dang tay ôm gọn thân gầy
Ru em giấc ngủ tình đầy văn chương
 Hỡi ơi, nhân vật thơ vương
Từng trang kỷ niệm yêu thương chân thành
Thế thì, đố nhân vật anh
Là ai trong cuộc viễn hành của em.

                                                          CAO MỴ NHÂN-
                                                          Hawthorne, 11-1-2005.
                                       ( trích  Hội thơ Tài tử Việt nam Hải ngoại xuất bản, Cali 2006)


Trên đỉnh Cổng Trời  sương mù dầy đặc, sương bay mờ gương  mắt mất rồi! cô bé  giọng Huế thật dễ thương!

 Thế mà vẫn có ba công nhân nữ và một nam  mặc áo xanh trồng hoa trong vườn góc Cổng Trời. Hoa đỏ kết thành chữ SAPA  vẫn nở rộ phía sau chân dung vợ chồng tôi vào chiều lộng gió trên đỉnh đồi hoa.  Gần đó ,chợ chồm hổm mấy cô người Dao và mấy em bé chạy lăng xăng mời chào khách mua  thổ cẩm lưu niệm. Trời mưa hạt mỏng hắt lên  cánh tay trái cô bé  Dao cầm dù xoay xoay, tay phải giỏ thổ cầm lúc lắc rao bán .

Ông Đặng chống gậy leo núi  dáng điệu bơ phờ, khiến bà vợ , khóac tay dìu-  tôi nhớ  ban sáng  đôi mắt láo liên nhìn hai cô gái Dao ,đòi mua cái mũ đang đội, bị chối từ- đây là sở hữu riêng.  Ông bạn người Hoa sống rất lâu ở  Chợ lớn, quốc tịch Pháp, thường trú Nam Vang, chân gỗ bên trái kỷ niệm cuộc chiến 75 Sài Gòn-Chợ Lớn- thấy cô gái xinh xắn vẫn  đam mê, và quay sang phía tôi , chúng ta  ưng cái bụng  khi nhìn cô gái đẹp, phải không?

Rời  Sapa sau bữa sáng ở khách sạn  Bình Minh II, gia đình Nimbus lên xe  ra thị xã Lào Cai, ăn trưa Hà Khẩu- hướng dẫn viên cho biết đại tiệc gồm mười món, vịt quay Beijing hẩu xực nổi tiếng Trung quốc. Cô Huyền thông báo phải đóng thêm một trăm ngàn đồng/người/hộ chiếu  tạm thời sang nước bạn. Tấm hộ chiếu này mỏng manh hơn hộ chiếu Cục Quản lý Xuất  nhập cảnh trung ương cấp, tôi cầm trên tay  tự nhủ chắc chắn sẽ được xuất ngoại  xuôi chèo mát mái thôi – bởi không cần phải trả lời phỏng vấn như hai lần trước xin sang Huê Kỳ đều bị từ chối tại  Tỗng Lãnh  sự Hoa Kỳ tại thành phố Bác.

Lần một, chính xác ngày 25 tháng 9 năm 2001, đúng sau  hai tuần lễ Tháp Đôi, Trung tâm Thương mại quốc tế- New York bị đánh sập, người chết vô số , kẻ  bị thương nhiều vô kể, gây chấn động toàn cầu. Tôi cầm hộ chiếu vào quầy B - nữ nhân viên giọng người Hà Nội thanh lịch ngọt ngào hỏi- sao tờ khai nhân thân mang  tên The phong lại không  được hỗ trợ dấu tiếng việt? Nghĩ bụng thôi- cô dùng chính xác từ công nghệ-thông tin - tôi trả lời:

-Thưa cô, người Mỹ không cần  hỗ trợ dấu khi đọc tiếng việt, phải không ạ? và Thephong có dấu hay không, có gì quan trọng đâu?

-Sao lại không hở bác, Thephong  cần được hỗ trợ dấu việt- tôi nhắc lại.
-Thưa cô, chỉ là dấu Ế, mong cô tự thêm vào,  xin đa tạ.
-Bác phải tự ghi lấy rất quan trọng đấy.

-Thưa cô, tên Thếphong chẳng là cái gì, đâu phải chỉ riêng tôi dùng – một phóng viên ảnh báo  Yêu Trẻ - tên Thế Phong- anh ta chụp  người mẫu rất đạt, in trên bìa tạp chí  Phụ Nữ/Tp.HCM- Và con  dâu nhà chúng  tôi  giống hệt cô, mách mẹ chồng: bố già thế bồ bịch lung tung, người mẫu này,nhà văn kia vv… May  mắn sao vợ biết tính chồng thông cảm.

-Bác nói ngoài lề, dài dòng như rễ rau muống - bác là NHÀ- VĂN- Ế  chứ gì- mỗi dấu   làm mất thời giờ -thôi được tôi viết giùm vậy. May không nhiều người đứng sau chờ ( cô xin lỗi người xếp hàng phía sau)  bác giải thích  dâu tây nhà tôi giống hệt cô, là sao?

-Con dâu nhà chúng tôi được sinh ra ở Hà Nội - con trai tôi cưới về , ngoài việc đẻ cháu nội kháu khỉnh -cầm tinh con cọp, có biệt tài chỉ huy gia đình – còn liêm sỉ  lễ nghĩa, nấu ăn ,dạy con cái,  ứng xử nàng dâu mẹ chồng ( kém)- và chỉ sở hữu giọng nói thanh lịch cực kỳ Hà Nôi giống hệt cô.

 Vợ chồng tôi phán :mày đúng là dâu tây con ạ !
-Cô phát số 267 cho tôi  xong, mời cô bác đứng chờ tới quầy:
-Mời  cô bác hàng sau, và riêng nhà- văn- ế Thếphong có sách in ra, nhớ tặng tôi với chữ ký tác giả - bởi tôi cũng  họ hàng dâu tây nhà bác!

Vào phòng chờ, di dộng tắt   cài chế độ rung, không ồn ào làm mất trật tự,  nghe xướng danh mời vào đúng quầy. Lại nghĩ trong bụng,  thằng Hoàng bạn mình tốt thật mời sang Mỹ chơi,  thủ tục thật rườm rà, tôi cảm thấy như lới nói  rất ư lịch thiệp sứ quán xem ra vẫn ẩn chìm vẻ trịch thượng ban ơn. Phỏng vấn cho đi, ừ đi- nếu không, vẫn Sois remercié l’Amérique! ( tạm dịch: Cứ hãy cảm ơn nước Mỹ đi!) chẳng có gì bận tâm!

Khách mang số 269 được phỏng vấn trưóc- cười  hỉ hả- chiều lên đóng tiền làm visa.

Còn bạn ngồi cạnh số 268 , hỏi tôi sang Mỹ làm gì? Giấy tờ bên đó bảo lãnh ra sao –và 268 chỉ có duy nhất lá thư ở Mỹ - mời bố ở xã Nguyệt Biều-Thừa Thiên-Huế sang thăm con trai hiện ở Dallas. 268 hỏi tôi có biết Dallas?- Mô, tê, chi,  răng, rứa, anh có nghe tên tổng thống John Kennedy bao giờ  không? -Biết / -Dallas  là  nơi tổng thống  đẹp trai  từng quấy nhiễu tình dục  đệ nhất giai nhân Mỹ quốc Marilyn Monroe, bị bắn chết .

Anh chàng  268  lại thắc mắc nhìn xấp giấy tờ bảo lãnh cuả tôi từ Mỹ gửi về dầy cộp, nào chứng nhận trả đủ thuế, chứng nhận  công chức Mỹ  cơ quan xác nhận, giấy  chứng minh lương bổng, tiền gửi  nhà băng vv… nên 268 ái ngại chuyến đi hy vọng rất mỏng manh. Tôi an ủi cho xong việc, sẽ không sao đâu, lãnh sữ Mỹ ở Huế chấp thuận cho đi  Sài Gòn vào gặp Tổng lãnh sự Sài Gòn thì anh sẽ được đi thôi.  Anh không tin vậy cho tôi sẽ chắc chắn được chấp thuận   đến Mỹ , vì có nhiều giấy tờ  của người bảo lãnh ở Mỹ  hơn là anh chỉ duy nhất một thư mời.

-Tôi ngóng chờ hết số 266, 270, 271- vẫn chưa thấy gọi số 267 và số 268 Nguyệt Biều. Bỗng loa gọi  mời số 268, anh Nguyệt Biều cầm giấy tờ đến quầy 4, phỏng vấn viên Mỹ da trắng hỏi vài câu  gật đầu lia lịa, mời chiều trở lại đóng tiền lấy visa. Trở lại  chỗ ,vỗ vai  tôi chúc may mắn.

Tôi gục đầu ngủ gật, bỗng loa gọi: quí vị nào mang số 267 đến quầy số 4 làm thủ tục.
 Giụi mắt cho tỉnh ngủ, đưa xấp giấy dầy cộp cho phỏng vấn viên da trắng còn trẻ, nói tiếng việt sõi, giọng đặc sệt tây:

--Mục đích của ông sang Hợp chủng quốc?
-Tôi sang chơi thăm bạn bè cũ, và con tôi cũng mới sang Hoa Kỳ, tiện thể thăm luôn.
-Ông sang Hoa Kỳ thăm con hay bè bạn?
-Trưóc lúc bảo lãnh có ý định thăm bạn bè cũ, bây giờ tiện thể thăm  con.
-Con ông được bảo lĩnh  theo diện nào? từ bao gìơ?
-Ngày 11 tháng 9, diện đoàn tụ gia đình.

-Xin ông nói rõ thêm  đoàn tụ gia đình thuộc diện nào- thí dụ bố mẹ bảo lĩnh con cái, con cái bảo lĩnh bố mẹ, vợ bảo lĩnh chồng, chồng bảo lĩnh vợ …và ngày 11 tháng 9 năm nào? Xin ông nói cho rõ.
-11 tháng 9 , ngày quân khủng bố  không muốn nhìn thấyTháp Đôi-Trung tâmThưong mại thế giới tồn tại. Còn con trai chúng tôi  được vợ bảo lĩnh.
-Hiện  con ông ở bang nào , thành phố?
 -Bang Texas,  thành phố Houston.
-Ông không đủ điều kiện đến  Hợp chủng quốc. Cảm ơn, và  cuộc phỏng vấn tới đây chấm dứt.  Tôi  cầm hộ chiếu cười cười, không tỏ vẻ gì bực bội , nói bâng quơ:
-Thank  too!
-Ông cũng  nói  được tiếng anh sao ?
-Chút ít, không giỏi như ông nói tiếng việt  nghề.
-Sao  ông lại  cười ,khi phỏng vấn  đã bị từ chối?
--Ông muốn biết sao tôi cười và cười kiểu nào, tôi mới trả lời ông được. Có nhiều kiểu cười  : cười chua chát, cười bể bụng, cười gằn, cười giả dối, cười khanh khách, cười hóm hỉnh, cười khằng khặc,  cười khoan khoái, cười lẳng lơ,  cười ngạo, cười dòn, cười duyên dáng  cười nhoẻn
miệng,  cười mỉa mai, cười  trắng trợn, toe toét, tinh nghịch, tức bụng, tủm tỉm,  lấy lòng  vv..và vv. –ông thấy tôi cười kiểu nào nào?

-Ông cười kiểu a bitter smile  đúng vậy không? và tại sao ông  lại cảm ơn, ông  trả lời được không  ạ?

- Được, chứ sao không? A bitter smile chỉ đúng  tâm trạng ông- khi  nhìn tôi  cười .Thôi bỏ qua chuyện nhỏ, còn cảm ơn -tại sao ư? Dễ thôi, cảm ơn nước Mỹ giúp tôi sẽ  không phải tiêu đến đồng đô la thứ 46 . (năm 2001, lệ phí phỏng vấn 45 USD/người)

Đi rồi còn nghe phía sau lưng  Why, Who is him ?-  hình như anh ta hỏi cô  phụ tá người việt bên cạnh. Và nếu anh  ta hiểu được 20 kiểu cười kia , lại hiểu  tận tường ngôn ngữ việt, tại sao mèo  đen không gọi  mèo đen, ngựa đen không gọi ngựa đen, đũa đen không gọi đũa đen,chó đen không gọi chó đen vv…chắc anh ta sẽ không hỏi người này là ai, và tại sao lại nói  thế?!

Lần thứ hai, ngày 3 tháng 5 năm  2006, hai vợ chồng tôi xin phỏng vấn qua  Sacramento,  thủ phủ bang California dự Đại hội Thơ lần thứ 4 -Hội Thơ Tài tử Việt Nam Hải ngoại, lại bị khươc từ. 

Vẫn quầy số 4 -một nữ nhân viên có giọng nói ngọt ngào lịch lãm Hà Nội  hỏi vài câu , khẳng định: nếu để ông bà sang Hoa Kỳ thì sẽ không trở lại Việt Nam nữa. Xin lỗi, cảm ơn!

Nhiều bạn bè mách nước, cứ thế tài sản ,xong ngay.  Không được đi cũng  có cái tốt- bởi đây là sự sắp xếp quá vội vàng - trưởng nam ở Houston  không thể lo đủ  ngay tài chính- dầu ông bà nội được  gặp cháu đích tôn Đỗ Minh Quân-William cũng tốn cả mấy ngàn tiền vé!

-Xin quí vị cầm hộ chiếu trên tay, xếp hàng một theo cán bộ hướng dẫn.

Lần này Tua không sang Hà Khẩu, còn  lái xe Năm căng võng tòng  teng trên xe nghe nhạc .  Chún g tôi bước vào sảnh hải quan  nước bạn - lần đầu tiên được nhìn thấy nam nữ cảnh sát  mặc cảnh phục Trung quốc, dáng người cao, đi đứng chừng mực, nề nếp, qui củ - và chỉ có đôi mắt làm việc nhiều nhất, tựa luồng ánh sáng quét từ đầu đến chân ố nàm nhần thăm Hà Khẩu. Nữ cảnh sát  hành chính mặt bầu bầu, đong đưa đôi  chân dài dưới ghế, đóng dấu trên hộ chiếu rất nhanh, đóng dấu  cụp cụp ,đưa mắt liếc nhìn so sánh ảnh và người thật- hảo lớ- cười tủm đứng dậy nhìn khách cuối cùng bước qua cửa khẩu .

Có một điều vui vui, tôi  mới khám phá ra - khi nghe xướng tên Huỳnh Hòatới hai lần - chẳng ai nhúc nhích  lên tiếng có mặt – hoá ra ông Đặng  người Hoa chống nạng ẩn tên Huỳnh Hòa mà chính ông  cũng quên phắt. Cán bộ Công ty xuất nhập cảnh Lào Cai tới níu áo ông Đặng dẫn lên  đứng vào hàng điểm danh. Sau được biết -trong số bốn, năm người đi cùng ông bà Đặng - mang quốc tịch  Pháp, hoặc Campuchia - rất dễ gặp khó khăn vào đất bạn- công ty nẩy ra mánh lới  đội tên việt là hay nhất.

 Qua Hà Khẩu, chúng tôi được đưa lên những chiếc xe lam chạy bình , tôi đã nhìn thấy ở bên này cửa khầu Lào Cai, chạy thẳng vào phố Hà Khẩu. Cán bộ hướng dẫn thu ngay hộ chiếu tạm thời, dặn dò cách thức mua, bán mặc cả giá ở siêu thị, sẽ chẳng có gì lạ , giống hết siêu thị bên ta , và đa số mậu dịch viên đều nói  tiếng việt, mua hàng trả tiền việt.

Đường xá rộng thênh thang, kể cả vỉa hè, xe gắn máy, mô tô đều gắn hai biển số trước và sau. Nhà chung cư xây dựng từ năm, sáu tầng trở lên. Giống hệt chung cư Rạch Miễu-Phú Nhuận ở Sài Gòn ,phòng nào nhìn ra mặt đường đều cơi nới chuồng chim, chuồng cọp, lưới rào kín phơi quần áo, trồng cây kiểng.

 Ở tầng một chung cư gần cửa khẩu nước bạn, một poster nữ diễn viên Hàn quốc Lee Young Ae kéo dài suốt một dãy tường, chiều dài chừng mươi thước,  bề cao 4, 5 thước, trông thật bắt mắt vời nét kiều diễm rất ư lộng lẫy! Chẳng biết dòng chữ Hán quảng cáo cho bộ phim nào đó đang được chiếu ở đây, diễn viên hàng đầu Hàn quốc được khán gỉa khắp châu Á mến mộ qua Nàng Dae Jang Kum chăng? Đối diện bên kia, chú Ba mặc  may ô, quần soọc hệt như đang  ở Chợ Lớn xuống xe, khóa ba gác đạp vào  trụ điện bằng sợi giây lòi tói mảnh dẻ -đi bộ vào phía trong,  đi khá xa còn ngoảnh lại nhìn xem chiếc xe còn đó không?

Sao  chú Ba Tàu  này giống hệt thằng tôi năm 1957 ở Sài Gòn quá vậy? chỉ khác tôi khoá chiếc xe đạp cà tàng  mà thôi. Dựng xe đạp vào  cột điện trên vỉa hè đường Nguyễn Trung Trực, đối diện trước mặt Nhà hàng Thanh Thế ( Saigon 1) tôi  đến quán  Kim Sơn -góc Lê Lợi-Nguyễn Trung Trực- chọn bàn sát lề nhìn ra đường,  ,vừa ngồi  xuống đã có người bưng để ly cà phê đến trước mặt.  Uống xong, thả bộ đến  trụ điện lấy xe đạp – bất ngờ có tiếng ai gọi, tôi quay lại - hoá ra thằng bạn khá thân đồn trú ở Lục tỉnh, rủ tôi đi Cần Thơ ngay tối nay. Ấy thế là đi luôn, tôi  chẳng hề bận tâm nghĩ đến chiếc xe đạp liệu có còn, khi về?
Sau ba đêm, bốn ngày thì phải, tôi trở về lững thững đến trụ điện, hé mắt rình, vẫn nhìn thấy chiếc xe đạp khóa ở cột điện như chờ đợi chủ đón.

Loanh quanh thăm vài siêu thị ở Hà Khẩu, vợ chồng tôi  tậu chiếc sắc du lịch loại tốt và chiếc đồng hồ báo thức loại xịn-cũng phải  cảm ơn  cán bộ hướng dẫn mặc cả tới lui bằng tiếng phổ thông mới mua được giá rẻ.

Cảm tưởng sau khi thăm siêu thị Hà Khẩu, tôi nói với vợ, em vào chợ An Đông  giống hệt thôi, được cái mua nhiều gía bán sỉ rẻ nhiều, một tá dù xếp các cô bà thường dùng khỏang trăm ngàn tiền việt..

Đến giờ ăn trưa, chúng tôi tập trung lại đi bộ đến ngôi nhà rất bề thế hai, ba tầng lầu.Trưa nắng chang chang, quạt điện chạy vù vù hỗ trợ máy lạnh vẫn không ngăn được giọt mồ  hôi lăn tăn túa trên mặt khách.  Đa số  người phục vụ là nữ, ăn mặc rất mốt, biểu hiện phong cách riêng nhà hàng. Cũng chẳng biết tên nhà hàng -toàn chữ Hán. Những chiếc bàn tròn giống hệt Chợ Lớn bầy trên mặt bàn có thể xoay quanh đến trước mặt mỗi  đĩa muốn chọn-  thức ăn thì nhiều, trang trí đẹp mắt, lạ  - món cải bẹ xanh sào nấm nước sốt - với tôi ,món ngon nhất- rồi gà nướng Tứ Xuyên, vịt quay Beijing lại được ông bà Đặng và  bạn bè người Hoa  thi nhau gắp. Cả một hội trường ở lầu hai dùng làm phòng ăn được xé lẻ ra ngăn thành  phòng nhỏ  tách biệt phù hợp với số khách.  Gia đình Nimbus chiếm bốn bàn tròn, mỗi bàn  mười thực khách.

Chúng tôi có cảm tưởng như  đang  ăn ở nhà hàng ăn quen thuộc quận năm Chợ Lớn cũng không sai, nếu nữ phục vụ ở đây biết tiếng việt. Từ lầu hai bước xuống đường, tôi ngoái cổ nhìn lên, chỉ thấy có bốn máy điều hòa; vậy làm sao chẳng nóng cho được, một khi thời tiết ngoài trời ở Hà Khẩu ngày  13 /10 là 34 độ C.


Lên xe trở về Yên Bái, đồng hồ chỉ 13 giờ 30 chiều., thời tiết mát dịu, không nóng như trên đất bạn. Anh Năm cho biết, xe chạy nhanh nhất cũng phải năm , sáu tiếng mới tới khách sạn Đồng Tâm. Lần này, tôi được thỏa thích ngắm cảnh thiên nhiên, nhìn từ bên trái, này là  cây bương (một loại nứa, thân lớn,  cao tới 10 thước trở lên  thường dùng làm cột nhà), nứa, giang, tre, vầu chen chúc mọc trên đồi thoai thoải của  miền trung du.

Yên Bái nổi tiếng  với chè Suối Giàng – người Mèo ( nay: Hmông)  hái chè Shan, cây hàng trăm tuổi , có cây lớn  hai người ôm, xum xuê, lá to, xanh thẫm mọc trên núi đá đầu ngọn suối Cửa Nhì, dưới chân núi huyện lỵVăn Chấn - chè mang nhãn hiệu Suối Giàng nổi tiếng độc đáo có một không hai.

Dưới kia là suối, nước trong vắt, nhìn thấy cá lia thia bơi trên cài ( cài: suối có đá sỏi)  nhìn cảnh nuí rừng,  sông suối thì lòng càng háo hức hơn, mong sao đến  sớm  còn đi dạo thăm cảnh cũ ,tất nhiên người xưa thì không còn.  Quả thật hy vọng quá mỏng manh ,bởi chỉ  nhìn cái lắc đầu  lái xe Nguyễn Văn Năm, biết là không thể!

Cô Huyền trao chìa khóa phòng 201 lầu một Đồng Tâm – khách sạn  lớn bốn năm tầng xây dựng trên một triền đồi thoai thoải , phiá trước có vườn- công viên trồng hoa nằm trên đường Yên Bình giáp ba mặt đường. Phía sau Ngô Gia Tự là Bưu điện ,phía  trước đường Đinh Tiên Hoàng dẫn tới Nhà ga Yên Bái, phía trước cũng là quảng trường gần dẫy khu Trung tâm thương mại, Đài Truyền hình… đi năm phút đến ngân hàng, trung tâm văn hóa ,10 phút đến các trạm xe búyt, nhà ga…  thì đúng khách sạn  này  được xếp hạng ở trung tâm là đúng .Thật ra, tôi đã đi đến những nơi đó đâu, chỉ đọc và nói vanh vách theo tờ rơi in đẹp mà thôi.

Tám giờ tối ăn uống xong lên phòng nằm. Giờ này, rủ vợ đi chắc không thích hợp- đề nghị  chỉ một mình ra phố tìm  cho bằng được nhà thương, nơi mẹ  sinh ra tôi vào đêm mưa gío, bão bùng, nước lũ ngập vào nhà thương dăm ba ngày chưa rút kịp. Xuống sảnh trước, lội bộ ra cổng, đèn đường  chiếc tỏ, chiếc lu; cứ ngữ này đi bộ hẳn không mấy bảo đảm an ninh. Dạm hỏi một trong hai anh xe ôm neo trước cổng trên đường Yên Ninh, đường Yên Thái nằm ở khúc nào? Tìm được đường Yên Thái  là tìm thấy nhà thương Yên Bái- tiểu sử trích ngang  đã chẳng ghi: Sinh 1932 ở Yên Bái- Nhà thương Yên Thái sao? Biết hỏi ai bây giờ, tốt nhất là hỏi  xe ôm.

-Này anh,  chạy xe lòng vòng hai tiếng bao nhiêu?
-Ba chục nghìn.
Ngồi lên xe -tôi chỉ đường:
-Đến Bệnh viện Đa khoa Yên Bái trước, rồi  cầu Âu Lâu, sau chót Cà phê Nhân đường Điện Biên.
-Đây có hai bệnh viện, một  Bệnh viện Đa Khoa tỉnh Yên Bái , hai  Bệnh viện Thị xã,  bác đến  chỗ nào?
- Bệnh viện nào nằm trên đường Yên Thái?
-Cháu không  thấy tên đường này, nếu có thay đổi-, khi đó cháu chưa được sinh ra bác ạ.
Nghĩ trong bụng, chắc Nhà thương Yên Bái xưa- tiếp quản trở thành Bệnh viện tỉnh , caserne tây    ở Việt Trì  là doanh trại quân đội,  giống hệt  khách sạn Victory Hôtel (Sài Gòn 3  dành cho nhân viên CIA Mỹ, sau 30 /4/75 - nhân viên KGB  nưóc bạn thoải mái  ngủ nghỉ  - chuyển sang thời  kỳ đổi mới lấy lại tên cũ Victory Hôtel - quán ăn, nhà nghỉ dành cho  khách du lịch  rủng rỉnh xu hào.

Anh chạy vèo trên đường phố như làm xiếc, còn hơn Kiều Liên Sơn chở tôi đêm nào ở Hà Nội , xuống Hoàng Mai thăm Tạ Vũ. Tôi thấy ớn, bảo giảm ga để tôi còn ngắm cảnh đêm.
-Bác ơi, muốn ngắm cảnh đi vào ban ngày, lỡ đi tối thì đèn phải sáng như Hà Nội mới sướng, ở đây đèn đường tù lù mù thế này thì ngắm  cảnh cái nỗi  gì?

 Khi đến Cầu Âu Lâu, anh  hỏi có nghe thấy nước chảy róc rách không-cầu Âu Lâu đấy bác ạ. Thả  tôi xuống đứng trên thành cầu nhìn xa xa,  trời tối như bưng , nhớ đến  bài hát năm 1945:

Đêm tối qua trời tối đen mịt mù/ trông về Nam ( đổi thành: Nghĩa Lộ) ôi biết bao thảm thương - thì ngắm cảnh, tìm đường cái nỗi gì ?

-Anh đưa tôi  trở  lại Bệnh viện Đa Khoa nhé!
 Đến nơi anh xe ôm hỏi  tôi có xuống  không?

 Bước xuống, nhìn vào, một tòa nhà hai tầng, lối xây cất  cũ kỹ chắc  xưa kia chưa  bị bom Mỹ phá hủy, người ra vào  khá đông, kẻ cầm  phích đỏ Trung quốc thăm vợ đẻ, người khác xách túi  đựng thức ăn cho bà xã-đích thị đây là nơi tôi đã đưọc sinh ra ngày 10 tháng 7 năm 1932.  Tôi chụp mấy hình- có một anh xe ôm trẻ tuổi ngồi trên yên xe Honda- mặt láu cá, ăn  nói bậm trợn, tay cầm điếu thuốc cháy dở.

 - Ê mày bắt được khách sộp hả, Hà Nội hay việt kiều Mẽo?
 Phản ứng tự nhiên, để anh xe ôm này chở  vào đại lộ không đèn , thì  quả thực là phiêu!
-Chở tôi về Café Nhân, anh biết  quán này chứ!
- Dạ biết, trên đường anh kể:
- Đại lộ Nguyễn Thái Học lớn nhất, rồi Hoà Bình, tới Điện Biên, ta đi qua cho biết bác nhé. Thế bác là khách thành ủy từ Hà Nội lên?
-Sao biết?
- Sao  không chứ,  khách sạn Đồng Tâm  thành ủy làm kinh tế , sang trọng đẹp nhất thành phố này.
-Sai bét, tôi phó thường dân thôi.
- Cháu không tin , du khách lên đây ở nhà nghỉ đỡ tiền; còn bác thuê phòng  to đùng, tất y bác có  nhiều Bác *  rồi- nói thật  nhé ,cháu không tin đâu?
-Sao không?
-Khách du lịch thăm Yên Bái  ban ngày, còn bác đi đêm chẳng khác gì vi hành.
-Bây giờ làm gì còn  vua  với quan mà vi với hành?
-Ấy cháu xem phim Trung quốc mới suy luận thế thôi.

Khi xe chạy trên đường Điện Biên, tôi bảo xe ôm thả  xuống Cà phê Nhân, và  nửa tiếng sau lại đón .

Vào quán , duy một tôi là khách, gọi  cà phê phin đen, mặc áo sọc đen, qua quãng đường tối đen, số đen chưa biết có tìm đúng  Nhà Thương Yên  Bái nằm trên đường Yên Thái  không đèn  tối đen  như mực  không đây? Dầu vậy, tôi cũng chụp được  vài tấm, và được nhìn thấy nơi tôi sinh ra trước đây 75 năm –lại nhớ đến Nguyễn Khôi, nhà thơ- cựu quan chức thủ đô- cũng được sinh ra ở Yên Bái:

-Bác  và tôi, chúng ta đều được sinh  trưởng ở Yên Bái, bác trước sáu năm- như ông cụ tôi  đoán vận mệnh :  tương lai khá nhờ sinh ra ở Yên Bái, và thành đạt  ở nơi không  phải là Yên  Bái- thực hư chưa biết  có điều về thăm Yên Bái lần này vào ban đêm, và nhớ lại tôi được sinh ra ban ngày.
----
* giấy bạc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, in hình Chủ tịch Hồ Chí Minh - mặt trước.
 Và, Tố Hữu cũng có câu: Bác ở đó lòng con yên tĩnh.



                      SÁU : YÊN BÁI- ĐỀN HÙNG-PHÚ THỌ- HÀ NỘI .


 Lên xe ca rời Yên Bái, hướng dẫn viên thuyết minh chương trình  trong ngày:  thăm Đền Hùng-Phú Thọ, cơm trưa Việt Trì, đến thủ đô  sớm viếng Nhà sàn Bác,  chùa Một Cột, Trấn Quốc- cơm chiều: ăn bánh tôm Cổ Ngư, tối ngả lưng  khách sạn Phùng Hưng-Đường Thành.

 Vậy là khách sạn Phùng Hưng nằm trên phố Đường Thành (xưa kia : Rue Citadelle) thuận tiện hơn cả Volga- đây mới đúng trung tâm phố cổ, chỉ cần đi bộ dăm bước sang  phố Hàng Bát Đàn ăn phở gia truyền nổi tiếng ngon -mà chủ  hiệu lại  coi thường khách- qua phố Hàng Điếu mua bột sắn dây hảo hạng  nhà tổ trưởng số 4, thêm dăm bước nữa đến số 10 thăm cô Ninh, em gái Kiều Liên Sơn. Năm 1994, Kiều đưa tôi đến đây, lúc cô đang quấn khăn  đại tang chồng, khóc lóc sướt mướt, tưởng như  chồng qua đời thì tương lai mẹ con cũng chết theo !

Hà Nội chưa có nhiều nhà cao tầng chọc trời như bây giờ- hình như  tôi chỉ nhìn thấy hai toà  nhà to đùng,  một cái  trụ sở Ủy ban  thành phố, cái kia xây theo kiểu lô cốt cuối phố Đinh Tiên Hoàng, cạnh dốc lên Hàng Đào- xe ô tô ít hơn xe gắn máy, và xe gắn máy lại rất ít so với xe đạp, nhiều nhất xe xích lô đạp, thấy khách lạ là gọi í ới mời lên xe dạo phố phường .Chú Hai ở Sài Gòn mới ra ư, nếu thích tươi mát  có tươi mát, thích cà phê ôm có ngay phục vụ, chú muốn gì có thứ đó tất tần tật - nhưng với điều  kiện cần và đủ đầu tiên-  là tiền đâu lại nhiều mới đạt tới đỉnh cao sảng khoái.

 Lần đầu được nghe anh xích lô trạc ba mươi ngoài ,để ria mép, ăn nói liến thoắng, tí ti láu cá, tí ti manh mún, tí ti sành đời, tí  ti trình độ, tí ti dạy đời , tí ti khoa trương… lại có tí ti a-mua, tí ti la hen kiểu Trần Dần - trước kia chàng này kiêu ngạo vung vít  phê thơ Việt Bắc   kết cuộc chẳng ăn giải rút gì, chỉ  rước bại hoại theo sau . (un peu: tí ti- l’amour: tình yêu- la haine: thù hận-  tiếng tây).

Giả  thiết thôi nhé , chàng xích lô ba hoa  này gặp tổng biên tập Nguyễn Ngọc Lan tạp chí Đứng Dậy sớm hơn,  hồi đất nước mới thống nhất, anh ta sẽ giúp tác giả  khỏi mất chức ,vẫn có thiên phóng sự người thật việc thật  về Hà Nội khoảng cuối  75 ,đầu 76.

Thời đó,  ba bố con tôi đi Đà Lạt thăm ngoại, mừng húm có Giấy đi đường , ra đường ngủ vật vờ tại bến đậu Lê Hồng Phong, chờ số thứ tự mua vé – có một vị khách Tân gia ba đọc cho nghe:

-Chú Hai ơi,  biết vua Hùng Vương là ai không nhỉ? Vua Hùng  sống lại về Phong Châu cũng giống con cháu bây giờ  thôi, đi đường phải được  ủy ban  cấp phép. Chẳng biết kẻ sĩ nhát gan nào giấu mặt tỉ tê ngâm nga  :

- Hùng Vương tựa gốc bồ đề/ Chờ xin giấy phép để về Phong châu/Trời mây ảm đạm một mầu…  (còn  ba câu sau quên tịt).

 Lúc đó nhà báo cỡ tổng Lan, mới được đi đây đi đó bằng máy bay ,cùng phái đoàn miền Nam ra tham quan thủ đô  là số một. Trong lúc mọi quan chức ăn , ngủ, họp hành theo lệnh trưởng đoàn – thì  cựu linh mục Dòng Chúa Cứu Thế ,vốn có máu dân chủ truyền thống phương tây, thích làm  theo ý riêng- tách đoàn lẻn vào chợ Đồng Xuân-Bắc Qua -  thăm dân cho biết sự tình . Về lại Sài Gòn viết  ngay cái gì nhìn thấy tận mắt, nghe được tận tai , hiểu, cảm được từ bộ óc bén nhậy - cộng thêm suy nghĩ riêng  đều viết ra giấy trắng mực đen công bố  huỵch toẹt. Bài phóng sự  tổng biên tập  Đứng  Dậy chỉ  sống được được vài hôm, dư luận xôn sao , bàn tán ồn ào  - sếp  quân quản ban  lệnh  hạ ngay  bảng hiệu  :- cất chức tổng biên tập Nguyễn Ngọc Lan báo Đứng Dậy tức thời, chuyển sang làm thinh ở báo Ngồi Xuống - tout de suite! (ngay lập tức).

Có một sáng qua hẻm Tân Phước, tôi lại  bắt gặp  lão niên tóc đen nhánh, thân gầy xác ve, quần áo chỉnh tề, đôi mắt tinh anh dưới  cặp kính cận chăm chú đọc báo, bút đỏ gạch dọc ngang, đôi  lúc đứng dậy  đi qua đi lại,  khi thì lại gần lồng sắt châm  lúa vào hộc cho hai con két [vẹt] biết nói tiếng người.

Rủ đi  café  sẵn sàng leo lên ngồi , thân dáng cò bay  nhẹ tênh- đôi khi tôi nghi ngờ, ngoái cổ lại nhìn- cảm ơn Chúa – chàng vẫn còn đấy, hai tay nắm càng xe rất vững an.

Có một lần đi cùng Ý Nhi , Hoàng Vũ Đông Sơn, Nguyễn QuốcThái  đến viếng mẹ vợ lão niên qua đời. Thâm tâm có mục đích hoà giải sự bất đồng giữa X…,biên tập viên cũ -  thì tổng Lan bắt tay  X… hờ hững , giữ vững quan điểm kẻ hại ta không thể người ngoài- và nhắc khéo tôi: -lần sau ông đến,  xin đừng cho X… bám. Trước khi nhắm mắt , vẫn không quên dặn vợ con:  Hãy đóng nắp quan tài lại, khi nhìn thấy mặt  X…  .

Có một buổi tối năm 2000, chàng lại  ngồi  phía sau xe ôm chặt lấy tôi  tôi  phóng vù vù  quanh kênh Nhiêu Lộc từ quận một ( nhà tôi) qua  quận ba , sang quận Phú Nhuận lẻn vào ngõ sau , mắt la mày lét như  kẻ trộm sợ  ai  theo. Đưa tay  thọc ô vuông cửa sắt ,gạt chốt cửa , đi vào quen thuộc hệt chủ  nhà . Gặp Thực, cậu trao ngay một bó sách đâu chừng mười  cuốn Chủ nhật hồng  trong mùa tím, tác giả ôm vào nách thoát cửa sau  Hội thánh Báp Tít Ân điển- ra đường hẻm. Chẳng  có ai  theo phía sau, chàng cười thật tươi:

 - Ông ơi, con trai mục sư  Lê quốc Chánh can đảm có thừa , dám nhận in  thuê hàng nghìn cuốn mang danh nghĩa NXB Tin  Paris. Ông nhắn cậu  con ông mục sư  chở thẳng về  địa chỉ … Tân Phước, có gì tôi chịu trách nhiệm. Sách mình  viết  về tôn giáo, xã hội,  không phạm qui, chẳng có gì  mà sợ! Sách đẹp như in offset ,chỉ dân  trong nghề cầm sách lên  ngửi  mùi dầu hôi mới  phát hiện in lụa thôi.

Và một  đêm sau cùng-  cuối tháng 2/2007 - đôi mắt  tinh anh khép lại,  tiếng nói hào sảng tắt hơi, Chúa giơ đôi tay bồng ẵm tôi tớ Ngài về chốn vĩnh hằng.  Một rừng  bè bạn, kẻ yêu, người ghét, kẻ bạn, người thù , kẻ  buồn thật lòng, kẻ lau nước mắt cá sấu- có vị khóc kẻ qua đời đâu đó dăm bẩy   câu, kể lể  bản thân thì  dài dằng dặc rễ  rau muống!

 - Ngày mai đưa tang, anh có đi tiễn anh Lan không? Hôm ấy cha Ý Vinh Sơn sẽ đọc điếu tang đấy.

Cô Nguyễn Thị Chiên ( cựu nhân viên  báo Đứng Dậy) nói vậy. Quay lại nhìn, mắt cô đỏ hoe, đầu  chít khăn tang,  tôi nhận mảnh giấy trắng có bốn câu :
                                                
                                                 Một mai đến tận đường cùng
                                                 Hỏi chiều sương xuống hỏi sương hỏi chiều
                                                 Bao nhiêu lòng kể là nhiều
                                                Thập hình ngả bóng càng chiều càng xa
                                                             NGUYỄN NGỌC LAN

Sắp tới Đền Hùng, nhìn trước mặt có bảng chỉ dẫn- Khu Công nghiệp Thủy VânViệt Trì 1 km -chạy thẳng Đền Hùng còn 4 km nữa. Nhà cửa xây san sát ba bốn tấm trở lên, nóc nhà nào cũng  chóp, xe cộ đủ loại, container,  xe tải, xe con, xe khách 45 chỗ, xe chở hàng – nhìn là biết đời sống   cao lên, dân thị xã sống sung túc.

Lần đầu tiên đến thăm Đền Hùng, dầu nguyên quán Việt Trì- thủ phủ tỉnh Phú Thọ thật, nhưng từ xưa đến nay,tôi chưa một lần  biết đền vua Hùng ở chỗ nào. Thời còn nhỏ, theo ba đi tàu hỏa từ Việt Trì  lên Trường Tiểu học Động Lâm- đến ga Thanh Ba hay Đoan Thượng , tôi không còn nhớ rõ - thì xuống .

 Một đoạn dĩ vãng tuổi thơ sống lại khoảng thời gian 1942, 43 gì đó, buổi chiều xếp hàng vào lớp học là y như tiếng động cơ  ầm ầm rền vang trên bầu trời, lại máy bay Mỹ thả bom doanh trại lính Nhật bản. Chúng tôi được lệnh của thầy tổng giám thị nhảy xuống  tăng xê trú ẩn (tranchée- abri) nấp, máy bay đi khỏi ,xếp hàng lại, quần áo lấm lem đầy cát, miệng  vẫn ong ỏng Maréchal , nous voilà !,  cứ làm như là thông chế Philippe Pétain đội nón kê-pi (képi)  đứng lừng lững  trước mặt , lấy tay xoa đầu khuyên họs sinh an nam ngoan ngoãn  học hành. Tôi vốn nghịch ngợm- sau  mỗi  câu Maréchal nous voilà !, tôi nối điệu mais nous ne mangeons pas caca. Bạn học cười ồ, tổng giám thị chạy lại tra hỏi, cậu nào nói gì, ra khỏi hàng được giảm khinh nhiều lắm  chỉ  ăn vài chục tay thước thôi- nếu không tự thú thầy hiệu trưởng  khám phá ra, tội này có thể bị bắn bỏ, vì đã hỗn xược với đại thống chế.

 Tự tin con  thầy hiệu trưởng  thì sẽ không sao, tôi giơ tay ra khỏi hàng, sau đó bị  nằm trên băng ghế dài, mỗi lần tay thước đét vào mông, không dám kêu con đau quá, mà chỉ cắn răng chứ không dám  hít hà – về nhà có thể bị trận đòn thứ hai không chừng!

Khi ấy, ba tôi thuê căn phòng nhỏ gần trường, hai bố con đi chợ nấu ăn lấy. Còn nhớ như in, ông nấu cơm rất ngon, hột cơm chín không được phép nát quá, không khô quá, gọi  cơm con  ong trộn mắm tôm rang với thịt ba chỉ- thì chẳng còn gì ngon hơn nữa!

Có một  lần đang ăn cơm nghe thấy tiếng máy bay Đồng  minh , lại nhẩy xuống tăng xê trú ẩn, tay đang cấm miếng cơm cháy óng ánh vàng phết mắm tôm, cứ cho bom rơi trúng hầm chết chẳng có gì tiếc!  Ba tôi kể, lính Phù tang rất ghét cơm cháy ,thì nhất định chúng chẳng biết gì nghệ thuật ăn uống cả, làm sao thuyết Đại đồng Phát xít Nhật làm bá chủ Đại Đông Á được!  Rồi ông cười thật ròn,  nụ cười hiếm hoi thấy nơi ông- với tôi, ông  lại càng nghiêm khắc và tần tiện từng nụ cười , lời ăn, tiếng nói. Mỗi lần ông đưa tờ năm cent tiền giấy- có ảnh bà đầm xòe mua thuốc lá , mấy phong bánh đậu xanh, không cần nói ra lời, ông  chỉ lấy hai ngón tay đưa lên miệng, sau giơ tay lên như đang cầm chung trà- là biết  ngay ông sai đi  mua thuốc là đen hiệu Job cùng năm phong bánh đậu xanh.  Phải chọn bao thuốc lá nào thẳng thớm, không méo mó,  bánh đậu phải lấy nguyên phong ; rồi bẻ đôi lấy một nửa, năm cái. Thường ra, mỗi lần như thế, ông cho tôi một phong, miệng nuốt nước bọt thèm thuồng bóc ra cho vào miệng, sao ngon đến vậy- nhưng không hiểu sao tôi lại đem cất để dành.

Và một buổi tối chiều mưa, ăn cơm xong, ông ước ao giá có phong bánh đậu xanh tráng miệng thì tuyệt!

  Tôi vào bếp mở tủ lấy phong bánh đậu  ông cho bữa nọ, đem ra đưa hai tay với lời thưa :
-Thưa ba ,con không thích  ăn bánh đậu xanh cho lắm, con xin biếu ba, mong ba nhận cho con vui!.

Lúc đó, giản dị lấy lòng bố sẽ đỡ phải ăn đòn hơn, vì ông đánh ,có trận thừa sống thiếu chết, nhẹ thì được nằm lên băng ghế dài ăn hàng chục chiếc roi mây, sau đó cho phép đứng dậy, xin lỗi ba với lời hứa không tái phạm.


Mỗi lần trở về nông trại Làng Bữu, mẹ hỏi có bị ba cho ăn đòn không, tôi vẫn lắc đầu xác nhận không- dạo này ba thưong con lắm!.

Có một lần , thầy giáo X… ( tôi quên tên)  ở xã Hiền Lương xin hoán chuyển về trường Động Lâm và ba tôi  lên trên đó xem trường ốc ra sao, dặn tôi trông nhà cẩn thận, không được đi  đâu, ai hỏi không mở cửa, ở trong nhà hỏi vọng ra, phải lễ phép xin ghi lại  phương danh khách đến  giờ nào, ngày nào, lý do đến, rồi về trình lại.

Trời mưa như trút,  gần tối vẫn chưa thấy ba về, vừa sốt ruột vừa sợ, tôi đành liều khóa cửa đi tìm.  Gần đến trường Hiền Lươn, có một chiếc cầu khỉ ,chỉ có một cây gỗ bắc ngang, dưới kia nước chảy xiết- tôi đành liều bò qua, hai tay truớc bám vào cây cầu, hai chân sau nhích từng bước hệt chú chó - nhờ ánh sáng lễ hội trống chiêng từ Đền Mẫu Âu Cơ gần đó. Qua được cầu, đưa tay lau mồ hôi giỏ giọt trên trán, vì quá sợ hãi- chẳng hiểu ba tôi đang ngồi dự tiệc nhìn thấy. Ông gọi vào, chẳng hỏi han gì, giáng mấy cái tát nổ đom đóm mắt. Tôi đỡ đòn ôm mặt, không dám khóc. Và lòng đầy căm giận.  Ba tôi lại trở lại bàn dự tiệc tiếp các bô lão chức sắc trong đền-  hàng năm sau tết ta vào ngày mồng bẩy giêng- xã Hiền Lương  gióng chuông trống, mổ  lợn gà, đãi tiệc thật lớn, kỷ niệm Mẫu Âu Cơ đưa 50 con trai lên rừng, còn  lang quân   50 xuống biển.

 Lợi dụng  thời cơ, tôi  lẻn ra bến đò huyện Hạ Hoà xuôi Làng Vần- huyện Trấn Yên-Yên Bái, rồi qua Đại Lịch  về nông trại Làng Bữu.  Chỉ nghĩ được gặp lại mẹ , tôi bất chấp gian nguy dọc đường, dầu  hổ báo vẫn thường xuất hiện cũng mặc, tôi đem theo  mấy nhánh tỏi soa vào  mũi thì cọp sẽ không thể ngửi thấy hơi người, tự nhiên có sức mạnh lạ kỳ. Giả thiết lần này về  nhà bình an, tôi sẽ  xin mẹ  cho ở nhà không theo ba nữa.
Vừa bước xuống bến, có người nắm cổ  áo giật  ngược , tôi quay lại , thì ra là ba.  Giật tay ông, định tháo chạy, không kịp nữa – tôi đang chắc mẩm thế nào tối nay sẽ được ăn trận đòn thừa sống chí chết đây- nhưng ông nói rất dịu dàng:

-Ba xin lỗi để con ở nhà một mình, trời mưa gió như thế này con sợ là phải. Thôi ta về, ba sẽ không đánh con đâu, đừng sợ.

Đó là kỷ niệm cuối cùng với ba- một lần duy nhất ông có lời nói nhẹ nhàng, vuốt đầu con, ôm chặt vào lòng nựng nịu của đêm nào mưa gió  ở xã Hiền Lương, huyện Hạ Hoà- Phú Thọ.

Vào năm 1946, một buổi chiều nghe tin đoàn quân Pháp sắp tràn về xã Thượng  Bằng La , rút sang Vân Nam – chiến dịch vườn không nhà trống , dân chúng tản cư, người chạy vào rừng, kẻ theo  đường mòn  ra xã Đại  lịch, Làng Vần –Trấn Yên trốn chạy. Và từ ngày đó ba tôi bị cầm giữ,  người ta sợ  ông giáo Đỗ Văn Đức làm thông ngôn cho quân viễn chinh Pháp chăng?

Tôi chụp rất nhiều ảnh Khu di tích Đền Hùng, Bảo tàng Hùng Vương- chúng  tôi và bà già trầu Nam Bộ đi loanh quanh trong khu vườn cây cối um tùm, màu xanh mướt vài khóm cọ mới trồng – và Phú Thọ vốn nổi tiếng nhiều đồi cọ - dân trung châu Phú Thọ, Yên Bái thường dùng lá cọ lợp nhà, lá cọ cuốn dầy hơn lá cọ sẻ, lợp mái nhà cọ cuốn có thể  trụ được dăm mùa mưa mới phải lợp lại.


Nông trại gia đình tôi ở Làng Bữu, như đã nói, có đồi cọ cao vút  mười mấy thước, chim  yểng về làm tổ hót líu lo mỗi chiều  đất lành chim đậu. Cho đến một buổi sáng đầu xuân, chúng bay đi, chiếu không về lại tổ - giữa năm ấy cuộc kháng chiến bùng nổ. Và chủ, tớ, vợ, chồng, con cái  thất lạc nhau trên đường trốn chạy, phong trào tiêu hủy kháng chiến, chấp hành  nghiêm ngặt  lệnh  nhà bỏ trống, vườn không. 
Và lần này, chúng tôi về lại Đền Hùng thật thoải mái, tự do, đến không cần báo, đi  chẳng ai hay, không còn nạn  giấy phép trước, đi đường sau- nên thông cảm thời khó khăn, đến đỗi dân gian râm ran câu vè phúng thích ,đến như vua Hùng về Phong châu không phép cũng bị đuổi về .

Bữa cơm trưa tại nhà hàng Lồng Đỏ- 2195 đường Hùng Vương- đại lộ thênh thang của Khu Công nghiệp Thủy Vân-Việt Trì- thật vừa miệng.  Số nhà mang bốn hàng số, tôi ghi đủ-chỉ chứng tỏ trục lộ  không nhữngdài tăm tắp, hai làn đường rộng  mênh mông chiều ngang mấy chục thươc, khác xa  đường cách mạng thêng thang tám thước-nay đã lỗi thời.  Xe hơi nối đuôi nhau chạy khiến người muốn băng qua đường vất vả hết  nhìn xuôi, lại nhìn ngược, đôi mắt láo liên canh chừng  tìm khoảng cách an toàn tối thiểu bảo đảm sinh mạng khỏi què, cụt, có khi mất mạng như chơi.  Còn ngước mắt nhìn lên, phải rướn mỏi cổ chưa thấy tầng chót  lâu đài khách sạn - cảm tưởng hệt anh nhà quê lần đầu ra phố được  mô tả trong truyện  La Lettre Persanne.

Và cô Thảo của cháu  ơi, cháu  đã về nguyên quán, hệt  như tên mất gốc, bật rễ chẳng tìm thấy nhà ông bà nội –  vì Việt Trì hoàn toàn đổi mới, với cháu - một  thành phố  rất ư xa lạ !
 Cô Thảo của cháu ơi, cháu định viết một  lá thư ngỏ gửi kèm cùng những tấm ảnh chụp khu Công nghiệp Thủy Vâ n Việt Trì-Phú Thọ, gửi bà Đỗ Thị Thảo hiện đang sống vật vờ trong khu nursing home nào đó ở Vancouver. Chồng bà qua đời, bốn trai, một gái ( ba trai thành đạt, hai kiến trúc sư, một thạc sĩ khoa học, trai út  công nhân , gái  bị tâm thần nhẹ-nghề: baby-sit. Còn  trưởng nam sang Hoa Kỳ  trước 75, có 3 căn  nhà cho thuê dài hạn- dành một phòng cho bố mẹ từ Việt Nam qua, đầu tháng  không quên thâu tiền trọ 400 đô la/ tháng. Bà cụ ấy  nay sống thui thủi nơi trại dưỡng lão, không  con cái thăm nom – ai hỏi , chỉ lắc đầu: -tôi vốn dĩ  tứ cố vô thân, sang Mỹ theo chương trình nhân đạo, chồng qua đời , con cái thì không, chẳng họ hàng thân thích , nào có còn ai đâu mà nương với tựa?”

-Anh Năm ơi, xe sắp qua ranh giới Việt Trì phải không ? Cảm ơn thật nhiều!
Chẳng hiểu tại sao tôi cảm ơn, và cảm ơn ai- cảm ơn cái gì - tại sao cảm ơn ?  chẳng ai hiểu kể cả bác tài. (lẽ đương nhiên như vậy rồi!)

14 giờ 15 đến thủ đô.
Nắng còn gắt giữa một chiều rực rỡ.

Chụp một bức ảnh thứ hai toàn đoàn trước Lăng Bác - một phó nháy lém lỉnh, láu cá  bậc thượng thừa, chốp thời cơ thỏa thuận rất nhanh với hướng dẫn viên thực hiện  bài bản chớp nhoáng. Tất cả anh chị em ,cô bác  tập trung tại đây xếp hai hàng, cô bác nhiều tuổi  đứng sau, các vị trẻ tuổi hoặc già gân ngồi hàng trước.  Đứng hay ngồi xin cô , bác, ông, bà, anh chị luôn luôn ở tư thế vui vẻ,  đời người  chẳng ai  tắm hai lần trên cùng một dòng sông, vậy quí vị đây sẽ chẳng bao giờ được chụp tấm ảnh thứ hai đông đủ , vui vẻ, hào hứng như buổi chiều ngày 13/ 10 trước lăng Chủ  tịch.

 Còn chương trình vào thăm Lăng không thực hiện được, lăng đang  trong thời kỳ tu sửa. Chúng ta  khẩn trương thật nhanh để còn có thời giờ thăm Phủ Chủ tịch, xin nhớ cho-- tự thân đến đây không có cơ hội thăm riêng lẻ - chỉ phái đoàn hoặc đoàn du lịch mới được chấp thuận đăng ký thăm mà thôi.

Chúng tôi  ngồi ăn kem căng tin  khu Nhà sàn Bác Hồ, đã nhìn thấy thợ ảnh có mặt , tay cầm một lô  phóng ảnh  huơ huơ, miệng  giẻo quẹo :

- Mời cô bác, anh chị  nhận  phóng ảnh 13x18 thật đẹp, tấm ảnh lịch sử có một không hai , một  lần đến thăm thủ đô  và một lần về đem theo  tấm ảnh kỷ niệm  đã đặt chân lên thủ đô đúng  lần thứ 52 Hà Nội được giải phóng. Cô bác nhanh tay lên, số phóng ảnh được in ra có hạn.
Vừa cầm ly kem vừa chạy tới, tôi  xoè tiền ra chốp ngay một tấm. Ảnh chụp rất nét, mọi người vui vẻ, trừ  hướng dẫn viên Tua đứng hàng đầu góc  bên trái  không cười. Chẳng biết có phải cô vợ  rất là Bắc Kỳ nho nhỏ ,đang bế con nghe di động, sao giờ này chưa thấy phu quân về hoan hỉ với vợ cùng con ?

Ăn bánh tôm Cổ Ngư phía bên hồ Trúc Bạch, nơi  hoa tiêu John Mc Cain lái B 52  rơi xuống hồ , ai tinh ý vẫn nhìn  thấy tấm bia lưu niệm  giặc lái  Mỹ đầu tiên rơi xuống đây vào… ngày.. giờ, tháng… năm…

 Phi công  sinh năm 1935, nếu ông ta  ứng cử tổng thống Mỹ khóa tới, có khi lại trúng cử với mác  phi công Mỹ đầu tiên, được ngơi nghỉ an dưỡng tại Khách sạn Hilton Hà Nội, biết đâu dân Hoa Kỳ  nhớ tới hội chứng chiến tranh Việt Nam lại dồn phiếu không chừng? (Khách sạn Hilton:  Nhà Tù Hoả Lò  nơi giam tù binh chiến tranh}

Di dộng reo, Nguyễn Đăng Khải hẹn thết bánh tôm tối nay trên  đường Thanh niên, có cả vợ chồng Kiều Liên Sơn, Cao Bá Ân, Nguyễn Gia Vinh. Nhớ đúng năm giờ chiều tại quán, đến trước ngồi vào bàn  đợi chúng tao. Tao ban lệnh ,đứa nào không đem vợ theo không được ăn bánh tôm Cổ Ngư cùng vợ chồngTường đâu nhé. Thằng Dzư hẹn cô giáoThái ( vợ nó trùng tên vợ tao) bữa nay thằng Khải thết, em đến dự cho biết mặt vợ Thế Phong.

Tôi nói với vợ, chúng ta đành từ chối thôi, chẳng lẽ ăn bánh tôm Cổ Ngư rồi lại ăn nữa được sao?

 và Khải hẹn sẽ gặp lại ở khách sạn Phùng Hưng sau tám giờ tối.

 Hướng dẫn viên  mời đoàn du lịch sang thăm chùa Trấn Quốc. Với tôi, bây giờ chùa đã có bộ mặt khác sau mười hai năm trước - giờ đây nhìn thấy một tháp cao ngất ngưởng  mới xây ,đếm được mười một tầng – mấy cây cọ gần đó cao vút, nhìn từ ngọn cũng chỉ ngang tầng thứ tám – vậy ra  cây cọ lão niên còn thấp hơn đến bốn tầng so tháp mới. Tất nhiên tháp mới này hấp dẫn  mấy cặp tây đầm, họ đang  chen chúc đứng trước tháp chụp ảnh, chúng tôi chờ mãi mới tới lượt bấm lia lịa vài ,  vì phía sau còn lô nhô vô số khách chờ. Vậy ra  hoà thượng trụ trì viên tịch  chùa này được sùng bái đến phát khiếp!

Vợ  hỏi, vậy Petit Đồ Sơn xưa  đâu? Là  nhà hàng nổi to đùng dập dềnh trên sông nước đầy ắp thực khách đấy thôi, tôi lấy tay chỉ về hướng đó. Xa xa hơn còn mấy tòa lâu đài khách sạn năm sao mới xây trên dốc Cổ Ngư  nằm trên hành lang đê Yên Phụ, vợ tôi nhìn theo khen hoành tráng vô cùng!

 Trở về khách sạn Phùng Hưng nhận phòng, cô Huyền sắp  chúng tôi ở lầu hai-  tắm xong leo lên giường nằm, thiu thiu ngủ thật khoan khoái- bỗng chuông điện thoại bàn reo- tiếp tân báo phòng 201 có khách đợi  dưới nhà.


Chắc chắn  vợ chồng Khải- Thái, Ân, Vinh, vợ chồng Dzư (Kiều Liên Sơn) rồi.  Hụt thết bữa bánh tôm, thiếu vợ chồng Dzư – lại có thêm Nguyễn Khôi –Ngã tư Vọng.
 Chị Thái giở gói cốm vòng, nải chuối  tiêu vỏ lốm đốm, chuối này ở Hà Nội không có, vậy có ai nhận ra xuất xứ không?

 Vợ tôi sống ở Đà Lạt khá lâu, nên  chẳng lạ gì  chuối dẻo quánh, đem đi xa không dễ bị  dập, để vài ngày thời tiết nóng chuối vẫn không bị nẳng.

 Còn vợ chồng Dzư-Thái, ( vợ Kiều Liên Sơn  cũng tên Thái, trùng tên vợ Khải) thì Khải giải thích, nó lấy cớ  xóm Xuân Phương đi về trên hai chục cây số, ăn bát cháo lội ba  cánh đồng, xin kiếu-  lần sau vợ chồng Tường ra Hà Nội chơi, gặp lại chúng nó, thì đã chết thằng tây, con đầm xoè nào đâu mà sợ ? Khải có lối nói dễ xa nhau, nếu không hiểu bản tính bộc trực, nghĩ sao, nói vậy của Khải bạn bè chấp nhất dễ giận lẩy.

Trò chuyện hồi lâu, chụp ảnh lưu niệm xong, một số các cô trong đoàn  cùng  thưởng thức cốm vòng  ngon, dẻo, bùi. Còn  hướng dẫn viênTua ngồi thừ  một góc, vừa nhai cốm vừa thở ngắn  , than  dài, chẳng  biết có đúng đang nhớ cô bắc kỳ vợ nho nhỏ, hay  nổ chơi cho khách đỡ buồn ngủ trên xe? Giữa lúc đó, con  gái Cao Bá Ân từ Định Công lên đón bố, vậy thì cuộc vui giải tán cũng  vừa rồi  – đám bạn học cũ gặp lại nhau, đứa tóc bạc, đứa da mồi, buồn buồn, tủi tủi, xiết tay nhau thật chặt sau 56 năm dâu bể biến thiên- vẫn hy vọng đây không  là buổi gặp gỡ  cuối.

-Chúc vợ chồng Tường sáng mai lên xứ Lạng vững an!
  Khải nói xong  dắt vợ lên tắc xi.
__

*  tân: mới /  gia: nhà / ba: ba mươi tháng tư.  Trước 75,  miền Nam  phiên âm  Singapore sang  tiếng việt làTân Gia Ba, Indonésia: Nam Dương , Malaysia: Mã Lai, Indonesia: Nam Dương , Skri Lanca: Tích Lan, Afganistan: A phú hãn vv…


          
                    BẢY: HÀ NỘI-LẠNG SƠN : NGỌN NÚI CHUNG THỦY



Xe qua cầu Chuơng Dương, hướng dẫn viên cho biết, hôm nay đã là ngày thứ mười một chuyến xuyên việt, gia đình Nimbus đến Lạng Sơn: trưa, tối, ăn ngủ ở Nhà hàng Đông Kinh, 2..đường Nguyễn Du.

 Thay vì tham quan Núi Mặt Qủy, Ải Chi Lăng, chúng  ta  đến thăm chợ Tân Thanh biên giới, một chợ đầu mối lớn nhất tuồn hàng từ nước bạn về  Lạng Sơn. Đề nghị cô bác, anh chị một việc  cỏn con thôi,  mọi thứ hàng chỉ nên mua một cái; giả thử trên đường bị kiểm tra đột xuất- điều này ít xảy ra- thuế vụ thấy quí vị mua thứ hàng nào có hai cái trở lên sẽ bị tịch thu hoặc đóng phạt nhận hàng.

Nào ai đi ngược về xuôi, đến Lạng Sơn- không đặt chân  đến Trung tâm Thương mại Du lịch Lạng Sơn- thì coi như trăm phần trăm chưa biết  gì Ngọn Núi Chung  Thủy- xin nhớ đây cách giải nghĩa hai chữ Lạng Sơn  cuả một ông tây  nhà báo từ thập niên ba mươi đấy quí vị ạ.

Tua có tài vặt, nói  lưu loát hấp dẫn người nghe, tán tụng quốc lộ 1A đi Lạng Sơn láng coóng như giải lụa thắt lưng tiên nữ mượt mà – cô bác, anh chị ngồi trên xe không hề bị nhồi lên giập xuống- như xe lăn bánh gập ghềnh đường biên giới Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ.

Vợ tôi nôn nóng mong chờ được về thăm nơi đã sinh ra cách đây 69 năm- khi ông giáo Nguyễn Quốc Bảo dạy học Thất Khê,  bên sông Kỳ Cùng ( một trong hai dòng sông không đổ ra biển chảy ngược về hướng bắc) huyện giáp gianh tỉnh Cao Bằng.


Qua Bắc Ninh- di dộng reo, chị Hoàng Lương Thái ( vợ Kiều Liên Sơn) trách móc vợ chồng anh Khải  mời ăn bánh tôm thết bạn học cũ hủy bỏ- quả tình chúng em có  giận bác Khải thật. Hôm qua,  nhà em nằng nặc bắt em nghỉ ,sẽ dạy bù  học trò ngày khác, ăn sáng xong chúng em  ở nhà luôn, không nấu cơm trưa đợi đến bốn giờ chiều ăn bánh tôm Cổ Ngư khoái khẩu, vì đã từ lâu  chúng em không bén mảng tới nơi này.  Gần bốn giờ chiều, bác Khải điện tới báo hủy, vì hai bác vừa  ăn bánh tôm ở đây, hẹn lần sau hai bác về Hà Nội  sẽ đi ăn cũng chưa muộn, và lại  hẹn tám giờ tối thế nào vợ chồng em  cũng phải có mặt ở khách sạn Phùng Hưng – Đường Thành .Em bực mình đã đành, thôi không nấu nướng  gì cả, tối  chẳng hẹn hò  gặp gỡ ai làm gì, em lên giường ngủ. Cháu Trung kêu đói, thế là bố nó phải  lăn lưng vào bếp nấu cơm ,mãi đến chín giờ đêm mới ngồi vào mâm.  Em thật tiếc không được gặp chị , lần sau  hai bác ra Hà Nội nhớ báo cho nhà em biết, mời hai bác đến ăn bữa cơm  rau ở xóm 4 Xuân Phương.  Nhà em đi từ sáng sớm, mấy hội thơ trong xóm mời bình thơ. Thôi em  cúp máy đây, chúc hai bác thượng lộ bình an.

 Bây giờ tôi mới hiểu hết đầu đuôi câu chuyện tối qua vợ chồng Kiều Liên Sơn thất hẹn.

Qua Bắc Ninh một chập tới Bắc Giang, rồi Kép- chẳng mấy lúc tới Đồng Mô  bắt đầu vào ranh giới Lạng Sơn.  Đa số khách ngủ  vùi lấy sức, có thể  tối qua đi chơi  khuya – riêng việt kiều Đức thì tôi chưa thấy anh ngủ trên xe bao giờ, anh lăng xăng chạy từ  hàng ghế cuối lên chỗ tôi lấy lại tấm bản đồ, vui vẻ hỏi  vợ tôi cần  rượu ngâm mật gấu, cứ cho biết , sẽ có ngay.  Đức luôn luôn mang rượu theo, có khi cầm chai whisky Polignac nhỏ xíu tu một hơi, lấy tay quệt miệng thản nhiên.Thường ra đến các nơi dừng chân, Đức tổ chức  bàn rượu, đôi ba bợm  nhâm nhi vừa trò chuyện rôm rả.  Lần nói chuyện đầu tiên khá lâu  với Đức, hỏi tôi có biết nhà văn Mai Thảo không-  lần qua Cali - Đức uống rượu tay đôi- thằng Mai Thảo tửu lượng đáng nể; còn Nguyên Sa chỉ uống Coke- riêng Hoàng Anh Tuấn nốc vài lon bia ,phét lác thành thần.  Được cái thằng Tuấn rất đáng yêu, mỗi khi nói chuyện  với nó, cái đầu nghiêng nghiêng, đôi mắt hiêng hiếng- bố mẹ cho sang tây học điện ảnh nửa chứng bỏ dở,và chỉ được cái đạo diễn mồm giỏi  là giỏi, thơ phú chẳng học ai lại hay ra phết! Tuấn cầm tinh con  khẹc, ( khỉ) hay rung cây nhát khỉ-thằng nào yếu bóng vía nghe nó bốc tá hoả tam tinh ngay.
-Sao , anh quen  tất cả chúng nó chứ?

-Đến thị trấn Chi Lăng rồi!

Nhìn sang hướng tay trái, ngọn nuí đá chênh vênh  dựng thẳng-  chân núi có tấm bảng đá tạc thật lớn ẢI CHI LĂNG- nhìn đồng hồ đúng  8 giờ sáng.  Một đàn cò trắng muốt chừng trên hai chục con  soải cánh vỗ bay theo lớp lang, như đang được tập dượt thuần thục cho ngày biểu diễn
- con sau nối đuôi con trưóc chênh chếch  bay về hướng phía trước- tôi bật nhớ cuộc phi diễn rất đẹp mắt không lực Sài Gòn năm nào!

Xe vẫn chạy, tôi không để ý đến  đàn cò nữa, và khoảng mười phút sau quay sang trái nhìn  ra xa xa, tôi lại thấy đoàn cò trắng  vẫn bay phía trưóc nhịp nhàng như đội phi cơ cánh sắt lấp lánh  hướng dẫn  du khách với tín hiệu Follow me!  (Hãy theo tôi !) như các xe cảnh sát hay quân cảnh  đi  trước hướng dẫn phái đoàn.

Nhận phòng ở lầu hai- thẻ mang số 206- nhìn thẳng ra đường Nguyễn Du- phố xá luộm thuộm. nhà lợp tôn tuềnh toàng tạm bợ- bảng hiệu buôn cái lớn, cái nhỏ, quệt tên bảng hiệu  -đủ loại
mầu sơn : xanh đen, trắng đỏ, tím xẫm,  vàng quạch, đỏ rực … bán đủ loại hàng.  Chỉ nhìn vỉa hè trưóc hiên hàng hàng lớp lớp xe gắn máy dựng  san sát vào nhau chật ních, biết có nhiều khách hàng, kẻ mua người bán .

Khách sạn Đông Kinh như một tòa lâu đài  ba tầng lầu  xây cất  đã khá lâu, mặt tiền  nhìn ra phố Nguyễn Du bệ rạc, cửa phụ bên hông lại là cửa chính  đông kẻ vào ra. Phòng ốc rộng rãi, nhà tắm vệ sinh riêng, drap giường trải nệm bèo nhèo  ố màu- có lẽ trước khi chúng tôi nhận phòng đã có  cặp đàn ông đàn bà nào đó mới trả , khách sạn chưa kịp thay drap, nệm gối- khách mới tiếp quản cả vết tích dư thừa trận cuồng nộ ân ái. Còn ti vi, tủ lạnh lại hiện đại  mới cáu cạnh – hàng lậu chuyển lậu từ biên giới nước bạn tuồn qua giá rẻ bất ngờ.

Chúng tôi vào chợ Đông Kinh gần đó, hàng hoá ê hề, đủ chủng loại, thứ gì cũng có, tuy giá rẻ vẫn phải mặc cả đôi chút- khách vãng lai dễ nhận diện trước mắt nhà buôn- nhiều nhất hàng kim khí điện máy  hằng hà sa số. Lội bộ từ đường Nguyễn Du qua chợ- hai bên đường  nhiều cửa hàng buôn bán- sở dĩ tôi chú ý đến hiệu may ,vì đọc bảng hiệu quảng
cáo :

                                    CHUYÊN MAY CẮT COM LE- VESTON

tiếng  tây chẳng ra  tiếng tây, phiên âm  sang tiếng ta chẳng ra ta.  Mà chẳng cứ gì  ởđất Lạng sính dùng tiếng tây- viết sai giống  y chang bảng hiệu may- tôi nhìn thấy  ở nhà  may nhỏ thuộc thị trấn  Phú Lợi-tỉnh Phú Thọ.

Chuyện này cũng chẳng có gì đáng làm ầm ỹ- như tôi đã nhắc ở trên- cứ mỗi lần Giáng sinh về, con mắt bị xốn  xang, vì nàng dâu kiều diễm NOEL thiếu vương miện trên đầu – NOEL vẫn  không có  dấu chấm trên  E(L)! (kể cả Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học -bản tái bản lần 7- năm 2000 )

Qua mấy trục đường chính thăm dân cho biết sự tình, thời giờ thăm dân  cần nhiều thời gian, vẫn  chỉ  như  một thoáng qua thăm  cảnh phố phường. Chỉ nhìn dãy trụ sở làm việc Ủy ban tỉnh, đã thấy ngay  lâu đài  rất ư đồ sộ xây cất từ thập niên năm mươi, kìa Ngân hàng Công thưong Việt Nam,  tường còn mới toanh nước sơn vàng, du khách đánh giá ngay được tiềm năng kinh tế phát triển tỉnh biên giới này giầu có chừng nào?

Chúng tôi chụp một  số ảnh trên các tuyến đường, nhiều nhất chụp  cảnh sinh hoạt phố Nguyễn Du- danh nhân văn hóa thế giới   nếu bạn có đi dạo ban đêm  trên con đường  này -nhớ mang  chiếc đèn pin  theo chiếu sáng  tìm lối đi. Cũng chẳng riêng gì  Lạng Sơn- Nguyễn Du được đặt vào phố khiêm nhường- ngay thủ đô, phố Nguyễn Du được kế thừa tên quan thực dân Riquier,  cũng nằm trên phố khiêm nhường cạnh hồ Thuyên Cuông.

Trở về  với Sài Gòn  thanh lịch, từng mệnh danh Hòn Ngọc Viễn Đông, thì Nguyễn Du thư sinh mặt trắng chỉ mới  đậu tam trường ( tương đương: tú tài  một) cũng chỉ e lệ nép tên sát cạnh Dinh Thống nhất thôi. Ăn trưa xong, chúng tôi về lại phòng 206, đi lại bàn nước gặp mấy chú chuột đuổi nhau kêu chí choé.

Chợ Tân Thanh  nằm sát biên giới, cách Ping Xiang ( ta gọi: Bằng Tường) chừng trên dưới mươi cây số là đến nước bạn.  

Trước khi xuống xe, hướng dẫn viên thuyết minh  giá cả hàng hoá, kim khí điện máy, nồi niêu, xoong chảo, bình thủy, bếp từ, mua hàng rồi  kiểm tra hàng kỹ lưỡng mới trả  tiền , các vị được thong dong mua bán  trong vòng hai tiếng đồng hồ, đúng 11 giờ  30 trở về bến đỗ lên xe  ca về  Lạng Sơn. 

 Khu thuơng mại rộng  nằm xoay quanh bốn mặt đường, tấp nập kẻ mua, người bán, hàng rong vây quanh khách du lịch mời gọi, chào  hàng. Cũng đúng một khi bạn nhìn lên trời, dớời chân chợ Tân Thanh là hàng hoá, từ chiếc va li to đùng cùng kích cỡ mua ở Hà Khẩu  tính ra  cao hơn ở đây trừ  ba chục ngàn  đồng trở lên . Một đôi giầy nam đế đúc bán bốn mươi  tám ngàn ( đã trả giá) người bán rong xin thêm hai ngàn đồng lời-  tương tự siêu thị Big C -Sài Gòn, bán ra một trăm hai mươi ngàn- bếp điện từ loại rẻ nhất hai trăm năm mươi ngàn đến bốn trăm ngàn loại tốt.

 Bà mẹ  trầu Nam Bộ nhiều tuổi nhất trong đoàn  kéo chiếc va li giây kéo to đùng, khen lấy khen để hàng chợ Tân Thanh đẹp lại rẻ hơn Hà Khẩu-Vân Nam.  Khách mua hàng xách khệ nệ cố kéo tới bến đỗ là ổn cả- bao nhiêu hàng cũng chất hết trong khoang hành lý.

Thợ máy Nguyên theo đoàn ,việc chính khám bệnh xe ca hỏng hóc giữa đường ,sửa chữa cấp kỳ-  rồi phụ bác tài lên xuống đồ đạc mỗi khi đến khách sạn. Anh thợ máy có trí nhớ  tốt, chiếc va li này của ai, túi xách kia cô bác nào, chỉ một hai lần đã được ghi vào bộ nhớ chính xác, nhìn mặt  ai trả đúng  đồ người đó.

Khu Trung tâm thương mại Tân Thanh nằm sau dẫy núi đá cao hùng vĩ , mới nhìn từa tựa Hà Khẩu, nếu bảng hiệu không  ghi hai thứ tiếng Việt Trung.

 Những thắng cảnh như  Núi Mẫu Sơn, Thành nhà Mạc, Phố Kỳ Lừa, tượng  nàng Tô Thị,  động Tam Thanh vv…- chỉ được nghe -chưa đến nơi-chưa nhìn thấy- thì chưa cảm nhận được.

 Tôi giở bản đồ hành chính tìm địa danh  Thất Khê, sông Kỳ Cùng hướng nào, nhìn khoảng cách từ Lạng Sơn đến đó  đoán tương đương từ Ải Chi Lăng tới nội thị Lạng Sơn.

Nói với vợ:
-Thôi vợ cứ nhìn đường 4A từ Lạng Sơn qua Đồng Đăng lên Thất Khê, Đông  Khê -Cao  Bằng; -vạch chỉ xanh là sông Kỳ Cùng -có một khúc vòng gần Thất Khê chảy ngược lên  Bằng Tường

 Bố vợ quê Lạng Sơn, ông giáo Bảo dạy học TrườngTiểu học Thất Khê  năm 1937 , bà giáo sinh  cháu gái , ông đặt tên Khê- vợ tôi . Năm sau đổi về Tràng Định - Lạng Sơn, bà giáo sinh trai đầu lòng- đặt tên  Trường, ( thay vì: Tràng) đến 1941 vẫn dạy ở đó- một bé trai được sinh ra ,ông đặt tên Định. Khi ông giáo được thuyên chuyển  tây bắc lần hai ( trước đó, năm 1933 ở Bát Xát-Lào Cai , bà giáo sinh gái đầu lòng - ông đặt tên Thư) . Cho đến khi dạy học ở Nghĩa Lộ- Văn Chấn- bà giáo sinh thêm cháu trai nữa ,đặt tên Văn (1943), tiếp bé trai là Chấn ( 1950 ).

Giữa khoảng cách này,Chấn có người chị tên Thuần-vợ tôi không giải thích -sao bố vợ đặt tên vậy, dầu  lúc này ông  bà giáo vẫn ở Nghĩa Lộ.

 Năm 1954 ông được đổi về miền xuôi, một trường thuộc tỉnh  Hải Dương, một trai út sinh tại đây đặt tên Dương, sau đó cả gia đình  di cư vào Nam.

 Và em  Nguyễn Quốc Trường chết yểu- đến  Nguyễn Quốc Văn qua đời, trong bộ quân phục sĩ quan Tiểu đoàn 9  Dù tử nạn trên cầu Nhị Bình -Hóc Môn dịp Mậu Thân 1968.

Còn tôi- con rể sinh ra đời  cầm tinh  CON KHỈ, núp tướng tinh bố ruột, bố vợ - không biết có phải vậy mà bà mẹ vợ  thường đùa cợt :
-   Bố vợ con rể  đều thiên hô bát xát, cùng  phuờng múa bát leo giây.

 Cũng chẳng biết ,có phải bà ghét địa danh Bát Xát - nên can thiệp không để chồng đặt tên gái đầu lòng, tên  BÁT hoặc XÁT  cho Nguyễn Thị Thư chăng?


       TÁM :  LẠNG SƠN –BÃI CHÁY-VỊNH HẠ LONG.


7 giờ sáng rời Lạng Sơn trực chỉ Bãi  Cháy- vẫn  được ngắm quang cảnh núi rừng trùng điệp xanh  ngắt một mầu. Qua Ải Chi Lăng rồi chẳng mấy lúc tới Kép- thị xã Bắc Giang.

Bác tài bàn với đoàn- đi  lối tắt  từ Kép qua địa phận  tỉnh Hải Dương, Côn Sơn, Sao Đỏ, Đông Triều, Uông Bí là tới Bãi Cháy.

 Đường tắt  ngắn hơn nhiều, so với đường 4B Lạng Sơn  xuống Đình Lập, Tiên Yên vòng sang  Cẩm Phả trở ngược lên Bãi Cháy-Hạ Long.

 Anh Hùng có kinh nghiệm đường xá khu vực vùng Đông bắc góp ý với bác tài, yên tâm đi, hồi  đi tập kết học xong lên đây làm việc,có gì sẽ chi đường cho đi đến nơi về đến chốn.
Đến địa phận ĐôngTriều, nhớ là quê tác giả Tháng hai buồn đọc lại Lỗ Tấn)- Hoàng Vũ Đông Sơn hay nhắc tới cầu Đạm Thủy, đền thờ Chu Văn An, sông Tràng Dịch lững lờ dòng chảy – từ cư xá Thanh Đa trò chuyện râm ran qua di động- tôi nghe rất rõ:
-  Anh chị đang nhìn thấy quê em trước cả chúng em, lần sau bố con em  về quê thăm họ hàng làng nước một lần.

Phố xá nơi đây khá đông vui, cửa hàng tấp nập người ra, kẻ vào mua bán, học sinh tan trường tầm chín rưỡi sáng, nhìn đồng hồ  9 giờ 45 sáng.
Vợ ngủ tựa vai thức giấc, lấy rượu mật gấu bóp chân vợ ,giờ này đã bớt  đau được bẩy, tám phần.

 Cái phòng toa- lét mang số 206 khách sạn Đông Kinh-Lạng Sơn, phòng ngủ tồi tệ nhất lại  ấn tượng  khó quên nhất -hình ảnh chú chuột nhắt chạy tứ tung trên bàn , sau khi thưởng thức chuối La Ba ,cốm vòng mang từ Hà Nội  lên xứ Lạng. Lại ngẫm ra, số 206 này rất hạp với  chuyến xuyên việt ,nhiều phòng  khách sạn  nơi khác cũng 206  khang trang, sạch sẽ, ngăn nắp, đầy đủ tiện nghi, thì sao lại quên !

Chỉ đường rẽ vào chùa  Yên Tử- ngay từ thời Lý, Yên Tử xưa có tên chùa Phù Vân- đạo sĩ Yên Kỳ Sinh tu  hành đắc đạo tại đây. Và chùa Yên Tử chỉ nổi danh, kể từ khi vua Trần Nhân Tông  (1258-1308) đánh thắng giặc ngoại xâm, từ bỏ ngai vàng, lấy pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng- xa lánh cõi hồng trần , ở lại đây truyền kinh, giảng đạo.

Chùa Yên Tử có tên khác nữa : Bạch Vân Sơn- nơi có rừng mai vàng ,rừng tùng cổ thụ thuộc xã Thượng Yên Công –rồi đến chùa Giải Oan, Hoa Yên,  Một  Mái, chuà Đồng- danh lam thắng cảnh có một không hai tỉnh Quảng Ninh. Hy vọng  lần sau công ty  thiết kế tour du lịch  qua Đông bắc thăm chùa Yên Tử, Tua nói vậy.

 Bỗng nhiên, ông Đặng quay sang  kể chuyện vui, hỏi có thích  học tiếng phổ thông không? học  nói rất dễ còn học  chữ Hán mới khó.  Bây giờ  tôi dạy cho ông mấy chữ cần biết: thiên: trời, địa: đất, lục: sáu, tam: ba, gia: nhà, quốc: nước, tiền: trước, hậu: sau … dễ phải không- này đói ăn rau, đau uống thuốc , bài học dân gian này của người diệc ( việt)  không phải người Trung quốc, phải vậy không ông Tường?
-Đúng, mà ông quên dạy tôi - hẩu leng: đẹp – câu này áp dụng khi gặp cô nào xinh đẹp, hợp nhãn- thì nói: ngổ aí nịnị thì ái ngại (ngúng nguẩy, lắc  cái đầu làm duyên í mà) .Vậy có phải là, cứ biết thêm được một thứ tiếng , lại coi như có`  thêm một quốc tịch phải vậy không?

Ông bà Đặng hiện nay mở cửa hiệu buôn bán ở Nam Vang, giao cho con lớn trông coi,  ông ngỏ lời mời vợ chồng  tới chơi khi qua Cam Bốt,  và nhớ điện thoại trước ( đưa danh thiếp in hai thứ tiếng:  Hán, Anh : 5…136 Road- Phone ( 012) 299.38…)

Thấy vợ tôi đọc Kinh thánh trên xe, ông khoe có một cuốn Thánh kinh bằng tiếng Hán, đã đọc qua  mà chẳng hiểu gì?

 Nắm được cơ hội, vợ tôi chứng đạo, phát truyền đạo đơn, giới thiệu bài làm chứng về Chúa của một người - trước kia luôn luôn được dạy rằng, tầng vũ trụ này là tự nhiên mà có, không có ông  Trời nào hết, chối bỏ sự hiện hữu của  Đức Chúa Trời, ai tin Chúa  là  duy tâm, mê tín dị đoan.   Rồi tình cờ , ông ta được mục sư truyền đạo người Hòa Lan ( miền bắc: Hà Lan) tặng cuốn  Kinh thánh  bằng anh ngữ :

”…Tối hôm đó, tôi bắt đầu đọc thử các sách mới xin để xem sao. Ngay từ dòng đầu Kinh thánh, tôi đã thấy vô lý. Ban đầu, Đức Chúa Trời dựng nên  trời đất. Lưong tri tôi bật lò xo. Đó là phản ứng tự nhiên của một người đã sống gần năm mươi năm, nhưng chưa biết nhận Chúa. Nhưng rồi tới cái hích đầu tiên của  Thiên chúa, mà ngày trước, tôi đã từng phân tích cho sinh viên, đây là quan điểm hoàn toàn sai lầm. Tự nhiên tôi nghĩ rằng Newton, người phát minh ra định luật hấp dẫn vũ trụ, được coi là phát minh vĩ đại nhất của lịch sử văn minh nhân loại, lai có thể kém như thế ư? Và tôi tự trả lời:
- Không thể được, chắc là mình dốt, không hiểu được ông ta , có lẽ Đức Chúa Trời có thật .
Rồi  tôi đọc tiếp câu chuyện Chúa sáng tạo vũ trụ trong sáu ngày. Tất cả như một truyện thần thoại dành cho trẻ con.

  Khi đọc đến Tân Ước, tôi lại thấy nhiều điều không thể chấp nhận được. Có thể tin chăng một bà mẹ đồng trinh sinh con, một người mù được sáng mắt, người cùi được sạch, người què được lành, người chết có mùi đã được sống lại, chỉ nhờ những lời phán? Ai có thể đi bộ trên mặt nước, ra lệnh bắt bão tố vô tri phải dừng…?(…)

Đến Albert Einstein, nhà vật lý được coi là vĩ đại nhất của thế kỷ, đã phát biểu:
- Khoa học không có tôn giáo là mù lòa, tôn giáo mà thiếu khoa học là què quặt.
 Lúc bấy giờ, tôi chưa hiểu được nhiều, nhưng Chúa biết tôi là người từng được học nên đã dùng tiếng nói của chính các nhà khoa học thật lớn để mở mắt cho tôi.  Sau khi ông phát minh ra định luật hấp dẫn vũ trụ kỳ diệu, nhiều người đã hỏi ông làm cách nào ông lại có thể phát minh ra được định luật vĩ đại như vậy. Newton vừa cười vừa trả lời:
- Đó là  nhờ tôi đã đứng trên vai những người khổng lồ.
Chuá đang nhắc nhở tôi: hãy đứng lên vai những người khổng lồ này thì con sẽ nhận ra  chân lý của Ta.

 Quả nhiên, tôi đã bị Ngài bắt phục dễ dàng. Cái tư tưởng vô thần, được tích lũy công phu và sử dụng trong bao nhiêu năm nay bị đánh bật khỏi đầu tôi.  Xưa nay tôi vẫn nghĩ đơn giản: Không có Đức Chúa Trời vì không ai chứng minh được sự hiện hữu của Ngài:
Nhưng bây giờ tôi lại biết đặt câu hỏi mới:
Ai đã chứng minh được Đức Chúa Trời không hiện hữu?”

Tất cả chỉ dựa vào cảm giác của con người, mà cảm giác thì không phải là một cách chứng minh khoa học. Người đang đứng ở trái đất thì nói rằng mặt trăng quay quanh trái đất; nhưng quan sát viên đứng ở mặt trăng sẽ bảo trái đất quay quanh mặt trăng.
 Ai đúng?
Hơn nữa, có nhiều cái hiện hữu mà ta không  thể nhận biết  bằng cảm giác.
 Không có và không thể có một máy móc nào đo được trí khôn. Vì vậy, quan niệm: Có Chúa  hay Không có Chúa, là vấn đề Đức tin nằm ngoài phạm vi của khoa học, của cảm giác.

 Nói theo ngôn ngữ khoa học đây là những tiền đề (axioms).
Thật ra tiền đề Có Chúa  dễ  tin hơn nhiều
Nhà bác học Newton đã làm một mô hình hệ thống mặt trời rất đẹp để ngay trên bàn làm việc.
Một hôm có một người bạn vô thần đến thăm. Ông bạn khen mô hình đẹp quá và hỏi:
- Ai đã làm nên vậy?
 Newton cười hóm hỉnh trả lời:
-Tự nhiên mà có đấy thôi .
 Ông bạn không tin .
 Newton trả lời:
-Thế tại sao cậu lại tin cái vũ trụ vĩ đại chuyển động nhịp nhàng này tự nhiên mà có, không cần Đấng sáng tạo? … (…) 

<  trích   HẠNH PHÚC TUYỆT VỜI / tiến sĩ PHAN NHƯ NGỌC>
               ( Ngocpn@gmx.net )

- Cái này hay, nhưng với  trình độ tôi  thì hơi khó hiểu rồi - ông Đặng tiếp.

- Nhưng tôi biết  rõ ràng một điều , hầu hết mọi nhà hứa tin Chúa Trời , phía trước nhà vẫn có bàn thờ THIÊN-vậy  bàn thờ THIÊN  này có phải là thờ TRỜI? Người Hoa tự xưng thiên tử mà không tin cha mình là Trời, cái này mới là điều lạ?

Ông Tường có kinh nghiệm gì về Đức Chúa  Trời  kể cho nghe. Phải là câu chuyện có thật- bình dân đại chúng một chút - đừng  lý thuyết cao siêu  như ông tiến sĩ, thì chỉ người trí thức mới dễ đồng cảm mà thôi.

Ngẫm ra có phần chí lý, chẳng hạn khi tôi  lấy vợ ,lễ cưới cử hành tại Phòng sách Báp Tít,  68 đường Minh Mạng –Đà Lạt.  Mục sư Mỹ Roberston buộc học thuộc vài câu, từ tối hôm trước .
 -Anh có  bằng lòng lấy cô Khê làm vợ?
–Có.
 ( quay sang hỏi cô dâu)
- Cô Khê có  nhận  ông Tường làm chồng?
- Có.
- Chiếc nhẫn này tượng trưng cho tình yêu bất biến Thiên chúa ban phát, các ngươi không thể tự cắt chia lìa, ốm đau phải săn sóc nhau, lúc dư dả bạc tiền , bụng dạ no nê như lúc  nghèo khó bụng đói meo- vẫn phải cùng nhau chia sớt   vv…
       ( mục sư  Mỹ xin lỗi tự nhận  diễn tả tiếng việt vụng về)
-… chung qui là  phải sống với nhau đến trọn đời- khi  ra ngoài  đường, chẳng may nhìn thấy cô gái  nào đó đẹp hơn vợ mình - hay là cậu trai đẹp hơn chồng mình- thì phải bịt mắt lại,  ngó lơ như không thấy, không biết, không làm quen. Hãy nhớ câu này: Don’t be lustful ! ( tạm dịch: Chớ có tà dâm!) đó là đã làm  theo  ý Chúa .

Về Sài Gòn , vợ đòi thờ phượng ngày chủ nhật ở Hội thánh Báp tít. Cả Sài Gòn  khi ấy, chỉ có hai  nhà thờ Báp tít -một trên đường Công lý giảng tiếng việt - mục sư Chánh ( người luôn tự nhận:- tôi  một trong hai thanh niên Báp tít đầu tiên ở Sài Gòn-Việt Nam) chủ tọa- còn nhà thờ  giảng tiếng anh  cũng nằm trên đường Công lý-khúc ngã tư Yên Đổ.

Tôi đành chở vợ tôi đến nhà thờ giảng tiếng việt, và đến quán cà phê gần đó chờ  tắt lễ đón vợ.

 Cho đến  30/4 1979 , sau khi nghe truyền đạo Lê Thiện Dũng giảng, tôi giơ tay tin nhận Chúa tại Hội thánh Báp tít Ân điển.

 Thời kỳ này, rất - rất là ít người tin Chúa,  mục sư Chảnh đến tận  nhà  dạy báp têm, và cuối năm mấy bố con được  làm phép báp têm, đầu nhấn chìm trong bể nước trước nhà thờ. Lần này mục sư chủ tọa  rơi mất kính cận, hai tay quơ quào , mắt nhắm, mắt mở  hụp lặn mới tìm được  kính- tôi nói đùa  :- vậy ra Ngài hụp lặn, thì coi như  mới được tái sinh như chúng tôi thôi !

Tôi tin Chúa  thì tin vậy thôi ,đầu tiên  nghe thánh ca rất thú vị - nhất là Ave Maria, Silent Night- và  chẳng  chịu học lời Ngài, chẳng mở Kinh thánh đọc một dòng ,một chữ- đến ngay vợ nhờ bỏ tiền dâng 1/10 ngày chủ nhật, lại  giấu bớt xài riêng. Nghe thấy lời cầu nguyện:

 “… xin Chúa đại dụng món tiền nhỏ bé này của chúng con để mở mang  nước Chúa
thì  tôi lằm bằm : đương kim  thư ký hội thánh thấy túi  dâng tiền  nhiều qúa- nhất là  buổi nhóm có tín hữu Báp tít Hàn quốc tham dự - tiền dâng  bỏ vào phong bì vàng, rồi bỏ chung vào giỏ tiền dâng hội thánh  Báp tít – tất lễ, thư ký xách bốn giỏ dâng hiến chạy vào phòng dành riêng ban trị sự, đóng cửa sổ, khóa cửa chính , rút chiếc phong bì màu giắt túi sau dụng đại- rồi  ung dung  gọi bà  thủ quĩ vào đếm tiền dâng hiến – ai lại để một mình tôi  đếm, kỳ quá hà!

Bà thủ qũy có đôi mắt tinh anh,đã nhiều lần theo dõi thư ký - lần này kiểm không thấy chiếc phong bì con cái Hàn quốc dâng, bèn làm ra nhẽ-  ông thư ký trả lời - đến ngay mục sư quản nhiệm chẳng kêu ca gì nữa là -… bà tư hoá có muốn  tư- hữu- hoá chút đỉnh  không?

Rồi ông thư ký cúi đầu, miệng nhẩm lời cầu nguyện
-Xin Chúa đại dụng món tiền này mở rộng  thêm nước Trời- Chúa ban cho tôi tớ Ngài dụng đại một ít nuôi vợ con –con dốc lòng đội ơn Chúa. A men! (Đúng như vậy!)

Từ đầu thập niên 90, tôi bắt đầu  tập hát  thánh ca  với ban trung niên (bởi không có ban lão niên), xin Chúa  cho con  kẻ già yếu có giọng ca trong trẻo tôn vinh danh Ngài. Xin Ngài chỉ ra lỗi lầm con đang mang - Ngài  tha thứ vi phạm, Ngài phiếu sạch tội lỗi  con bằng huyết báu Ngài- Ngài  ban cho trí nhớ thuộc bài Cầu nguyện chung :

Lạy Cha chúng con ở trên trời! Danh Cha được tôn thánh, nước Cha được đến, ý Cha được nên. Ở Đất như Trời.  Hôm nay xin cho chúng con đồ ăn đủ ngày, xin tha thứ tội lỗi  chúng con như chúng tha tội những kẻ nghịch cùng chúng con.  Xin chớ để chúng con bị cám dỗ. Vì nước, quyền, vinh hiển thuộc về Ngài đời đời, vô cùng. A Men!

 Mỗi sáng tôi dành năm phút đọc một đoạn kinh thánh, suy ngẫm, cầu nguyện-không phải  chỉ nghe làm đủ -còn  phải biết làm theo.  Cảm tạ  Chúa  cho ma- na  dùng đủ ngày, cảm tạ Ngài khi thuận lợi cả  khi không, lúc khỏe, khi đau ốm, lúc hanh thông, khi hoạn nạn, tôi đều biết ơn Ngài.  Nếu chỉ tin Ngài để có miếng ăn độ nhật, kẻ lấy danh Chúa làm chơi, mưu cầu cơm áo, danh lợi; thì Ngài đã có lời phán xét kẻ  lấy bụng mình làm chúa.

-Đến Bãi Cháy rồi!

 Cô Huyền thông báo, tối nay ngủ tại Khách sạn Tiên Long- Phố Vườn Đào-Bãi Cháy.
Khách sạn rộng rãi, có vườn bao quanh, tất cả  là phòng trệt, chúng tôi nhận số thẻ 101, phòng ốc khang trang, restroom đúng nghĩa, thiết bị thông tin tiêu chuẩn quốc tế, tắm táp xong mời ăn trưa tại Nhà hàng Bangkok ,đường Hậu Cần-Bãi Cháy.


Buổi chiều đi thuyền trên Vịnh Hạ Long, tham quan hang Đầu Gỗ, Hòn  Gà chọi vv… và sau đó dùng cơm chiều xong bắt đầu tham quan đảo Tuần Châu.


CHÍN:  BÃI CHÁY- HẢI PHÒNG -THÁI BÌNH - NAM  ĐỊNH - HÀ TĨNH - VINH


Rời Bãi Cháy  lúc tinh mơ, nhìn sang đảo thật hữu tình , con đường  thẳng tắp ngăn biển chạy thẳng tới  đảo Tuần Châu. Tối qua chúng tôi  đã đến thăm nơi  này, vẫn  kiểu cưỡi ngựa sắt xem hoa lúc tối trời, nơi nào đèn  sáng thấp thoáng  biết  có  biệt thự nhà hàng, nơi khác biệt thự đang xây dở dang, kia một toà lâu đài xây trên đảo nguy nga tráng lệ, nếu không có đèn chỉ còn thấy mầu xanh thẫm cây lá.

Buổi chiều trên vịnh Hạ Long ngắm biển xanh nhấp nhô sóng bạc, leo hết  hang động này sang hang động khác, nơi nào cũng  đẹp và hùng vĩ cả.

 Chỉ mấy ngày trước, đã nhọc nhằn leo năm trăm bậc xi măng dẫn lên đỉnh Phong Nha,  bước qua hàng hàng lớp lớp động thạch nhũ đẹp vô tả, ai nấy đều đưa máy ảnh  chụp liền  tù tì - một khách người Hoa không biết tiếng việt, đi chung với gia đình ông Đặng say mê quay  ghi lại hình ảnh  một kỳ quan thế giới có một không hai. Anh bạn này hướng máy sang hai cô người việt gốc hoa từ thành phố Bác- tôi chợt nhớ đây là hiện tượng lạ, đồng tính nữ chăng?- hai cô không ngồi chung bàn với gia đình Nimbus ăn sáng, ăn trưa, ăn tối, ngủ nghỉ chung phòng. 

Tôi  để ý theo chân chú chim  ó vỗ đôi cánh sải dài lao vút thật nhanh xuống mặt nước , rồi lại  bay vụt lên, lại lao xuống vụt lên nhiều lần- chưa một lần  thành công quắp được một  chú cá nhỏ nào làm mồi. Ngồi bên, vợ ngắm nhìn Hòn Trống Mái  xa xa, tôi đếm một, hai, ba , bấm nhé- thế là đôi mắt to tròn  đen lay láy đang say đắm ngắm, và chẳng một ai hề biết mắt trái mới được mổ  cườm nào có trông thấy gì đâu? 

 Cũng có thể vịnh chiều nay không có cá, có thể đôi mắt chim ó có vấn đề, bao nhiêu lần lao xuống mặt biển chẳng  quắp được chú cá  mồi  dằn bao tử.  Nhớ tới bác sĩ K…   giỏi nghề phẫu thuật mắt cườm : ông bác sĩ ơi , có cách nào cứu được chú ó biển mắt  cườm đang chúi đầu vô vọng kiếm mồi trên  vịnh Hạ Long không?

Chờ sao cho thuyền máy sớm cặp bến lên bờ thoát được  hiểm nguy, nhìn thuyền bè ván  gỗ bóng loáng  sơn, tôi không dám chất  lượng gỗ còn  tốt, tiếng máy nổ phành phạch ì ạch lướt sóng    dáng chừng mệt mỏi- quay sang hướng dẫn viên hỏi- thuyền máy này được bảo hiểm đấy chứ?

Tua gật đầu và lại cho biết thêm, nếu muốn ngủ lại trên tàu ba sao- không phải tàu đò như thế này đâu-  phải trả một trăm đô la/ đêm bao ăn ngủ ,tàu vận hành trên vịnh khoảng bấy chục cây số.

Ông Đặng quay sang   chuyện trò, nhắc bữa qua ở Hang Gà Chọi, đi lên một đường, xuống một đường,  ông mệt quá đành ngồi lại nghỉ không thể đi tiếp được nữa; rất may vợ chồng tôi  biết,  kịp báo hướng dẫn viên quay lại đón. Và ông Đặng tin vào bản mệnh quí nhân phù trợ, mỗi khi gặp hiểm nguy-  và ông cũng  cho biết đã đọc rất kỹ bài làm chứng đạo Chúa của ông tiến sĩ kia rồi. Bây giờ  phải chờ được sự cảm động đưa tới mới biết là mình có hay không tin nhận Đức Chúa Trời?!

-8 giờ  45 sáng vào địa phận huyện Thủy Nguyên-Hải Phòng, mười lăm phút sau tới An Dương, nơi này có nhà  máy cán thép to đùng, ống khói vươn lên  bầu trời xanh ngắt phun phì phì – và còn nhiều nhà máy công nghiệp khác đang vào ca sáng.

-8giờ 45 đến thị trấn Vĩnh Bảo- bảng chỉ đường dựng ở ngã tư- rẽ trái qua Ninh Giang-Hải Dương- đi thẳng hướngThái Bình.
Tôi nhìn theo mũi tên chỉ hướng  qua Ninh Giang, thế là cả một cuốn phim lịch sử như đang diễn ra trong trí.

Giá mà tôi được đến nơi này để nhìn lại mảnh đất 76 năm xưa  (1930 )-  một cánh quân Việt Nam Quốc Dân Đảng(VNQDĐ) đã sát hại tri huyện Vĩnh Bảo Hoàng Gia Mô, cháu ông Thiếu Hà Đông –Hoàng Trọng Phu, chắt tổng đốc Hoàng Cao Khải-tác giả Việt sử yếu – viên huyện quan này vơ vét của cải dân chúng rất giàu, hai xe hơi,  nhiều đất đai điền sản, vàng bạc châu báu chất đầy trong két sắt- đã làm mờ mắt nhà cách mạng trẻ tuổi Trần Quang Riệu – có họ hàng với tổng đốc Trần Mỹ. Chính  Riệu bắn phát  đạn ân huệ ( coup de grâce)  vào đầu huyện quan Hoàng Gia Mô.

 Sau  khi Nguyễn Thái Học cùng cộng sự  bị đưa lên đoạn đầu đài, ngay buổi chiều hôm đó đã có năm chiếc phi cơ bắn phá làng phiến loạn Vĩnh Bảo.

Thống sứ Bắc kỳ Robin  gửi điện  khẩn cấp, lệnh cho Công sứ phải bố cáo cho dân bảo hộ biết Làng Cổ Am-Hải Dương ,nơi trú ẩn bọn phiến loạn xứ án tử hình huyện quan Vĩnh Bảo,  nước Đại Pháp  ban lệnh  cho phi đội Hà Nội thực hiện vụ tàn sát  tức thì. Và lập tức tin này được loan truyền rộng rãi cho toàn dân An Nam biết, và đây là cách răn dạy cho làng xã nào còn muốn họạt động chống phá, cũng sẽ bị tàn sát không thương xót.
Đại để điện tín khẩn ấy đã được nhà báo cấp tiên, ông Louis Roubaud  thuật lại trong sách Việt Nam Bi Thảm Đông Dương * xuất bản ở Paris  năm 1930.
--------
*  Việt Nam Bi Thảm Đông Dương  bản  việt ngữ Đường Bá Bổn ( Sài Gòn 1963, 1965- sau 1975: NXB Công an nhân dân 2003, Nxb Thanh niên 2005) –bản  tiếng Pháp: Vietnam, la tragédie indochinoise- Louis Roubaud,  Ed. Valois, Paris 1930.


      Nhà cách mạng VNQDĐ đề cập trên kia, như đã nói, là  họ hàng tổng đốc Trần Mỹ được  Pháp  ban  Bắc đẩu Bội tinh ( Chevalier de la Légion d’Honneur) chính là thân sinh hai n hà văn nổi đình đám  trong nhóm  Tự lực văn đoàn: Khái Hưng và Trần Tiêu.
 Trưởng nam Trần Khánh Giư theo VNQDĐ sinh năm 1896 ở Cổ Am- nơi tổng đốc thân phụ trấn nhậm -và  sau bị thủ tiêu  ở Lạc Quần năm 1947. ( Chi Nê-Phủ Lý).  Còn thứ nam Trần Tiêu , sinh năm 1899 ,theo cách mạng từ ngày đầu kháng chiến 1945, tác giả tiểu thuyết Con Trâu , từng giữ chức Chủ tịch Ủy ban hanh kháng  huyện Cổ Am, qua đời  vào năm 1954 ở Hà Nội.

-Qua Vĩnh Bảo  ranh giới tỉnh Thái Bình rồi!
Tôi lên  phía trước, ngồi ghê xúp sẽ  nhìn rõ hơn Quỳnh Côi, như vậy huyện Quỳnh Phụ cũng gần đâu đây. Nhìn thấy bảng Trường Phổ thông cơ sở Phù Dực có một con đường rẽ phải chỉ  địa danh  Quỳnh Phụ.  Vậy là sau con đuờng  trải đá kia, thì Trường Phổ thông cơ sở An Bài  cũng nằm quẩn quanh đâu đó.

Đó là nơi ở  thằng bạn thân một thời của tôi ở Hà Nội năm năm tư. Sau 20 tháng 7, chia hai miền nam bắc, Hiển ở lại Hà Nội theo học sư phạm, tốt nghiệp được chuyển về huyện lỵ Thái Bình.
Bút danh  làm thơ châm biếm Ống Nhòm trên báo Thân Dân đã không còn nữa, thấy giáo Nguyễn Thế Hiển  tứ cố vô thân không từ chối bổ nhiệm đến bất cứ trường học miền bắc. Thầy lập gia đình với một cô giáo dạy cùng trường -sinh được  cháu gái đặt tên Bình An. Rất có thể  vì  trụ  lâu ở  xã An Bài, lại dạy trường An Bài, và  thân phận an bài tự tại , nên  thầy cô Hiển  mong đứa gái duy nhất  sau này cuộc sống bình an.

Nhìn tấm ảnh nhỏ  síu chụp trước cửa nhà- một căn nhà trệt lợp ngói- bố gầy như cây sậy , con gái nhỏ síu guộc gầy thấp hơn bố một cái đầu. Một chiếc xe gắn máy dựng ngay lối đi vào,  tôi nghĩ  chắc là  mẹ  cháu Bình An sử dụng, bởi Hiển đạp xe đạp còn trầy trợt ngã lên ngã xuống ngay từ thời kỳ ở Hà Nội.  Hiển gửi tấm ảnh vào Sài Gòn năm 2000, thư viết: Tường ơi, chúng mình già cả rồi,  xưng hô  hoặc viết cho nhau mày, tao thấy nó thế nào ấy-  đừng hỏi tại sao nhé, vậy có được không? 

Mỗi năm, tôi đều nhận thiếp chúc năm mới, thiếp vẽ đồng quê,  thằng bé con  giắt trâu, bên cạnh phong pháo  nổ. Hiển than phiền muốn đọc sách lại không đủ tiền mua, chỉ đọc nhờ báo của trường- thèm nhất muốn đọc sách chuởng Kim Dung chắc là hay tuyệt .

- Ông  viết gì mới không, nếu có, gửi cho tôi sách đã in và bản thảo chưa in nhé.  Mong lắm!
Tôi liền gửi  ngay qua bưu điện và hai  bản thảo mới viết cho  Hiển, tôi nhớ  rõ ở bưu cục Đa Kao,  nữ nhân viên hỏi gửi thường hay bảo đảm-  tất cả là 8000 đồng  cước gửi thường.
Từ đó chưa nhận được thư hồi âm, thằng này đọc xong  thế nào cũng có ý kiến đấy.

Một chiều, một giọng lạ tự giới thiệu, cháu Bình An con bố Hiển, bác có phải bácTường không?   Nghe đến đây nổi da gà,  hay Hiển không còn nữa- mà thật vậy- bác ơi bố cháu ra đi rồi,  bác báo tin  bác An Chi học sư phạm với bố cháu , nay hành nghề viết báo ở Sài Gòn, bác Khánh dạy chính trị  Trường Nguyễn Ái Quốc- Thủ Đức , còn ai bạn thân bố cháu , mong bác báo tin luôn thể.  Và  cũng báo tin cháu Bình An , con gái bố Hiển đã đậu vào một trường đại học ở Hà Nội rồi.

Nhớ lại trong một lá thư viết trên giấy tập vở học sinh, Hiển cho biết chú em ruột  ở Úc đã qua đời , bệnh ung thư.  Hỏi tôi có nhớ chú em này,  một trong hai đứa em  trai Hiển di cư vào miền Nam- một đứatốt nghiệp Cử nhân khoa học, được giữ lại trường thỉnh giảng Đại học Khoa học Sài Gòn, sau bảy lăm nó vượt biên.

 Thập niên tám mươi, Hiển vào Sài Gòn tìm gặp được tôi ở đội xe búyt- tôi  chở Hiển ngồi sau mô by lét cà tàng chạy khắp phố phường. Và chỉ một lần duy nhất, thết được bạn ly cà phê đen bên quán cóc, trên đường Phạm Ngọc Thạch, đầu hẻm nhà Trịnh Công Sơn.

Thời bao cấp, ai cũng nghèo và khổ cả,nên ít cảm thấy khổ- Hiển khen có xăng chạy xe là oách ra phết!

Đường vào huyện Quỳnh Phụ lùi quá xa rồi, tôi vẫn muốn ngoái  cổ lại nhìn,và mơ hồ giả thiết được đặt chân đến  đây, thế nào tôi cũng tìm được cô giáo ,vợ Hiển- và  nó gặp bạn Sài Gòn ra thăm bất thần  thế này, hẳn vui mừng khôn xiết!

Bần thần ít phút sau ,tôi cũng nhận ra: Hiển qua đời rồi, nó không còn tồn tại  trên đất  An Bài nữa.  Nó qua đời chỉ ít lâu sau ngày chú em ở Úc .Nó mất chỗ dựa tinh thần và vật chất đó thôi ? Thuở sinh thời, Hiển rất lo tương lai  con gái, liệu cháu Bình An có đủ khả năng vào đại học không?  Hiển ơi! mày cứ an tâm  an nghỉ bình  thản dưới kia - cháu Bình An, con gái  mày đang học đại học ở Hà Nội.

-9 giờ sáng đến thị trấn Đông Hưng, hai bên  lề phố xá đầy bảng quảng cáo : BÁNH CHÁY ĐẶC SẢN, ai qua Thái Bình nhớ mua về tặng bạn bè, gia đình làm qùa.

Ông Thành, cán bộ hưu trí, quê Ninh Bình, vợ quê Hải Dương- công tác qua khắp miền châu thổ sông Hồng , kể vanh vách cho nghe chỗ nào có thứ gì ngon, cái gì đặc sản của mỗi địa phương.

Qua Đông Hưng đến cầu Thái Bình, nhìn sang trái đường vào Vũ Thư. Ông lại kể vanh vách chuyện làng Vũ Hội- nhà hai ba tấm mọc lên san sát, hẳn ai cũng nghĩ là một thôn xã giàu có, nhà cao cửa rộng, nóc nhà xây chóp chọc thẳng lên trời- lại là làng  chịu đau khổ tinh thần, làng không có đàn bà lại có  trẻ con- vậy thì chỉ đám  đực rựa  say túy lúy rượu chè.
Ông Thành chìa tờ báo xuất xứ Sài Gòn, cứ đọc đi sẽ biết thế nào là LÀNG ĐÀN ÔNG:

“… Khác nhiều xã nghèo thuần  nông quê lúa, con đường vào xã Vũ Hội (huyện Vũ Thư, tỉnhThái Bình)  san sát những ngôi nhà hai ba tầng rất khang trang, nhưng thật ngạc nhiên , khi hỏi một ông cụ hơn tám mươi ở thôn Phú Thứ lại ngậm ngùi: Khoan ham cháu ạ, nhiều ngôi nhà cô quạnh lắm!. Vợ làm ô sin bên Đài Loan hết, trong nhà chỉ còn những ông bố  và những đứa trẻ.
11 giờ trưa tan học, cậu bé Nguyễn Đức H. (7 tuổi, học  trường tiểu học Vũ Hội) lang thang đi bộ ba cây số về nhà. Cửa cổng khóa kín, trong nhà im lìm. Cậu bé bỏ cặp sách một bên ngồi dựa lưng vào tường đưa đôi mắt buồn ngó ra đường đợi cha.  Phải hơn một giờ sau, bố cậu bé mới khật khưỡng hơi men phóng xe về, đưa cho con chiếc bánh mì pâté khô khốc với mấy lát dưa chuột ngồi lủi thủi ăn ở góc nhà.  Vừa ăn vừa  nước mắt ngắn dài, H. thút thít:.. từ ngày mẹ đi bữa tối em sang bà ngoại ăn cơm, còn bữa trưa bố toàn  cho ăn bánh mì.
Năm 2003, mẹ H. sang Đài Loan làm người giúp việc. căn nhà anh C. mới xây hai tầng và gian nhà bếp lạnh ngắt đã khiến cha bé H.  lang thang suốt ngày, rượu sáng chè trưa. Thấy các gia đình khác có những bữa cơm đầm ấm, mà nát cả ruột gan. Ngày nào thằng bé cũng hỏi bố ơi! sao mẹ mãi chưa về.
Cũng trưa hôm ấy bà C. gần đó chỉ biết lắc đầu khi không thể can nổi hai đưá cháu nội và cháu ngoại đánh nhau, đã sáu năm nay, bà C. không có một ngày thảnh thơi vì còn phải chăm sóc cháu thay cả con dâu và con gái  sang xứ Đài, bà mếu máo: mẹ chúng nó sang bên ấy gửi tiền đều đều về cho bà cháu chi tiêu, nhưng đâu có biết hai đưá nhỏ cần hơi ấm và sự chăm sóc của người mẹ hơn.

Mới đây một số bà con xã Vũ Hội bàn tán chuyện con không nhận mẹ, cười ra nước mắt; anh Th. đưa đưa  đứa con trai bốn tuổi ( người thôn Bích  An) ra sân Nội Bài đón vợ từ Đài Loan về quê ăn tết. Máy bay hạ cánh, anh Th. Không còn nhận ra vợ mình: quần jean bó sát, áo hai dây hở nửa lưng, trên vai là chiếc túi da xách đắt tiền.  Đứa con khóc ré lên: Đây không phải là mẹ của con! và nhất quyết không cho mẹ bế.  Phải mất hơn một tuần sau, đứa con mới chịu sà vào lòng người mẹ: mẹ ơi mẹ đừng đi nữa nhá! /- Khi đi nó mới có một tuổi chưa kịp nhớ mặt mẹ, nên không nhận là phải thôi- vợ anh Th. tự trách mình và quyết định không đi nữa. Hôm chúng tôi đến, vợ chồng anh Th. đang tất bật chuẩn bị bữa cơm tối cho gia đình.  Chị nói đó là hạnh phúc giản dị mà chỉ có được sau những năm vất vả ở xứ
 người.. ..”  - 
( trích  TRẦN ĐÌNH TÚ- báo Tuổi  trẻ- Tp. HCM )

Tôi trả tờ báo,  lại nghe ông Thành kể:
- Nhà cao cửa rộng, bạc lắm tiền nhiều từ các chị em gửi về cho chồng , cô vợ sang xứ Đài ba năm trời mà chỉ gửi về có một trăm triệu đồng thôi sao?  Anh chồng nghi vợ có thể gửi ở nơi khác; ấy thế là eo sèo cãi vã, ghen tuông đòi đưa rau  ra toà ly hôn. Có chị làm ô sin xứ Đài quen nếp sống xứ người không chịu trở về chung sống với ông chồng quê mùa quê nhà , vì chống ăn xài quá mức, cờ bạc, rượu chè, trai gái tứ tung, rồi gọi là giải sầu chính đáng mà bất cứ ai trong Hội Lang  Quân Có Vợ Xứ Đài đều làm như vậy cả. Ông thử nhìn xem ảnh cậu bé tên H. đi học về in trên báo ,kèm  theo phóng sự đang ngồi chồm hổm ngoài lề đường trước cửa nhà đợi bố về,nhìn mới thấy thảm hại làm sao !?

Dọc quốc lộ  ranh giới tỉnh Thái Bình ,có con kênh đào kéo dài ngút tầm mắt, tôi chẳng biết  đến  ranh giới làng xã nào thì chấm dứt –và  khi đến cầu Tân Đệ ,thì con kênh đã chấm dứt từ bao giờ rồi.

Tương truyền xưa kia vào thời Pháp thuộc, bến Tân Đệ chưa có cầu bắc qua sông như  bây giờ, tất nhiên qua sông phải lụy đò với bất cứ ai, kể cả quan  tai to mặt lớn đi đường bộ.
Có một sáng kia, ông  Nguyễn Thế Truyền, con rể vua nước Bỉ về nước An Nam, qua đò Tân Đệ cãi vã với tổng đốc, rồi chẳng biết duyên cớ nào, giơ tay tát  vào mặt ông Vi Văn Định. Báo chí đăng tin, người ngưòi  rỉ tai kể chuyện cho nhau nghe , chẳng mấy lúc râm ran khắp xứ Bắc Kỳ đến cả trong  xứ Nam Kỳ cũng có người được nghe kể.

 Cho đến thập niên sáu mươi thế kỷ trước,  tôi gặp lại  nguyên chủ nhiệm báo Thân Dân-Hà Nội –và  khi đó tôi là phóng viên.  Bây giờ, ông Truyền  kiếm sống độ nhật- bằng cách làm précepteur ( gia sư) dạy tiếng tây cho mấy cô  cậu quí tộc, trong một  phòng nhỏ- tư thất ông Phan Khắc Sửu- ở  khu  chợ Bàn Cờ.

Tôi đến nhờ ông đọc lại   Sau hai mươi năm của Nguyễn Đắc Lộc*- bạn cũ ông từ thập niên hai mươi.  Hai chúng tôi rủ nhau đến quán Café  Năm Dưỡng –Nguyễn Thiện Thuật chuyện trò.  Ông Truyền khen ông Lộc có chí khí, bạn viết báo tiếng tây ở Paris với nhau, thân như ruột thịt- nhưng  không thể: bây giờ tôi  không muốn trườn mặt ra, kể cả viết lách, dầu chỉ là bài tựa.  Tiện thể, tôi hỏi  chuyện năm xưa trên bến phà Tân Đệ, ông cực lực cải chính tin vịt cồ như báo Le Canard Enchainé (tạm dịch :Con vịt buộc) đã đăng.

Lại có một bữa  ăn trưa tại khách sạn Hoa Lư-Ninh Bình.  Một toà nhà ba tầng bề thế, tầng trệt phòng ăn, lầu một, hai phòng ngủ, sân trươc bãi đậu xe rộng thênh thang, chung quanh vườn tược cây  cối xum xuê.

Mới nhìn thấy hai gốc cọ lùn to đùng lá  xanh  mướt, tán rộng- tôi đưa máy  lên bấm vài kiểu- cọ nơi đây đẹp hơn nhiều , so với cọ ở đền Hùng- Phú Thọ.  Hai gốc thông Nhật Bản cao vút, lá xanh mướt, nhìn bắt mắt ngay, hẳn đất đai ở đây phì nhiêu, mấy gốc cây trong vườn chẳng cần  châm phân bón thì phải!

 Phía trước khách sạn Hoa Lư, một hồ nước rộng  bao quanh, trên  ngọn đồi có đền thờ, xa hơn là con đường đất dẫn tới  một phố đang mọc lên  những căn nhà đôi ba tầng  lầu, biệt thự có chóp đang xây dở dang, một khu phố mới đang hình thành phát triển.

Giã từ Tam Điệp-Ninh Bình. Xe vào địa phận Thanh Hoá ,với những địa danh :Bỉm Sơn, Nga Sơn, Hà Trung, Hậu Lộc, cầu Hàm Rồng, Tĩnh Gia vv… cũng chẳng mấy lúc  lùi  lại phía sau- bây giờ trước mắt đã là Cầu Giát-Nghệ An.

Bà mẹ Nam Bộ tám chục chẵn có mái tóc nhuộm đen, cắt ngắn như đàn ông, hai tay nắm chắc thành ghế  đứng dậy, xin phép có đôi lời trần tình.  Cuộc xuyên việt đầy hứng thú, an toàn, lần thứ nhất - sắp tới Hà Nội- một  xe gắn máy chở đôi lấn trái vượt xe ca ,thì anh Năm lách xe thắng kịp thời thoát hiểm.  Lần thứ hai- hai thanh niên chở nhau đánh võng trước xe -thắng gấp lăn
-------
NGUYỄN ĐẮC LỘC 1897-1975 ( tự tử). Còn ký Mai Lâm, tác giả Mộng  Sen hay Bông sen trong bùn ( tiểu thuyết, Hà Nội 1954), Thẩm Công truyện ( truyện dài bằng thơ,  Sài Gòn 1964), Hà Nội 100 năm trước ( truyện dài bằng thơ, tựa bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm. Bản thảo hiện được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia ( Hà Nội). Chủ nhiệm nhật báo Tân dân ở Sài Gòn sau năm 1954 vv…(Chú thích : Thế Phong)


kềnh trên đường chỉ cách xe ca chừng một thước, anh Năm lại lách thắng kịp cũng thoát hiểm, không để xảy ra tai nạn.  Cảm ơn ông Trời!

 Bây giờ đề nghị cô bác, anh chị thế này, mọi người tùy hỉ góp năm chục, một trăm  ngàn , gọi là qùa lót tay bác tài và mấy cháu phục vụ. 

Mọi người đều giơ tay tán thành, bác sĩ Kim  mau mắn hưởng ứng, đề nghị  bác tài nhận  40%, còn 60% chia đều năm phụ việc và nhân viên. Ai đồng ý xin giơ tay biểu quyết- đa số rồi.

Đức giơ tay tình nguyện cầm mũ nhận  thâu ,đếm tiền – cô Huyền thâu lại tờ nhà xe xin khách  phát biểu  ý kiến, góp ý ,đánh giá năng lực phục vụ, từ bác tài đến nhân viên,  hình như tất cả đều được điểm 10. Riêng tôi, ghi thêm  vài lời cảm ơn nữ giám đốc Thanh Thảo, tổ chức chuyến du hành xuyên việt an toàn, chu đáo- riêng vợ chồng tôi được về thăm Yên Bái, Lạng Sơn.

15 giờ xe bắt đầu  vào địa phận huyện Diễn Châu, qua vườn quốc gia Pù Mát ,thị trấn Quan Hành tới thành phố Vinh-Nghệ An.

-Tối nay gia đình Nimbus Tourist ăn và ngủ tại Khách sạn Phương Nam, 7.. đường Nguyễn Thị Minh Khai-Vinh-nơi đây phóng ốc ngả lưng ngon giấc, cơm chiều ngon miệng, trước cửa mỗi phòng đều có một  phích  nước sôi-  bình thủy mầu đỏ Trung quốc – dành cho khách uống trà- một lệ có sẵn từ thời bao cấp- nay còn  thấy ở nhà hàng Phương Nam , và vài thành phố ngoài Bắc  và phía bắc miền Trung.


              MƯỜI: VINH- HỘI AN.


Ngày thứ mười ba chuyến xuyên việt xuất phát từ khách sạn Phương Nam rất sớm. Một khách trong đoàn đẩy chiếc va li ra trước khách sạn giã từ anh chị em, vẻ bùi ngùi.

-Chúc quí vị trên đường về Sài Gòn bình yên.

Anh trở về quê, cách Vinh khoảng ba chục cây số- hẳn không bao giờ quên được chuyến du  hành đẹp nhất trong đời.

Tôi lại như được giàu thêm cảm giác chia ly như thế nào, dầu người bạn ấy chỉ cùng chúng tôi ăn  trưa, ngủ chung khách sạn ở Quy Nhơn, Huế,  Ninh Bình, Hà Nội, Sapa , Yên Bái vv.. trong suốt mười hai đêm. Lại nhìn tấm ảnh chụp đứng phía sau vợ tôi ở Chùa Một Cột, anh chàng mặc áo pull đứng tần ngần, nhìn đàn cá vàng lội dưới  hồ. Tạm biệt anh , chẳng nhớ tên anh là gì,và cũng khó có ngày gặp  nhau lại.

Xe bắt đầu qua cầu Bến Thủy-chuyến về-  xe từ từ dừng  trước IỐT-TRẠM THU PHÍ BẾN THỦY. Lúc đầu, tôi chẳng hiểu IỐT là cái quỉ quái gì , sau thấy anh Năm xì tiền đóng lệ phí cấu đường, tôi chợt hiểu ra- đó là cách phiên âm từ kiosque -tiếng tây.

Nước chảy dưới cầu Bến Thủy từ thập niên ba mươi thế kỷ XX đã  hoà máu loang cả một dòng  chảy- cuộc biểu tình đầu tiên  xứ Trung kỳ, của 1500 công nhân xưởng chế tạo diêm ( miền nam: quẹt) im lặng diễu hành, mặc cả với chủ về lương bổng.  Và năm chục lính tập nã súng vào họ, sau đó hùa nhau khiêng xác chết, người bị thương ném xuống  sông. Và đúng là dòng sông này, tôi đang nhìn thấy tận mắt đây.

“…  Công ty khai thác gỗ tếch cung cấp cho xưởng chế tạo diêm ở Bến Thủy chừng700 thợ .
Chủ trả lương công nhật, đàn ông 36 xu / ngày, phụ nữ 20 xu. Gạo 1 ki lô giá từ 10 xu tăng lên 17, chủ đã  thỏa thuận với Khâm sứ Trung kỳ là phải tìm cách tăng lương cho dân bản xứ.

Thấy đám đông biểu tình đòi tăng thêm 6 xu/người/tháng, mà chủ đã cho  tăng như vậy là quá nhiều. Người ta bán gạo theo giá cũ, thì thực tế mới tăng cho công nhân 1 xu lương mà thôi. Như vậy cuộc biểu tình không còn lý do gì đòi hỏi về kinh tế lẫn nghề nghiệp.

Ngày 1 tháng 5, từ 6 giờ sáng không một công nhân nào vắng mặt.  Toà sứ được mật báo từ đêm trước ( 30 tháng 4) , sẽ có một cuộc tập trung nổi dậy, bắt đầu xuất phát từ vùng nông thôn ở gần đó.  Cuộc nổi dậy luôn luôn được tổ chức vào đêm tối không trăng.  Tốp đầu sỏ âm mưu bắt đầu ngồi xổm ở bờ ruộng, trong khu  rừng rậm rạp, trong hầm tối- không dễ gì phát hiện được. Cảnh binh  xục xạo trong các cánh đồng, rừng rậm, cả trong hầm tối- chẳng thấy gì, cũng chỉ uổng công thôi.

Mặt trời ló rạng, thì ở đâu lại túa ra khoảng1500 người nhô ra khỏi mặt đất tập họp hàng lối qui củ, ung dung hướng về Bến Thủy.

-Bọn này là tuị nào? có thật là không có công nhân nào trong xưởng máy tham dự biểu tình không?  Bọn này từ đâu tới? trong làng xã hay ở đâu kéo về. Bọn chúng muốn gì?

Chẳng ai trả lời chính xác được- mà chỉ nhìn thấy 1500 người lặng lẽ, không cờ, khônghuy hiệu, không biểu ngữ- họ đi rất trật tự có tốp hướng dẫn xếp đặt người biểu tình đi sát lề đường, dành chỗ cho xe hơi chạy.

Người ta khôngnghe thấy gì, ngoài 3000 bước chân đất rầm rập nện trên đường. Thanh tra tây, Le Petit cùng 50 lính tập võ trang súng ống, đạn dược, đã tới  đường cái lớn. Thêm huyện quan đi bên cạnh làm thông ngôn.

Đầu tiên ra lệnh giải tán- họ không tuân lệnh-  lại ra lệnh buộc đầu hàng - nếu không thì bắn bỏ- huyện quan thông dịch đúng lệnh ban ra từ thanh tra.

Đoàn biểu  tình  hàng đầu hơi do dự đôi chút. Những người phía sau chỉ nghe thấy lời nói truyền theo hàng xuống dưới, và hàng người vẫn tiếp tục rầm rập trên đường- không nói một lời không tiếng kêu la. Và cách chừng 500 mét, thanh tra Le Petit lên tiếng khuyến cáo đầu hàng( lần hai)-đoàn người vẫn không dừng lại.

Họ vẫn cứ tiến tới- từ phía nhà máy trông rất rõ- chủ tây nấp sau giậu sắt từ từ xuất hiện trên bục. Lại nghe thấytiếng thanh tra Le Petit:
-Không nói đùa, lệnh là lệnh,  súng đã lên đạn- chúng bay không chịu giải tán, tao ra lệnh bắn.

Như để hỗ trợ lệnh ban ra – thanh tra tây lên đạn súng lục. Huyện quan thông dịch lệnh thanh tra cho đoàn biểu tình.

Và lúc đó, vài tên lính tập bị đám  đông xô đẩy, làm  rơi lưỡi lê xuống đất- người hướng dẫn đòan biểu tình nhặt lên.  Vụ lộn xộn xảy ra, khiến thanh tra tây bị thương nhẹ ở tay.
-Bọn này định làm gì? Đám đông biểu tình muốn gỉ?  hay là chúng muốn tước khí giới lính khố xanh?

Chỉ cần một khẩu  trong 50 khẩu súng rơi vào tay một trong số người biểu tình kia, tất nhiên sẽ dẫn tới cuộc bạo động đẫm máu.  Đám biểu tình này có ý định chiếm xưởng máy không?  Người ta vẫn thấy thợ thuyền tiếp tục công việc, như không có chuyện gì xảy ra, hoặc chúng tiếp tay với đám biểu tình bên ngoài?
Và đêm bi thảm ở Yên  Bái được nhớ lại- lát nữa đây nhà máy có thể bị chiếm, thiêu hủy- người Pháp  bị tàn sát, không chừng?
Thế là thanh tra tây nổ súng khai hỏa. Lính khố xanh bắn huà theo thầy.

Người ta nghe thấy tiếng kêu la hỏang hốt, người người ngã gục xấp mặt xuống đất.  Có người chỉ chạy được mấy bước, rồi lăn ra, và cứ tiếp tục như thế- có người nhảy xuống  ruộng ẩn náu, kẻ nhảy xuống hầm ẩn núp.

Vậy đảng phái nào đứng sau lưng đám biểu tình yên  lặng này?

Người ta kể: Đảng Cách mạng Tân An Nam, Đảng Quốc gia Việt nam, Đảng Thanh niên Cách mạng, Đảng An Nam Độc lập, và cuối cùng: đảng Cộng sản Việt Nam…

Tôi tóm tắt lại những gì nhà báo  cấp tiến Louis Roubaud đã nhìn thấy tận mắt, đến tận nơi và được chứng kiến, rồi viết lại với tấm lòng yêu nước, thay cho dân An Nam bị thực dân Pháp bảo hộ.

Lượt đi, hướng dẫn viên đã thông báo, trước khi đi Ninh Bình- tài xế Năm sẽ đưa đi thăm Làng  Sen, Làng Trù ( quê nội, ngoại Hồ Chủ tịch ). Khi xe vào ranh giới huyện Hưng Nguyên-Nghệ An: quê anh hùng Phạm HồngThái giết hụt  Merlin, toàn quyền Đông Dương, sang chủ toạ bữa tiệc, do một viên chức Pháp tổ chức tại khách sạn Victoria, vào 8 giờ sáng ngày 8 tháng 6 năm 1925.

Và xác anh hùng người An Nam được dân chúng Quảng Châu ,chôn trên đồi Hoàng Hoa Cương, với hàng chữ khắc trên bia mộ:
… Câu chuyện này được ghi lại để vạn đại lưu truyền nhớ đến Phạm Hồng Thái. Bia này được dựng vào ngày lành tháng tốt: tháng giêng năm thứ 14 Cộng hòaTrung hoa Dân quốc.Bia đá do: Hồ Yên * ở Phiên Ngung- tặng anh hùng Phạm Hồng Thái nước An Nam
-------   
( * HỒ YÊN, tên hiệu của một gia đình vong gia quí tộc Hồ Hán Dân, thời kỳ xảy ra cuộc ám sát-thì chức vụ khi ấy là tống đốc tỉnh Quảng Đông.)


Tôi đi lên phía trước xe, ngồi ghế xúp đểdễ nhìn bao quát quang cảnh  huyện  Hưng Nguyên ( cũng như lần qua Thái Bình, tìm cho được huyện Quỳnh Phụ-nơi ăn chốn ở người bạn thân-Nguyễn Thế Hiển đã qua đới ở xã An Bài vào năm 2005)

Nhà cửa huyện lỵ Nghệ An  thuờng xây nhà trệt, mái thấp, trên mái chặn những bao cát, chống bão táp mưa sa hàng năm. Hàng chữ  HUYỆN HƯNG NGUYÊN  tô bằng xi măng từ rất lâu đời, đóng khung trên auvent trước trụ sở Ủy ban huyện. Bởi lẽ, tôi muốn  quan sát thật kỹ, nơi đã sinh ra Phạm Hồng Thái, người anh hùng trên hai mươi bốn  tuổi để  lại phía sau người vợ trẻ hai mươi , cùng đứa con thơ mới ra đời, lên đường mưu nghiệp lớn,  chuyện không thành, bị bắn  rồi lao mình xuống dòng Châu Giang trầm mình , sau thân xác được dân chúng Quảng Châu vớt lên ,và chôn  cất cùng 72 liệt sĩ  trên đồi Hoàng  Hoa Cương  được  vạn đại luu truyền người anh hùng nước An Nam :

“… và Hoàng Hoa Cương, nơi có mộ 72 liệt sĩ- trong đó có một Phạm Hồng Thái. Cây cối trên đồi xanh ngắt, rộng rãi - những khỏang xanh cần thiết cho người chết và người sống mà Hà Nội giờ đây không còn nữa.  Đài kỷ niệmTôn Trung Sơn, tòa nhà trắng kiểu Hoa Kỳ do Tưởng Giới Thạch xây có khắc ngôi sao Quốc dân đảng thật lạ, lại không bị Hồng vệ binh phá hủy.Tôi thấy  dòng Châu  Giang khi mới tới Quảng Châu. Nhìn dòng sông lớn chảy xiết, hai bên tòa nhà cao tầng đèn xanh đỏ lập loè, tôi tự hỏi không biết ngày xưa, khi việc lớn không thành, bị bắn tử thương, Phạm Hồng Thái đã lao mình xuống sông ở đoạn nào? 

      Được biết người thanh niên liệt sĩ ấy là chú của chồng tôi, ông
(cán bộ - NV thêm ) đối ngoại của Quảng Châu có vẻ rất nể trọng.  Các bạn Trung quốc chỉ cho tôi khúc sông ở Sa Diện, nằm giữa đoạn đường đi từ nơi tôi ở- khách sạn Hoa Hạ- tới nơi chiêu đãi, khách sạn Thiên Nga Trắng.


Dòng sông lạnh buốt ngày nào, người thanh niên ấy bỏ lại quê hương một người vợ trẻ và đứa con trai mới ra đời.  Vậy mà ngay dưới thời Tưởng Giới Thạch, có người dân Trung quốc đã vớt xác người Việt Nam hy sinh nơi đất khách, chôn cất tử tế… tôi đã sống nhiều năm bên cạnh bà Phạm HồngThái , bà ở nhờ căn phòng phụ của nhà chồng tôi khi ra Hà Nội. Một trong những phụ nữ hiền nhất mà tôi đã gặp. Cho tới lúc đó, bà vẫn nghèo và vất vả. Không biết bà đã được tới Quảng Châu thăm mộ người chồng mà bà đã mất từ  lúc mới hơn hai mươi tuổi chưa? Giờ đây nhìn ngôi mộ cô đơn của bà ở Bất Bạt, tôi cứ nghĩ thật lạ, hai con người gắn bó đến thế mà giờ đây họ ở hai phưong trời.

Dòng sông chảy xiết, tôi chợt nhớ tới khúc hát quen thuộc, mạnh mẽ thường được hát từ thời Cách mạng tháng Tám:
                                               Kià sông Châu Giang còn lưu dấu máu thắm
                                               của bao dân năm xưa cướp chính quyền
                                                Lòng muốn nhân dân Quảng Châu
                                                quyết chiến đấu cùng quân gian tham đang sẵn oai quyền

Lời hát thì đã cổ, nhưng điệu nhạc mãnh liệt vẫn như đang tuôn chảy với dòng sông tràn đây sức sống..”  . 
( trích TẦM XUÂN / Đặng Anh Đào - sách đã dẫn)

 Vậy thì, Phạm Hồng Thái không phải sinh ra ở Bắc kỳ, cũng  không phải ném bom xong rồi  nhảy xuống sông trầm mình như Louis Roubaud đã viết ( sách đã dẫn).Vậy là, phải cảm ơn tác giả Tầm Xuân , đã chỉnh lý sai sót gốc gác- anh hùng Phạm  Hồng Thái bị bắn rồi mới lao xuống sông Châu Giang, và còn  được biết thêm đời sống ẩn lặng rất anh hùng của người vợ.

Qua cầu Nghèn , tới huyện Can Lộc- Hà Tĩnh- nơi chúng tôi  tới thăm Ngã ba Đồng Lộc- mộ mười nữ liệt sĩ giao thông vận tải hy sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam-  hàng chữ được khắc trên bia Đài kỷ niệm đầu tiên- trước khi vào Đài kỷ niệm chính ở Ngã ba- nằm trên  đồi Trọ Voi thuộc xã Đồng Lộc.
Theo  lời thuyết minh, mộ các cô thanh niên xung phong được chuyển  đi chuyển lại tới ba lần, và trên mười năm nay mới chuyển hẳn về ngã ba này.
Tổ gồm mười liệt sĩ anh hùng, tôi đọc trên mộ bia mười cô-có ba cô Hồ Thị Phúc, Nguyễn Thị Nhỏ và Võ Thị Tần đều sinh năm 1944, và ít tuổi nhất là cô Võ Thị Hà sinh năm 1951, bị trúng bom Mỹ  tử nạn đúng 16 giờ chiều ngày 21 tháng 7 năm 1968.
 Chi riêng Ngã ba Đồng Lộc vào năm 1968- ước tính có tới gần ngàn lần bị ném bom và không dưới năm ngàn quả- trung bình 25/lần/tháng, mỗi ki lô mét vuông nơi đây hứng chịu ba quả bom tấn.  Các cô bị bom vùi lấp dưới hố bom sâu như chiếc ao cạn- hồn trinh nữ không biết giờ đây còn phảng phất đâu đây, nơi cánh rừng tịch mịch, quạnh quẽ?
 Lại ngắm  hai cây bồ kết xanh tươi ở phía sau mộ - dăm bẩy câu văn vần  khắc trên bia: …Ngày bom  vùi tóc tai bết đất / Nằm xuống mộ rồi, mái đầu chưa gội được -của đồ Nghệ Vương Trọng.
Và, lại đưa máy ảnh lên chụp hố bom lớn như cái ao ở phía trước Đài kỷ niệm- dưới trũng cắm tấm biển ghi nơi trái bom đã ném xuống làm  chết mười  cô  liệt sĩ giao thông.

Một số địa danh lướt nhanh : Cẩm Xuyên, Kỳ Anh…rồi  lùi  cũng rất nhanh về phía sau. Bây giờ trước mắt : Quảng Trạch-Quảng Bình, và chuẩn bị :

                                                         Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
                                                         Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Đó  là thời Bà  Huyện Thanh Quan  tức cảnh sinh tình tới Đèo Ngang- và bây giờ đây, tôi sắp được nhìn thấy nơi đó- bỗng dưng nghe hướng dẫn viên  thông báo:

-Sẽ không leo lên đường trên núi như Bà  Huyện Thanh Quan  khi xưa dừng chân làm thơ-  bây giờ trên đó cũng xơ xác lắm, có gì thơ mộng đâu?  Đi lên đỉnh nuí vừa xa, vừa tốn xăng dầu, mất thời gian- nên   gia đình Nimbus thông cảm-  anh Năm ơi, cho xe chạy đường dưới chân  núi cho lẹ.

Thôi cũng đành vậy, giả thử cô Thu Vân  San José hoặc Lê Duyên đang chu du Anh quốc, hỏi: thế anh chị đã leo  lên Đèo Ngang chưa, vào lúc mấy giờ, ngày nào ,thời tiết ra sao- có biết chỗ nào bà huyện Thanh Quan đã dừng chân- từ trên núi ngắm biển rộng sông dài tức cảnh ngâm nga:.. bước tới ĐèoNgang bóng  xế ...

thì cũng đành ba hoa xích thố, này nhé Bà Huyện  lên đèo thì trời ngả về chiều, khoảng  bốn, năm giờ gì đó-  cô Lê Duyên đang  ngồi  uống trà sữa, ăn bánh ngọt, theo đúng lệ dân xứ sương mù- còn Thu Vân  đang dạy nhạc đám học trò Thung lũng hoa vàng-  anh chị đang đứng đây nhìn trời, mây,  sông, biển- lại chẳng có một  câu vè nào  ra khỏi miệng? Và bây giờ đèo Ngang vẫn còn cây chen đá, và chẳng còn nhìn thấy cành lá nào chen hoa? Không lực Mỹ  đã cày xới đất này, thả bom bi, bom nổ, bom chùm, bom khai quang… làm gì còn hoa  tươi tốt nở trên cành!?
Nói thì nói vậy - cho người ở xa nghe lọt lỗ tai thôi- vậy ba bông hoa nhỏ xíu có hai cánh đỏ chót mọc tách lên từ một kẽ đá rất nhỏ từ ta luy đá hoa cương Ngã ba Đồng Lộc, thì phải giải thích sao đây?

-11 giờ trưa đến Bố Trạch.  Và phóng tầm mắt nhìn  ra biển - chẳng biết Cao Lao Hạ nằm chỗ mô, nơi  sinh ra  Lưu Trọng Lư-nhà thơ tiền chiến, tác  giả: con nai vàng ngơ ngác / đạp trên lá vàng khô / . Có
người nhận định tác thiệt con nai vàng ngơ ngác ở xứ Phù Tang -chứ không đạp tà tà trên đỉnh Đèo Ngang đâu- rất dễ bị bé cái lầm!

-11giờ 15 trưa: thị trấn Hoàn  Lão- tên nghe hay chi lạ- tôi chỉ mới được nghe cải lão hoàn đồng, chưa hề nghe địa danh  Hoàn Lão. Liệu địa danh này có ý nghĩa ẩn chìm nào chăng? Chẳng hạn Tu Bông-Khánh Hòa, có kẻ cho rằng quan công sứ từng thốt ra cửa miệng : tout va bon!

Lại được nhìn  bảng chỉ dẫn lối vào động Phong Nha-Kẻ Bàng.- cách đây khoảng 40 cây số, được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới đã được bốn năm.  Và phóng viên báo Sài gon -giải phóng so sánh:

“…Bốn năm chẳng  là gì với sự kiến tạo 400 triệu năm của di sản này. Tuy nhiên trong bốn năm của thời đại bây giờ được tính bằng vàng từng giây từng phút.  Bốn năm đủ để con người làm khối việc nhưng ở vùng đất này chuyện đất đai, quy hoạch, đều căn cứ vào hai chữ nhờ trời. Rất lạ!”   
(  trích MINH PHONG - báo Sài gòn- giải phóng- năm 2006.)

Vậy lạ như thế nào, nhà báo kể rằng ở Phong Nha-Kẻ Bàng đang có phong trào bán đất sang tay. Dân chúng xã Sơn Trạch đang cất lên hàng trăm căn nhà tạm, lợp mái lá không vách,  nhà chỉ có mái, trống huơ, trống hoác- họ mong đợi sau khi quy hoạch sẽ bán đất giá cao- rồi lại nghe tin đồn sắp có đường mở rộng từ đuờng  Hồ Chí Minh vào  tận Phong Nha-Kẻ Bàng.

Nhìn một thủy đài to đùng được dựng lên bên  bờ sông Son, tốn hàng bốn tỷ đồng- nay trở thành đồ phế thải-  dân chúng đặt tên TRÁI BẦU KHÔ.
Rồi đến dự án du lịch sinh thái có diện tích khỏang 50 héc ta của Công ty Phát triển văn minh đô thị, sau mấy năm khởi công, nay chỉ còn lại cây trụ CỘT ĐÁ HỒ ĐỒ mọc lên sừng sững  ngắm trời mây, sông nước bên  bờ sông Son. Thân cột đá như thân cau, dây trầu sắt quấn quanh lên tới ngọn- trên đỉnh có bốn nhánh lá sắt như canh bom.
  Còn trung tâm du lịch sinh thái  có  những toa lét cảm ứng, khách giơ tay vào  bồn, nước tự độngxả, rút ra tự  động tắt- giữa núi rừng hoang vu , rất it khách.  Công việc làm của một số nhân viên là bán vé lẻ  cho du khách thăm hang động mà thôi . Dân chúng đặt vè mang tính chất phúng thích chính trị :

                                                             Phong Nha có trái bầu khô
                                                             Có cây cột đá hồ đồ mọc lên

Hướng dẫn viên có lời bình:
-Nhờ đọc phóng sự phóng viên báo Sài gòn, cháu mới được mở rộng tầm mắt- để mỗi lần đưa khách vào  đây mới biết trả lời tại sao  lại vậy?

-14 giờ đúng đến cầu Hiền Lương- và kia là sông Bến Hải lịch sử có đôi dòng.

Chúng tôi  xuống xe, trời nắng như lửa đốt xém mặt mày- vội  chạy tới  chụp ảnh cầu Hiền Lương  phục chế, cầu này chỉ để khách đi bộ , còn cầu mới xe qua  lại  rầm rầm.

Chú Ba trong nhóm ông Đặng phát biểu khơi khơi :
-Cầu phục chếcầu mới- còn cầu mới xây là cầu mới làm lại  – tôi piết thật mà!
      Chẳng thấy ai ngỏ lời tranh cãi ăn thua đủ với chú Ba, có lẽ  nói ngang ba làng cãi không lại .
- Cầu phục chế là  cầu Hiền Lương cũ-mới- còn cầu Hiền Lương  mới mà chúng ta sắp đi qua là cầu Hiền Lương mới-mới- tôi nói với ông Đặng vậy.
Người cười lớn tiếng nhất :hướng dẫn viên Tua.

Mặt trước cầu cũ phục chế mới ở hướng bờ bắc- một bảng lớn sơn xanh, chữ trắng ghi:

                                                       PHỤC CHẾ CẦU HIỀN LƯƠNG
                                                           XÂY DỰNG NĂM 1952-
                                                     CHIỀU DÀI: 8M / RỘNG : 3,28M

-Cầu Hiền Lương cũ có 894 miếng ván ngang lót mặt cầu-nay phục chế còn 873 hay 874 miếng-tôi lấy sổ tay ghi đúng vậy.

Qua cầu sang  hướng bờ nam  đến Cồn  Tiên –khu DMZ- khách phuơng tây dừng lại chụp ảnh, quan sát, ghi chép, quay phim, đi bộ ngắm cảnh- có người còn tìm  một chỗ vắng vẻ,  đứng nhìn ra xa đang suy ngẫm điều gì đó rất mông lung.  Dieu seul le sait! (Có Trời mới biết!)
-14 giờ 5 chiều đến Gio Linh-Quảng Trị. Tôi  hát khe khẽ nhạc điệu ca khúc Bà mẹ Gio Linh-Phạm Duy, thời kháng chiến đi xa hơn nửa thế kỷ. Bây giờ đây, tôi  đặt chân lên mảnh đất máu loang thẫm đỏ -mầu đất nâu đen.

-6 giờ  chiều,  bác tài đậu lại châm dầu tại Trạm xăng dầu Ngự Bình-Huế.  Mọi người bước xuống xe đi bộ thư giãn, và có vị  lại thích đi xa hơn toa-lét, vào bụi  rậm tưới cây, hoa lá đất Thần kinh.  Sẽ không đi đuờng hầm nữa, lần này leo đèo Hải Vân để bà con, cô bác ngắm Hải Vân quan và đường đèo rồng rắn
thật đẹp  và cũng  thật hiểm nghèo.  Tới đỉnh trời tối sập, chụp dăm cũng  chỉ cho có- chẳng biết hiệu quả ra sao-  chỉ được thoải mái là không bị hàng rong bám quanh chèo  kéo  mua hàng như ban ngay.


-19 giờ 30  tối mịt mờ đến Vĩnh Điện-Quảng Nam –nhìn sang hai bên đường xem có tìm được quán cà phê của nhạc sĩ Đynh Trầm Ca? (nhất định xài Y dài-khác Trần Huiền Ân-Tuy Hoà ưa  thay Y dài bằng I ngắn) .Nhạc sĩ  vừa in nhạc vừa in thơ, sau bao năm trụ tại thành phố Bác, gom góp ít của nả, dắt vợ con về quê- bán quán kế sinh nhai thường nhật.

Tự hỏi thôi,  anh có vợ rồi- vợ  chính thức đầu gối tay ấp hẳn không phải  cô chủ tiệm may Hà Lam-Thăng Bình- rất xinh gái xưa kia- nay đang cầm kéo cắt may dưới ánh đèn huỳnh quang – cửa hàng cô đối diện  quán cà phê nhạc- nhớ thuở dậy thì  làm chết bao chàng trai say đắm!

Có một lần đi  đường Hồ Chí Minh  chạy thẳng ra Huế, qua đèo Lò Xo, ta luy vách  núi chân đèo Ngọc Linh đổ  ập xuống đường- và thợ làm đường tư vấn-không thể ra Huế- bởi A Roòng đã bị lấp đường, vậy hãy qua Khâm Đức đổ xăng, men tỉnh lộ Hiệp Đức-Quế Sơn ra Thăng Bình, Đà Nẵng , sau cùng cũng tới Huế.

Chúng tôi tới Hà Lam thì  tối mịt.  Lái xe Vân thấy bên đường Hà Lam có  quán cà phê sáng đèn, bác tài gợi ý vào ăn mì Quảng dằn bụng, đi tiếp Bà Nà ngủ đêm, sáng sau leo núi Bạch Mã, ăn trưa Huế, 6 giờ tối về Nha Trang, hôm sau  trở về Sài Gòn.

Ba chúng tôi vào quán cà phê, chủ trạc bốn mươi ngồi  chung bàn hỏi chuyện từng khách. Nhìn tôi, ông quyết đoán: cụ trẻ dáng nghệ sĩ tợn- thế là ông đem chuyện cô chủ Hà Lam kể vanh vách.
-Nào có nghe  danh nhạc sĩ-nhà báo-nhà giáo  Bên Trời Sao Sáng chưa? Ông ta chỉ hớp đôi mắt cô ta một lần ,sáng tác được ngay ca khúc Thu Lam tuyệt hay.  Mà không phải chỉ hai  ba nhạc sĩ mê đâu nghe, còn dăm chàng nữa ,nhận được cái liếc âu yếm ban đầu ,sau đều làm nên sự nghiệp cả.

Ông lại  kể tiếp đất này dữ lắm, lính Quốc gia sợ mặt trận này hết biết, đất này nhuộm máu chiến sĩ hai phía chảy loang cánh ngập đồng lúa đỏ Hà Lam.

 Tôi ghi nhận- gọi trả tiến: ba ly cà phê đá, ba bát mì Quảng -chưa dứt tờ giấy bạc mệnh giá năm chục nghìn!

-Ôi sao lại khổ thế này, chưa thấy Phố Cổ mà chỉ gặp Phố Khổ thôi!

Ông Thành than như bọng- bác tài không thuộc đường, trời tối mịt mờ-đường Cửa Đại dài hun hút, đen đường chỗ sáng, chỗ lu- chẳng biết khách sạn Green Field nằm chỗ chỗ khó khiếm rứa!
Hướng dẫn viên xuống hỏi đường, người này chỉ lối này, bác tài tưởng chỉ đúng, hăm hở cảm ơn. Xe chạy mãi, hết đường nhựa sang đường đất, vậy lạc đường thật rồi.

Anh Năm  đậu xe lại- phụ xe chạy vào một biệt thự gần đó, hỏi chủ nhà cho chắc ăn- vậy là đã đi lạc khoảng hai chục cây số- xe trở đầu chạy thẳng hướng biển Hội An.

Đèn đường, đèn nhà sáng choang, trước mặt bây giờ mới đúng khách sạn hai sao  Green Field- bữa cơm tối nay dở mấy cũng ngon miệng- ai cũng đói bụng- nhìn đồng hồ đã 9 giờ đêm.

Khách sạn hai sao đúng tiêu chuẩn,  phòng ốc hiện đại, hồ bơi nước xanh lơ mát mắt, giường êm, nệm trắng, lại có vài bông cẩm chướng  trải trên đầu giường như chào đón cô dâu, chú rể- thật sự giờ này được gỉải tỏa nỗi khổ tìm phố cổ- mình tôi uống cà phê đen thơm lựng , rung nhịp chân nghe bản Greenfield, sao hay đến vậy !



MƯỜI MỘT:   HỘI AN -NHATRANG -SAIGON.




Tối qua, khách sạn phố cổ dành cho một phòng thật ấm cúng, đủ tiện nghi, nhất là được dìm thân xác buị bậm trong bồn nước nóng như được vỗ về êm ái.

Chẳng bù  hơn mười năm trước, theo chuyến du ngoạn chi hội Phú Thọ Hòa ,thân xác bị đoạ đầy ngồi lên giập xuống  như con choi choi, đầu đụng  trần . Khi tắm mở vòi hết cỡ, nước chảy từng giọt chực chờ  xi nước đái trẻ. Ngồi trên xe,  một cô trẻ tuổi- tên Tường Vân- thờ phượng ở Hội thánh Trương Minh Giảng hỏi- sao chú chịu đựng tài thế- bèn vênh váo thành tích tham gia cách mạng 10 năm trên xe búyt * đây là chuyện nhỏ. Cũng chẳng thèm kêu ca, đăng ký sớm  ngồi trên, già cả được ưu tiên- tuy nhiều nhiều tuổi, tóc hớt trọc, dáng khoẻ mạnh, tính tình lấc cấc- nên hội thánh xếp loại thanh tráng cho  ngồi băng chót.  Cô Tường Vân  bày tỏ - vậy chú cứ nên cảm ơn Chúa đi - kể cả hanh thông hay bị bức bách- đây đích thị  ý tồi quản nhiệm lại nhân danh ý sáng Chúa !

Đi  đường đã mệt, cơm tối  xong, quản nhiệm tập họp con cái  nhóm hát thánh ca, đọc một đoạn kinh thánh, nghe truyền đạo lên giọng rabi** chia xẻ.
Thường ra chỉ vợ tham dự và tham gia hết thảy buổi nhóm, còn tôi bữa có bữa không.  Vợ nhòm về thấy chồng nằm ườn trên giường, phê ngay-  tin chúa  1979 đến nay vẫn như  tình trạng con đỏ- con đỏ chỉ uống được sữa- chưa tiêu hoá nổi thức ăn rắn.

Đó là câu trách móc nặng nề đối với Cơ đốc nhân chưa làm tròn phần vụ- nghe đủ , tôi vẫn vờ nhắm mắt. Cón nữa, đã là tín hữu Cơ đốc thấy cái gì dường như  bất khiết
* Rabi: tiếng cổ Do Thái gọi là thầy ** trong  hồ sơ công nhân viên chức có hạng mục ghi : gia nhập cách mạng từ bao giở?
phải tự biết tránh, thân thể đền thờ thánh không thể  tự làm ô uế-  dầu kinh thánh không chỉ rõ ra, anh hút thuốc lá trong  hội thánh là vấp phạm, chẳng hạn vậy.
Trên xe, chẳng tín hữu nào bập bùng  khói thuốc, trừ tài xế, phụ xe thở khói phì phì- lý do chính đáng; hút chống buồn ngủ, đảm bảo sinh mạng hành khách.
Khi tôi định châm  lửa hút thuốc, cô Tường Vân ngồi cạnh không nói gì, chỉ nhăn mặt, tay bịt miệng- vậy  tôi đã gây vấp phạm anh chị em trong Chúa - hơn nữa có sự hiện diện vợ ngồi ghế xúp hàng trên , cũng bị mất mặt, như vậy lại càng không thể tha thứ!
Cúi đầu cầu nguyện Ngài giúp đỡ con cái lúc gian truân kêu cầu - thì Ngài sẽ không bỏ qua đâu.

 Sáng sau, ngồi quán ở Đà nẵng, quyết tâm uống cà phê không thuốc lá- thế rồi cơn thèm dấy lên, tôi ngáp vặt liên hồi. Vợ hỏi , ngáp gì  mà giống hệt người nghiện xì ke ma túy vậy?
Về lại Sài Gòn, không còn  hút thuốc nữa- vậy cuộc đi chơi cùng  anh chị em Phú Thọ Hoà giúp bỏ thói hư, tật xấu  một cách nhưng không - mà từ lâu tôi đã không thể.
Lời đầu, cảm tạ Đấng Christ.
Lời sau, cảm ơn tác giả viết bài dưới đây.

                                                     TRƯỚC MỘT BAN THỜ
                                           bài viết: CAO MỴ NHÂN

Không phải kể chuyện đời xưa, song các cụ ta đã có câu rằng không có XƯA  thì làm sao có NAY - Ví như hâm ngôn có kiêng có lành, hay ít nhất là ĐI với BỤT mặc áo CÀ SA đi với MA  mặc ÁO GIẤY vậy.
Nói huỵch toẹt ra  rằng, xưa nay trong CHỐN BỤI HỒNG có nhiều điều, lắm chuyện mà  như sự tình cờ, nhưng đúng là bộ máy huyền vi sắp đặt của Trời Đất ấy.

Ông bạn THẾPHONG thời đệ I cộng hoà, nhà văn phê bình nổi tiếng cao bồi, anh ta luôn luôn thắt cà vạt trễ xuống gần thắt lưng, nhìn xa giống như anh tự chui đầu qua một vòng dây thòng lọng- THẾPHONG hầu như chẳng nể nang ai, kể cả phụ già và phụ nữ trong làng văn nghệ trước năm 1975.
Người ta, tức là bạn và người quen trong lòng hơi ngại, nhưng ngoài mặt vẫn phải làm tươi, khi va chạm tầm nhỡn của THẾPHONG.

ThếPhong ưu ái nhắc đến tên trên báo chí, thì chẳng ai vui vẻ tí nào, vỉ vẫn là chuyện làng văn, đâu phải bè phái xôi thịt mà hơn thua, dao thớt…
Nói thế không có nghĩa là Thế Phong du đãng đến nỗi phải kiêng dè, bởi lẽ đôi  khi Thế Phong cũng đã thầm nuốt tủi, gạt lệ… cô đơn nơi góc tâm hồn anh.

Thuở đó, một lần tôi bắt gặp Thế Phong đứng lặng trưóc tượng CHÚA đang giang tay trên thập tự, anh đi tìm cho anh một đức tin để an ủi, khích lệ ở nhà thờ Tân Sa Châu.Khi tan lễ, Thế Phong nói rằng:
-Người ta bảo tôi cứ đứng yên trước một ban thờ, thế nào cũng tìm được một ĐỨC TIN. Tôi ở Lăng Cha Cả này, thì đến đây gần nhất, tôi muốn thử xem đức tin có vào mình không?
Tôi làm bộ chăm chú hỏi:
-Anh thấy trong người thế nào, khi anh đứng trước CHÚA CỨU THẾ từ nãy giờ?
Ánh mắt Phong hừng lên, lẫn lộn ý bất khuất với nỗi tuyệt vọng, pha chút tự ái, anh sợ tôi cười anh, vì anh muốn duy tâm, anh bất lực cuộc đời nên muốn dựa vào tôn giáo để  sống cho có ý nghĩa chăng?
Bấy giờ, tôi rất mừng,  nếu THẾPHONG tìm được niềm tin, còn hơn cứ tiếp tục với cái đầu trống rỗng trên một bao tử lép kẹp,thì… khổ nhất cuộc đời rồi!

Chính biến năm 1975, bạn bè nghĩ rằng Thế Phong sẽ thích hợp hơn với xã hội cộng sản, vì mặc nhiên liệt anh vào đội ngũ vô sảnvô thần, bởi lẽ  bản thân anh không có chút vốn liếng và  chẳng bao giờ anh thốt được tiếng TRỜI ƠI hay MÔ PHẬT gì cả.

Sau mấy năm học tập cải tạo, tôi trở về thành phố, cuộc sống không biết nên bắt đầu lại bằng cách nào, tôi cảm thấy bơ vơ, buồn tủi, nhìn ra thiên hạ, toàn những bộ mặt không quen, tôi chưa có ý nghĩ đi tìm một tình thương yêu trước một ban thờ tôn giáo. Những buổi trưa, nghe tiếng vượn hú từ Sở  Thú vọng qua sông, tôi đang ở sát bờ sông Thị Nghè, tâm hồn tôi tan nát chi lạ!
Bỗng có tiếng nói nghe rất quen, dù đã bao năm xa cách:
-Cô M, ơi, hôm qua nghe tụi nó nói là cô đã đi cải tạo về, tôi đến thăm đây.
A, té ra nhà văn Thế Phong vẫn còn đây, anh ta không di tản, và không biết có phải đi học tập không?
-Lâu quá nhỉ, không ngờ gặp lại anh.
Anh ta vẫn giữ nụ cười khinh mạn xưa, nhưng nay đôn hậu hơn, anh thấp giọng:
-Tôi đến để thực lòng khuyên cô hai điều: thứ nhất, còn ở đây thì đừng viết lách gì cả, dù ca tụng hya đả phá. Thứ hai, tối mốt vợ chồng tôi mời cô đi thăm nhà thờ TIN LÀNH ở đường Công lý, cô nên đi, vì nếu không, cô se rơi vào tình trạng tôi thuở trước.

-            Tôi bị giao động mạn bởi hai điều vừa tuyên bố, dù Thế Phong không là gì cả, nhận định của anh vẫn thật đúng với đa số những người Sài Gòn cũ khi sống dưới chế độ cộng sản. Những năm kế tiếp, tôi càng khâm phục Thế Phong ở thái độ  không cầm bút và nhất là yên lặng ĐỨNG TRƯỚC MỘT BAN THỜ.
-            Ba người chúng tôi ngồi cùng một dãy ghế đầu tiên nơi nhà thờ Tin lành Báp tít Ân điển, thỉnh thoảng tôi phải liếc sang vợ Thế Phong để làm theo những cử chỉ của chị, lời cầu nguyện dân gian đùa trong ngoại đạo xưa:  ai làm sao thì tôi làm vậy, khiến tôi trở thành quê mùa và ấu  trĩ.
-             
-            Mục sư nói câu gì tôi không kịp nhớ, mọi người  lặng lẽ, bỗng tôi thấy anh chị Thế Phong nói như thổn thức về những chuyện riêng trong nhà, tưởng không đáng kể ra,  không phải nói thầm vơi CHÚA, mà như nói cho cả dãy ghế sau cùng nghe.  Tôi không thể bắt chước được nữa, tôi lại ngạc nhiên là cách tôi chưa đầy một thước, Thế Phong đang đứng gục mặt xuống cầu nguyện thiết tha, anh quên cả vợ anh bên cạnh, và nhất là không nhớ đến sự  hiện diện lạc lõng của tôi lúc bấy giờ. Tôi nghe được tiếng của anh như tự đáy lòng thốt lên: CHÚA ÔI rồi lại CHÚA ÔI.
-     Thiếu đường tôi ngã bổ người ra, một Thế Phong bất trị xa xưa, nay đã tự xếp hàng dưới chân Thiên  Chúa. Rồi bản thánh ca vang lên, với đủ giọng thanh trầm, trong đó giọng Thế Phong hát thật ngây thơ, trong sáng.
 -Việc khắp nơi, thuận ý CHA – Cuộc  sống nơi đây, nay ra sao – đừng quá lo- việc ta thấy trước mắt mỗi ngày-  đều theo đúng thánh ý an bài… vv..vv…
-      Tất cả mọi người đều ngồi xuống, tôi  vẫn còn đứng nguyên nhìn Thế Phong đổi lốt! Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, Thế Phong đã tách rời … tục lụy từ bao giờ, Thế Phong thánh thiện, xa vời…
Tan lễ, thay vì tìm hiểu trở về ĐẠO, tôi cảm thấy bơ vơ chi lạ, tôi suýt khóc mấy lần, khi vợ chồng Thế Phong cứ vui vẻ vinh danh Thiên Chúa bên tai tôi:
-    Cô M. ơi, lúc đầu anh chị chẳng có gì đâu, như M. biết, anh Thế Phong rồi chứ gì, anh ấy làm sao có thể tin được những điều trừu tượng, nhưng nay anh  ấy đã chịu phép trước CHÚA, TIN CHÚA, cuộc sống đổi thay ngay. Anh chị không có gì cả, nay 5 chiếc xe đạp,1 xe gắn máy, một cửa hàng mũ ở chợ Tân Định, cô M.  phải có ĐỨC TIN.
   -       Nước mắt tôi đã trào khỏi khoé mắt, bây giờ tôi lại không muốn khóc trước mặt Thế Phong, như ngày xưa  Thế Phong không muốn tôi hiểu lầm anh tuyệt vọng, phải đi tìm đức tin nơi nhà thờ Tân Sa Châu.
-        Bây giờ tôi là kẻ lạc loài đứng bên ngoài tất cả  .  
 -   Tôi sống lang thang ở quê nhà hơn mười năm, rồi sang Mỹ.  Tới tận cái nôi  của Tự Do mà tôi vẫn không ổn định được tâm hồn. Hoá điên mất nếu không có đức tin, tôi phải tìm đến những ban thờ.
-            -Thưa Mục sư, tôi tin là có Thượng đế lắm chứ, không có Trời ai ở với ai, lưới  Trời lồng lộng, nhưng giữa  lúc tôi đi tìm một đức tin thực sự, thì tôi bị ngộ nhận là  tìm ĐẠO để kiếm lợi cho ĐỜI, nên tôi xin phép, cứ tạm chưa vào ĐẠO để khỏi mang tiếng với ĐỜI.
-     mang tiếng với ai, với CHÚA hay với người ĐỜI.
-     Thưa Mục sư với người ĐỜI.
- Mọi người đều  do Chúa tạo nên, không phỉnh Chúa là được rồi, nhưng phải có lời TIN CHÚA thốt ra chứ, ngay đến vô một tổ chức, một đoàn thể, vẫn phải có đơn xin gia nhập, có  giây phút tuyên  thệ. TIN CHÚA nói chung thì  ai chẳng tin, QỦY nó cũng tin CHÚA nữa là người, phải không?

Tôi chợt nhớ lý luận của SATAN ( Sa tăng), ngày xưa tôi đọc được ở một tác phẩm Trung Đông
-Mọi người, cả Thiên Chúa nữa, đều phải cảm ơn TÔI vì Thượng đế, thì làm sao có sự tôn thờ Ngài. Nên đừng thoá mạ và tiêu diệt tôi, nếu tất cả mọi người đều thánh thiện như ý CHA, thì lấy gì so sánh, lấy gì thần phục, cải tà qui chính nữa đây.

Đó là chuyện ở Thiên đường- còn ở chốn bụi hồng này- nếu tất cả chúng ta đều thánh thiện, sự đơn điệu cũng đi đến buồn tẻ.  Chẳng còn chiến tranh để kêu gọi hoà bình, chẳng còn mục tiêu phấn đấu đi lên, hướng thượng gì cả.

Sự trống  vắng trong tâm tư, suy thoái niềm tin, là ở cả hai mặt dư thừa và thiếu thốn.
Khi bề ngoài đã đầy đủ quá rồi, người ta khao khát sự cứu rỗi của linh hồn, để không bị trả lời trước CHÚA về những tội lỗi đã làm.

Có lúc cuộc sống vật chất khó khăn, người nghèo khổ cảm thấy bất lực trước áo cơm, cũng phải tìm Thượng đế kiếm chỗ dựa cho tâm hồn, nội tâm yên ổn, quên đi những cái bất công xã hội, hy vọng tương lai khá hơn.

Thế thì, trở lại vấn đề BỤT vẫn là BỤT, mà MA vẫn là MA. Cái khó là MA phấn đấu lên thành BỤT, còn BỤT có lỡ chân lọt xuống cõi MA, thì cố gắng giữ gìn tấm áo CÀ SA cho sạch sẽ, thơm tho, chớ thấy ÁO GIẤY lộng lẫy mỹ miều mà vội KHOÁC.
Một ý kiến nữa là, ta đối xử với nhau cho rành rẽ, tế nhị , đối với người tốt thì cần chan hòa, thân ái, còn đôi với kẻ xấu thì phải KHOÁC ĐỒ MÃ mà hành hiệp thôi.

Nhưng cái ĐẸP NHẤT trên đời, không phải là may mắn có một tiệm như Thế Phong ở Saigon, để muốn đội một chiếc mũ nào cũng được, mà phải soi gương, xem thử chiếc mũ nào đội vào hợp với khuôn mặt mình, để khỏi tốn tiền mua lộn mũ, có khi chiếc mũ làm cho mình già đi hay trẻ lại, dữ tợn, hoạt đầu, lố bịch hoặc mũ che lấp đôi tai thì cũng tệ.

Trong cõi trần ai cuả chúng ta có rất nhiều SATAN, nhưng vẫn kém SATAN của Thương đế, bởi vì SATAN của Thượng đế đã chiếm một ngôi vị độc tôn, tức là ở đời này chỉ có sự tương đối mà thôi. Mới tương đối mà đã phức tạp thế, nếu tuyệt đối thì qủa đất này nổ tung.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho sự tương  đối thiên vị, bớt SATAN, thêm THẦN THÁNH, để xã hội bình yên và thiện mỹ hơn.

Lawndale, 29-3-1992.
CAO MỴ NHÂN -

      (trích CHỐN BỤI HỒNG - Sông Thu xuất bản- USA 1994)


Khởi hành về Nha Trang, ghé tham quan biển Đại Lãnh, ăn trưa tại nhà hàng Thủy tạ-Khu du lịch Đại Lãnh. Mới nghe, tưởng  khu du lịch lớn lao, sầm uất ,đông đảo khách  trong nước, ngoại quốc tắm, như ỡ bãi biển  Nha Trang, Vũng Tầu, Đồ  Sơn, Sầm Sơn vv.. vv..

Nhưng bé cái lầm-  khu du lịch chỉ có danh xưng trên chữ nghiã mà thôi,  đó là căn nhà lá tuềnh toàng bốn bề lộng gió, xây cất tạm bợ, đang ăn phải lấy tay  che bát cơm , tránh cát thổi mù trời  vi vu từ dặng phi lao ào vào. Tôi  nhớ ngay đến thời kỳ Mũi Né  chưa có đường, đi xe  vùng vịnh khoảng trên mười cây số  men theo biển tới Hòn Rơm- một  nhà hàng duy nhất  bán cơm, lại cho thuê cả túi ngủ cá nhân, buổi trưa ăn cơm, gió lùa  thổi cát từ núi xuống, cũng phải  lấy tay che bát , đợi khi gió lặng lại  đưa lên miệng!

Bữa  trưa  ăn vào đầu giờ chiều  Khu du lịch Đại Lãnh, chán như cơm nết nát. Và  ở đây có rất nhiều các cô,các bà  luộc trứng cút, trứng vịt, cua, ghẹ, tôm nướng rất thơm- giá cả rất phải chăng- thế mà người bán đã rất vui nhận tiền người trả.

Ăn xong chẳng kịp ngồi hóng gió biển, hoặc nhảy ùm xuống làn nước xanh  trong vắt cho sướng thân già-  bãi biển này từ thời tây đã được liệt vào ngoại hạng đặt tên Cap Varella. Năm 1957, tôi thỏa thuê tắm hai ngày liền, còn được dẫn vào khu nước nóng Trường Sơn, đặt  quả  trứng gà ít phút lấy ra bóc ra ăn như trứng đã luộc vậy.

Trên đường về Nha Trang, chẳng  thiết ngắm phong cảnh nữa, và tự nhiên nhớ tới buổi sáng bốc di động gọi Ý Nhi , thì cô chủ chưa ngủ dậy.

Vậy bây giờ gọi lại xem sao, có thể giờ này cô chủ  taking a siesta  chưa dậy, không chừng vậy?  giấc  sáng tinh sương gọi Ý Nhi ở Hội An-  nơi này  cách  62 năm Ý Nhi sinh ra, nơi tối qua chúng tôi tìm phố cổ chẳng thấy mà chỉ thấy phố khổ-  thì cô bé ô sin xứ Nghệ trả lời qua điện thoại:

- Cô chụ hạy còn ngu.

  Nghe rồi , tôi lại ngẫm nhớ ra- bà Trần Lệ Xuân ngồi ghế bành đỏ chót kê trướcToà Đô chính Sài Gòn, chủ tọa Ngày phụ nữ Việt Nam- giơ bàn tay mạnh mẽ hô hoán : Phụ nữ Việt nam muôn năm, nghe  âm điệu chữ cuối sao như muốn” nằm”.  Rồi thời đi lính không quân, một thuợng sĩ  miền Nam hạch hỏi:

 -Trung sĩ  đi trễ phép, muốn đào” ngủ” hả?
–Dạ không, tôi không có ý định đào ngũ , mà trễ phép  chỉ vì kiếm đào” ngủ “.
-Vậy là cô chụ hạy còn ngu!- tôi hỏi lại cô ô sin - giọng nghịch ngợm.

Và bật cười một mình,  người nước ngoài học tiếng việt phải mệt nhọc lắm đây- không chỉ tiếng việt líu lo chư chim hót- nhà sử học người  gốc Đông Đức (vợ việt) than vậy- mà còn phải học nghe  giọng điệu trầm bổng để thông suốt, cảm, hiểu ý nghĩa trái ngược câu nói  thực sự muốn truyền đạt điều gì.

Rất nhiều lần nhìn Ý Nhi trên vô tuyến- hết VT1, VT3 lại HTV  vv…-báo này phỏng vấn, báo kia hẹn gặp, hội văn nghệ trung ương mời làm trưởng ban công tác văn nghệ trẻ ( chối từ), đến hội văn nghệ tỉnh bạn mong nhà thơ  có chân trong ban giám định  thi ca vv.. và vv…

Nhưng, tôi chưa thấy phóng viên, đạo diễn nào đề cập chuyện cô bé gái, con bí thư huyện ủy đi  bán bánh  soài. Hình ảnh bé gái chín, mười tuổi- chị lớn - muốn giúp đỡ gia đình neo đơn. Ba vắng nhà  lâu ngày đi công tác xa, nhà đông anh, chị em- bà mẹ làm bánh soài, bánh cam ngon có tiếng- cô bé tình nguyện bưng rổ đi bán dạo.

Có thể đây lần đầu tiên e thẹn, bỡ ngỡ, do dự- có nên trườn mặt ra và vừa rao vừa bán không?

Giả thiết bán mà không rao hàng, thì ai nào biết bán bánh gì để mua?
Dầu cô bé có rao hàng đi nữa, rao hàng như thế nào để bán chạy hàng?

Ấy là chưa  biết cô bé có rao hàng không , và cuối cùng bắt đầu từ nguyên nhân nào, cô bé để rổ bánh soài giữa đường trên đoạn đường sắp tới giờ  tan học- và cô bé ẩn mình vào bụi rậm canh chừng?

Cũng chẳng biết cô bé bán được cái  nào không- hoặc rổ bánh soài coi như chào hàng  đám đứng sau nhất quỉ, nhì ma, thứ ba… sơi hết!?

Một điều tôi biết rõ- cô bé ấy đầy tinh thần trách nhiệm vai chị hai muốn giúp đỡ mẹ  và gia đình qua cơn bĩ cực.

Giả thiết sau này lại có một đạo diễn muốn thâu hình,  phóng viên phỏng vấn nhà thơ nữ-  điều mong ước rất nhỏ của tôi, ông ta sẽ quay hình cô bé gái bán bánh soài, bánh cam- với câu hỏi: tại sao bé gái  bưng bánh đi bán lại đặt rổ bánh giữa đường, rồi chui tọt vào bụi canh chừng? với một tâm hồn đàn ông cứng cỏi?


-6 giờ 30 chiều đến Nha  Trang, mọi người khoan khoái vui ra mặt, cơn mệt nhọc dài đằng đẵng ngày qua ngày chấm  hết. Chúng tôi  qua một đêm ở đây-khách sạn Hàng Hải cuối đường Trần Phú- trông từ xa như một pháo đài quân sự kiên cố ,mặt tiền nhô ra biển.

Lại thêm một lần được tắm biển Nha Trang, và ngày mai trở về Sài Gòn vui thỏa.


Sài Gòn- Tân Định,
cuối tháng hai, 2007 - cuối tháng hai, 2008.

THẾ PHONG


------------------------------------------------------




                                                   PHỤ LỤC


                                                 PHỔ TRẠNG
                                           ĐỖ MẠNH TƯỜNG
                                                (Việt Trì-Phú Thọ)

                                            bài viết : DÃ LAN – NGUYỄN ĐỨC DỤ


Thế Phong là bút hiệu, tên thật là Đỗ Mạnh Tường.  Ngoài bút hiệu này, còn mấy bút hiệu nữa: Đường Bá Bổn, Đinh Bạch  Dân- hai bút hiệu sau của nhà văn Thế Phong ít dùng- coi như bút hiệu THẾ PHONG là bút hiệu chính **

Sanh ngày 7/6 Nhâm Thân( 1932) (1) tại nhà thương Yên  Bái ( phốYên Thái) , chính quán ở Việt Trì, Phú Thọ. Ông nội tên Đỗ Văn Phác, chân nho học, bà nội là Phạm Thị Thắm, sanh được hai người con trai: là cha của Tường và người em kế là Đỗ Văn Hạnh, với ba gái là  Thị Kha, Thị Thảo, một gái chết yểu. Ông bà nội Tường ít khi đi đâu, ở luôn tại quê để chăm  lo giỗ tết, vì cụ Phác là trưởng tộc, nơi đây có từ đường họ Đỗ văn.

Cha tên Đỗ Văn Đức ( 1897-1947), chân giáo học, mẹ tên Phùng Thị Mùi không nhớ năm sanh, chỉ biết bà mất vào năm 1952 ở Bữu, quê ở phủ Quốc Oai, Sơn Tây.  Ông giáo Đức là con đầu dòng cụ Phác, đồngt hời cũng là trưởng ngành họ Đỗ văn.  Xuất thân nhà giáo ( Instituteur auxiliaire principal de hors classe), tốt nghiệp Trường Bưởi Hà Nội; vì ông tham gia Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học, nên bị Pháp đày lên thượng du dạy ở các trường châu Văn Bàn ( dưới chân núi Hoàng Liên Sơn,  – nay: Phăngxipăng- NV thêm ) làng Bữu, Đại Lịch.. ở đâu ông cũng được mọi người qúy mến vì nể, vì ông dạy học trò rất tận tâm hết lòng hết sức. Năm 1947, ông bị bắt đưa đi mất tích.

Đỗ Mạnh Tường là con trai duy nhất trong gia đình, bà giáo Đức sanh được năm người con, bốn trai một gái, song các anh chị em của Tường đều mất sớm nên Tường rất được mẹ nuông chiều. Trái lại, bố Tường rất nghiêm khắc, ít hỏi han đến con cái. Tường lúc nhỏ ngỗ ngược, phá phách nghịch ngợm nhất làng Bữu, cứ về nông trang là đuổi gà, đuổi vịt bị gai cào rách chân tay mình mẩy, bà giáo lại gọi về đe dọa còn nghịch ngợm nữa mẹ sẽ chết! Nhưng Tường vẫn không chừa, lắm lúc bà phải khóc làm Tường hối hận lên giường nằm ôm lấy mẹ.

 Khác hẳn ông giáo rất dữ đòn, thấy Tường rắn mắt đánh rất đau, bà giáo lại bênh vực ngăn cản vì bà thương Tường là con một.  Tường rất yêu mẹ song rất oán bố.  Có lần Tường đi mua thuốc phiện cho bố, ngựa vượt qua dòng suối lớn đang mùa nước lũ, bị nước cuốn trôi mất ngựa suýt chết đuối, lúc bơi tới bờ, ông chỉ hỏi thuốc tuyệt nhiên không hỏi han gì đến con nguy hiểm vừa qua khiến bà giáo ôm vội lấy con khóc. Lúc còn bé, bà giáo thường kể cho con nghe
Con là con cầu tự ở đền Quán Thánh Yên  Bái, có tật. Con là đứa con thứ ba sống sót trong năm mụn con của mẹ. Lúc hoài thai con, mẹ phải nằm dài hàng ba tuần lễ ở nhà thương Yên Bái, sanh con ra chưa bao giờ nước lũ lớn đến như vậy ngập cả thành phố.
 cũng vì vậy thuở bé Tường rất được nuông chiều.

Từ năm 1932 đến 1950, Tường sống với bố mẹ ở làng Bữu từ nhỏ tới lớn, học ngay ở trường làng Tây Bắc, qua các trường ở châu Văn Bàn, Thượng Bằng La, Đại Lịch, Tường học ngay ở trường bố làm hiệu trưởng. Thượng Bằng La, tên chữ của làng Bữu ( tên ghi trong sổ bộ của triều đình), gần thị trấn Nghĩa Lộ, thuộc huyện Trấn Yên  tỉnh Yên Bái.  Cha mẹ Tường có nhà và nông trang ở làng Bữu, ngày ngày mẹ tường trông nom ruộng nương, dạy dỗ con cái thay chồng, vì ông giáo mải đi dạy học, xa nay đây mai  đó, thỉnh thoảng ông mới đưa con cái về quê cha đất tổ vào dịp giỗ tết hoặc thăm viếng cha mẹ già yếu.

 Năm 1942,  đậu xong bằng sơ học ở Nghĩa Lộ (Certificat d’études  primaire élémentaire), đậu thủ khoa, bố mẹ gửi ra học ở trường Yên Bái(  École de Garcons de Yen Bay), song đang thời kỳ Mỹ ném bom Nhật ở Yên Bái, nên Thế Phong phải bỏ học về sống với bố mẹ ở Bữu và Đại Lịch. Thế Phong lớn lên trong bối cảnh thanh bình giữa núi rừng Nghĩa Lộ suốt tuổi ấu thơ, được mẹ hiền chăm sóc cho tới lúc vừa đậu xong bằng sơ học, thì đất nước bắt đầu loạn lạc…

Làng Bữu, chính là quê hương thứ hai của nhà văn Thế Phong-Đỗ Mạnh Tường , nơi Thế Phong phải chịu nhiều gian lao cực khổ suốt  quãng,đời niên thiếu, vì cả hai nơi này, Bữu và Nghĩa Lộ -làng Bữu cũng gần Nghĩa Lộ- đã xảy ra nhiều trận giao tranh ác liệt giữa Việt Minh và Pháp làm nhiều gia đình tan nát cửa nhà…

Nghĩa Lộ là một thị trấn của Yên Bái nằm sâu trong dãy Hoàng Liên Sơn. Thời kháng chiến bốn nhăm, qua bao giai đọan công đồn  chiếm đất giữa Pháp với lực lượng kháng chiến, Nghĩa Lộ được coi như một địa danh lịch sử, là căn cứ hiểm yếu của Việt Minh dùng để chống cả Pháp và Nhật năm 1945,  nó cũng tương tự chiến khu Bắc Sơn thời tiền cách mạng.Năm 1947,  một toán quân củ tướng ALEXANDRIE tràn về Nghĩa Lộ qua lối Phù Yên và Thượng Bằng La buộc Việt Minh phải triệt thoái.

Gia đình bà giáo Đức mất cả người và của, vì ông giáo vẫn bị Việt Minh nghi ngờ theo dõi, không muốn để ông ở lại Nghĩa Lộ sợ ông bắt tay với Pháp nên khi rút lui Việt Minh bắt luôn ông đi mất tích.  Quá đau đớn vì chồng bị bắt, bà giáo nhất định không rút lui… bà dẫn con tản cư sau mãi vào trong rừng, rồi ít lâu sau bà cương quyết đưa con trở lại Nghĩa Lộ, trở về căn nhà thân yêu xưa, với đồn điền và của cải cất giấu.  Nhờ con biết nói tiếng Pháp, bà giáo lấy lại được căn nhà Pháp chiếm đóng.  Viên thiếu tá chỉ huy trưởng thấy Thế Phong thông minh, lấy vào đồn làm thông ngôn .

Đó là những năm Thế Phong chịu nhiều gian lao khổ cực, được mẹ chăm sóc dạy dỗ, thêm người chị nuôi ( tên Bích) cũng hết lòng bảo bọc thương yêu.

Làm thông ngôn cho quân đội Pháp một thời gian, Thế Phong bị Pháp cho nghỉ việc dài hạn vì một lá thư ở ngoài bưng gởi về nói ông giáo vẫn còn sống. Thế Phong buồn bực đâm ra bài bạc, lấy tiền mua hàng của mẹ, vay nợ, ăn cắp tiền bỏ ống của đứa em họ, đánh đập tàn nhẫn em gái mỗi lần nó không đi vay được tiền...

Sau hối hận Thế Phong không đánh bạc nữa, bắt đầu lao vào công việc đất rẫy làm ruộng.  Năm 1950, bà giáo gởi Thế Phong về Hà Nội học, ở với bà cô ruột là bà Thảo/ 1917 ( chồng tên Dương Duy  Tỵ/1917) nuôi cho ăn học.  Lúc học ban trung học ở Hà Nội Thế Phong cũng lắm phen lao đao lận đận.

 Ngày 16/ tháng 11/ 1952, quân đội Pháp thất trận toàn diện ở Nghĩa Lộ. Và Nghĩa Lộ lần thứ hai lại rơi vào tay Việt Minh. Từ đó Thế Phong mất liên lạc với mẹ ở làng Bữu.  Buồn vì gia đình tan tác và nhớ thương mẹ, Thế Phong bắt đầu viết văn. Năm 1942, lúc đi học ở Đại Lịch, hàng ngày Thế Phong được đọc báo chí của bố mua năm ( Tứ Dân Văn Uyển, Học Báo…) nên nảy ra ý viết văn từ dạo đó.  Truyện ngắn đầu tiên đăng trên báo Tia Sáng của Ngô Vân, Thế Phong ký bút hiệu Tương Huyền ( Tường)  vào năm 1952 ở Hà Nội.

Thời gian chiến tranh Việt Pháp, khỏang 1947-1952 bà giáo Đức ở làng Bữu. bà mất vào năm Nhâm Thìn ( 1952), lúc đó Thế Phong đã về Hà Nội học từ năm 1950.

Tháng 5/1954 Thế Phong vô Nam. Cuốn Tình Sơn Nữ là tác phẩm đầu tiên xuất bản ở Sài Gòn. Nhà văn có nhiều bút hiệu, nhưng chỉ bút hiệu Thế Phong được dùng cho tới ngày nay.  Lúc mới vô Nam, Thế Phong cũng trải qua nhưĩng ngày sống cơ cực túng thiếu, mất liên lạc với mẹ, bơ vơ giữa đất Sài Gòn, nhà văn phải bươn chải tự kiếm sống, phải nhịn đói nhịn khát nhiều tháng ròng, đến độ không chịu nổi, đã có lúc liều lĩnh vay mượn, lấy trộm tiền bạc và máy chữ của bạn bè. (coi thêm: Thế Phong:  nhà văn, tác phẩm, cuộc đời). Ngoài bản tính liều lĩnh, bạt mạng trong cuộc sống, Thế Phong còn có một điều khá đặc biệt là ngay từ lúc nhỏ, 11, 12 tuổi ông đã biết yêu rất sớm.  Được biết, ngoài năm người con chính thức hiện nay, ông còn ba, bốn người con riêng . (3)

Từ năm 1954, phóng viên các báo: Thân dân ( Nguyễn Thế Truyền) , Dân Chủ ( Vũ Ngọc Các) , Giang Sơn ( Hoàng Cơ Bình) ,Tia sáng ( Ngô Vân) Hà Nội ( 1952-1954). Cộng tác với các báo Đời Mới, Nguồn sống mới, Văn nghệ tập san, Văn hoá Á châu, Sinh lực, Tân dân, Sống, Đời vv… và viết cho các tạp chí nước ngoài: Les immondices dans le banlieue, truyện ngắn đăng trong Le Monde Diplomatique ( Paris 1970), Tenggara ( Mã Lai)…Đồng hóa vào Không quân Việt Nam Cộng Hoà tháng 8/1967 tới tháng 5/1975, trung sĩ biên tập viên.

 Nhà văn Thế Phong bản tính rất ngổ ngáo song cũng rất bộc trực thẳng thắn, những nét hư tật xấu của mình ông kể, hết, không chút ngượng ngùng giấu diếm. Mỗi lần  nhắc tới ông, giới văn nghệ sĩ miền Nam rất e ngại,  họ đặt hỗn danh cho ông là nhà văn cao bồi, du côn , vì trong đời viết văn  ông chưa từng  nể nang một người nào, (4) kể cả ông thân sinh ra ông

 Tuy nhiên, có một điều ít ai biết, là trong thâm tâm nhà văn Thế Phong-Đỗ Mạnh Tường suốt đời chỉ khắc sâu hình bóng một người duy nhất, đó là bà giáo Đức mẹ ông,  người ông thương yêu nhất trong đời. Ông ân hận lúc mẹ mất không được ở gần để vuốt mắt cho người mẹ đáng thương phải mất chồng xa con, bao năm sống hiu quạnh hiu hắt nơi làng Bữu.  Ông còn nhớ lúc ở nhà với mẹ ở Bữu, thấy người ta đưa ma khóc, ông ngây thơ hỏi mẹ: Tại sao người ta lại phải khóc? thì mẹ ông bảo: Mày bất hiếu lắm con ạ!.
Năm 1966, Thế Phong lập gia đình ở Đà Lạt,  lấy bà Nguyễn Thị Khê, sanh ngày 27 /7/1937 ở Lạng Sơn, là con gái thứ ông bà Nguyễn Quốc Bảo ( 1910-1978) và bà Bùi Thị Phương Giản ( 1910-1990) quê ở Hà Đông, khi xưa cùng là bạn đồng  liêu, hai nhà quen nhau từ lúc ông giáo Đức dạy học ở Nghĩa Lộ. Cùng theo đạo Tin Lành ( Báp-Tít). Bà Khê có tất cả tám anh chị em, nguyên là nữ sinh trung học chuyên khoa Bùi Thị Xuân Đà Lạt.  Sau khi đậu tú tài II ( 1962), về Sài Gòn theo học Đại học Dược khoa được hai năm thì bà nghỉ học.
Thế Phong có ba trai, hai gái. Gia đình hiện ở Tân Định, Sài Gòn 1:                                                 
1)    Đỗ Mạnh Tường Khê ( 22/11/1966) Đậu  Phổ thông trung học năm 1984.
2)    Đỗ Nhị Tường Khê ( 09/01/1968). Tốt nghiệp Y khoa  1994.
3)    Đỗ Thục Tường Khê ( 17/09/1969). Nữ sinh Trưng Vương. Đã đi làm.
4)    Đỗ Như Tường Khê ( 13/3/1971) Đậu Phổ thông trung học. Đã đi làm.
5)    Đỗ Thông Tường  Khê (04/10/1972) Đậu bổ túc văn hoá. Sinh viên I trường Đại học thủy sản.
                                                *
Nhà văn Thế Phong có tới trên năm chục tác phẩm: thơ, văn, tiểu thuyết.  Có một số thơ và truyện được dịch ra ngoại ngữ. Thế Phong là nhà văn rất đa dạng, viết khá nhiều thể loại, đặc biệt là thể văn tự sự và phê bình văn học.
                                                                                 Sài Gòn , tháng 5-1995.
                                                                               DÃ- LAN NGUYỄN ĐỨC DỤ
--------------------------
   *  in đúng nguyên bản, do soạn giả chép tặng vào năm 1995 .(TP)
   *   (trích từ bản thảo chưa in , mang tựa : 
       PHỔ TRẠNG CÁC NHÀ VĂN MIỀN NAM ĐƯƠNG ĐẠI 
        của  DÃ LAN- NGUYỄN ĐỨC DỤ
            [bản thảo  chưa xuất bản]

-------------
*  DÃ LAN-NGUYỄN ĐỨC DỤ :1919-2001 Sài Gòn- biên soạn gia phả, phổ trạng các nhà văn Việt Nam đương đại: Gia phả khảo luận và thực hành, Một lối chép gia phả thật đơn giản, Dõi tìm tông tích người xưa vv… Ông là người biên soạn gia phả tiên phong, được đánh giá cao ở trong nước, và cả quốc ngoại. Dưới đây lá ý kiến rất xác đáng nhận định về công trình nghiên cứu của  một bậc lão làng  về gia phả học, và viết khá chính xác phổ trạng giới văn học miềnNam: “…Nguyên quản thủ thư viện Trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn, (từng) đượcGiải văn học nghệ thuật (miền Nam ) về bộ môn gia phả học.  Hai mươi chín cơ sở nước ngoài hiện đang lưu trữ tác phẩm biên khảo về gia phả học… Cụ đang tiếp tục bắt tay vào cuốn Phổ trạng các nhà văn miền Nam đương đại. Cụ đã làm rạng danh cho ngành gia phả học nước ta, như lời đánh giá của giáo sư Richard C. Beals trong phái đoàn Viện Đại học Brigham Young ( Hoa Kỳ) trong tổ chức gia phả học quốc tế:”.. Tôi đã được xem nhiều tài liệu gia phả học củ nhiều xứ trên thế giới, nhưng có thể nói đây là những tài liệu biên khảo lỗi  lạc nhất...”
 < trích  Ở Sài Gòn bỗng gặp bông bí vàng / Trần nhật Thu 
    - NXB Văn Nghệ- Tp. HCM 1998>

-------

 * ” Bút danh Đường Bá Bổn ký trên tác phẩm: CHIẾC ROI NGỰA (dịch La Cravache cuả CV Gheorghiu) - Sài Gòn 1963 - sau 75, NXB Đồng Nai tái bản 2003) -, và  HỒI KÝ VĂN CHƯƠNG VIẾT SỚM 
( Sài Gòn 1964, sau 75 - NXB Đồng Nai tái bản 2003)- 
( dịch tự sự kể  Eugène Evtouchenko- bản pháp ngữ K.S. Karol -Autobiographie précoce  (NXB Julliard, Paris 1963) .  Bút danh Đinh Bạch Dân ký trên bút ký TÔI  ĐI DÂN VỆ MỸ( Sài Gòn 1967)- Đàm Xuân Cận chuyển dịch anh ngữ: The ordeal of a American  MilitiamanSaigon 1970. 
( Chú thích: Dã Lan- Nguyễn đức Dụ)

        1)  Trong giấy khai sanh lại thấy ghi là sanh năm 1936.
  
 (2)Trong đám sĩ quan Pháp có viên trung úy Henri GUILLEMINOT giúp đỡ Thế Phong nhiều nhất.  Lúc ông ta  về Pháp nghỉ có nói với bà giáo [ Đỗ văn] Đức cho Thế Phong qua Pháp học, song bà từ chối vì chỉ có Thế Phong là con một.  Sau này, lúc ở Pháp qua ( đã thăng đại úy) vẫn thường xuyên liên  lạc, gửi thư và tiền cho Thế Phong hai ba năm liền, còn biên thư khuyên ông ráng học, cho tới lúc ông vô Nam . 
 ( Chú thích :Dã Lan- Nguyễn ĐứcDụ)
      ( 3) Thế Phong có tới ba, bốn người con riêng; một đứa con  gái với cô Quán ỡ Bữu, vợ chưa cưới của một lính   partisan ;một con với cô Đặng Ngọc Oanh ở Hà Nội ( sanh con ở trong Nam)  là nữ sinh gỉỏi Pháp văn, mối tình này kéo dài gần mười năm;  một đứa với chị Năm Hưởng, người ở kế bên nơi Thế Phong trọ. Cả ba người con ấy tới nay vẫn bặt tin, trong ba người con có hai là gái, ông còn một đứa con nữa với cô Bẩy là cháu ruột ông dượng Tỵ, chưa kể những người ông chỉ yêu thoáng qua.  
 (Chú thích: Dã Lan-Nguyễn Đức Dụ)
(4) Về điểm nay, Thế Phong và Chu Tử ( Chu Văn Bình) giống y hệt nhau, cả hai có lối hành văn khá độc đáo: giọng văn tuy châm biếm sâu cay nhưng vẫn nghiêm chỉnh, đúng mực”. 
 ( Chú thích :Dã Lan- Nguyễn Đức Dụ)
[]

                                                                                                 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét