đêm hát nhạc có lời - cao mỵ nhân
tạp chí tiếng vang - usa - 2002
đêm hát nhạc có lời ... / cao mỵ nhân
tạp chí tiếng vang - sacto / 2- 2002
- anh ta, thế phong, thoạt, thì phụ xe, kiểu lơ xe, sau ,
người ta khám phá ra ...
- hoài bắc : ... mày làm nhà văn làm đếch gì, đi làm ca sĩ ...
- ( ông giám đốc nhà xuất bản X...), nó tổ chức nhạc có lời cho ...
một mình thái thanh hát thôi nhé ...
.
- thời 1980, bố ai dám mở nhạc vàng, cho dẫu là nhạc hào đi nữa ...
- thế phong , một cây viết xanh rờn tàng trữ hàng trăm kỷ niệm với
phạm hậu [thi sĩ nhất tuấn], hồ nam... một hànội với những
tên , tuổi rực rỡ trên văn đàn...
- nhạc sĩ văn cao : ... anh từng là cán bộ công an trước 1945,
như em... bởi, anh là kẻ luôn luôn thất bại về tình ...
- ... hướng về nhạc sĩ lừng danh Việtnam chẳng hạn:
một Văn Cao vĩ đại, chưa ai có thể thay ngôi...
- bạn văn cứ nghĩ thế phong cao bồi, lang thang, ngoại trừ thời gian
trong bộ Tư lệnh Không quân Tân sơn nhất là nghiêm chỉnh ...
- thì ra, tôi, bị ảnh hưởng từ đám đông ngó về thế phong
như một thách thức viển vông, có biết đâu ...
Sau ngày 30-4-1975, những người vốn sinh sống ở miền Nam, thì, vừa lặng lẽ quan sát cuộc sống mới, vừa âm thầm tỉm kiếm những đường dây để chuẩn bị đi tỉm tự do, ở bất cứ một quốc gia nào trên thế giới, thậm chí, sang Lào hay Campuchia , sát nách Việtnam, cho dầu tình thế Lào hay Campuchia chẳng hơn gì quê hương Vietnam thuở ấy ...
Để điền vào chỗ trống ở miền Nam và nhất là Sài Gòn, hằng loạt lớp dân miền bắc vốn XHCN từ 1954, bằng đủ mọi phương tiện chuyển đổ về phương nam - bởi - ai cũng thấy miền Nam rực rỡ, đất lành chim đậu (... )
Bấy giờ, vào khoảng thập niên 80, tôi vừa từ nông trường trở về thành phố, ông hàng xóm lâu đời của tôi, nhà văn Thế Phong, đang phục vụ trong ngành giao thông công cộng, tức ngành xe buýt.
Anh ta, Thế Phong, thoạt, thì đi xe kiểu [làm] lơ xe - sau, người ta khám phá ra, anh ta có biệt tài chữ nghĩa, nên đã đẩy anh vào bàn giấy, để phụ trách cái việc chuyên môn điều tra về tất cả những tai nạn xe cộ, do xe buýt gây ra, trên tuyến đường dài nhất đô thành : là Sài gòn- Thủ đức.
Một hôm, Thế Phong rủ tôi đi chơi bằng xe buýt Thủ đức đó, nhân thể, xem cách làm việc của một nhà văn, sau 1975.
Tôi bỗng ngạc nhiên, trước tính tháo vát, tự nhiên, đầy khả năng lao động chân tay; nói năng bén nhậy, bất kể... thiên-hạ- sự của anh , mà trước kia, bạn văn, cứ nghĩ Thế Phong cao bồi, lang thang , ngoại trừ thời gian làm việc trong bộ Tư lệnh Không quân Tân sơn nhất là nghiêm chỉnh.
Thấy tôi trầm ngâm, nhà văn Thế Phong hỏi, nhưng, không bao giờ anh ta đợi câu trả lời :
- Suy nghĩ làm gì vậy bạn ? Lát nữa, tới bến, tôi giao ca cho người khác , sẽ chở bạn đi chơi như ngày xưa.
Tôi vốn thuộc loại người luôn luôn để tâm hồn đi vắng, nên ơ-hờ, mà hồn, thì gởi mộng xa xôi.
Xe chạy đến bến xe Thủ đức, Thế Phong ào ào nhảy lên nóc xe, phụ hành khách lấy quang gánh, thùng, giỏ, bao tời , xếp trên nóc xe xuống, anh còn nói giọng thật lớn cho tôi nghe, vì, tôi vẫn chưa chen được ra khỏi xe.
-Mỵ cứ ngồi yên trong xe đi, lát nữa, bà con xuống hết, thì ra, vội gì .
Rác rến trên nóc xe được Thế Phong gạt hết xuống đường, bụi đất mờ mịt, Thế Phong bảo tôi :
- Quay mặt vào trong, nín thở.
Rồi nghe ịch một cái, Thế Phong đã xuất hiện trước cửa xe buýt, anh cười khì khì :
- Xong rồi, mời bạn vô... văn phòng tôi chơi.
Là những gian nhà gỗ làm tạm, hay vốn có, sẵn từ hồi nào, giờ được trưng dụng làm cơ sở xe buý Sài Gòn - Thủ đức. Tôi thấy Thế Phong điềm nhiên ra , vô, giọng nói vẫn như thuở hai chục năm xa xưa :
- Này bồ ( chẳng biết ' bồ' nào trong đó ) chiều nay tôi nghỉ nghe, giờ có việc nhà rồi, cô em từ ngoài vô ( chẳng biết anh định nói tôi từ ngoài Bắc hay ngoài miền Trung vô nữa ) , tôi phải đi kiếm họ hàng đây...
Mấy người nhìn ra ngoài sân trống, thấy tôi đang lớ ngớ, quần đen, áo sơ-mi ngắn tay màu xanh lơ, tóc cắt ngắn, tay cầm nón lá, Thế Phong cũng nhìn ra, biết tôi đang có vẻ nhăn nhăn, thì, anh hất hàm cười toe :
- Vô đây Mỵ, đây là mấy bác làm chung xe.
Các ông ấy có lẽ sắp ăn trưa, nên cùng cười, vẻ chất phác, mời xã giao:
- Cô Hai ăn cơm luôn nha ?
Thế Phong cười tếu :
- Ấy, ấy cô Tư cơ đấy. Sao cô Tư có muốn ăn cơm ở đây không nào ?
Tôi lắc đầu ngay. Như trên tôi đã nói, với Thế Phong, thì từ trong văn chương đến ngoài cuộc đời, chẳng bao giờ anh ta chờ câu trả lời của ai đó, do đó, tôi đã thấy Thế Phong dắt xe đạp, cũng chẳng biết của ai ra, và ra dấu cho tôi gĩ từ trạm liên lạc xe buýt Thủ đức đó, bằng cách là chính anh chào tạm biệt họ :
- Thôi chào các ông, bọn tôi đi đây.
Thế Phong đã ngồi yên trên xe đạp, để chân xuống đất, chờ tôi ngồi lên sau - nhưng, dù đã mấy năm trong trại tập trung cải tạo, nay, lại đang lao động ở nông trường Rạch Bắp - và, đã qua hai thập niên quen biết Thế Phong, tôi, vẫn đủng đỉnh đi bộ ra khỏi vòng ráo trạm liên lạc xe buýt, để rồi, đứng lại bên đường chờ Thế Phong rà xe đạp tới.
Tất nhiên, Thế Phong chẳng những biết tính tôi, anh còn quá rõ tính của hàng chục phụ nữ khác, là, ai lại ngồi chễm chệ trước mặt mọi người đang dòm ngó, dị chết !
Người hàng xóm lâu đời củ tôi vẫn cưới toe toét, như thuở xưa, dù có đói 3 ngáy liên tiếp, anh vẫn cười- huống hồ, bây giờ, 1980, nhà văn Thế Phong chế độ cũ, đang thực sự làm chủ cuộc đời anh !
-Thôi nào, lên xe đi ăn ở chợ Thủ đức.
Sau trưa, Thế Phong đạp xe quanh đường đồi Thủ đức, những dốc cao và những lối đi có nhiều cây lớn, hoa lá quen xưa, tôi cảm thấy thanh nhàn lắm, bèn hát nho nhỏ bài Quê nghèo của Phạm Duy.
Làng tôi không xa kinh thành sáng chói
Có những cánh đồng cát dài
Có lũy tre già tả tơi ...
QUÊ NGHÈO / PHẠM DUY
Thế Phong nói trỏng, chẳng cần tôi hay ai nghe :
- Học làm ca sĩ à ? ( tôi cũng nói bâng quơ !)
- Hồi mới di cư vào Nam, Hoài Bắc bảo tôi ( Thế Phong):
' Mày làm nhà văn làm đếch gì, đi làm ca sĩ nổi tiếng hơn..'.
À này, Cao Mỵ Nhân, có biết hôm mồng một Tết vừa qua, ông Văn Cao ở Hànội vô đây, thắng kia
( giám đốc nhà xuất bản X...) , nó tổ chức hát nhạc có lời cho ông ấy nghe đấy, biết ai hát không, một mình Thái Thanh thôi nhé , anh của Thái Thanh ( tức ca sĩ Hoài Bắc ) thằng chả cũng có mặt buổi hát đêm đó, nhưng, không ra mặt là nhạc sĩ Phạm đình Chương đâu . Hoài Bắc bắt thằng kia giấu biệt hiệu luôn, đêm đó ở phòng khách thứ 2 trên lầu 3 nhà thằng kia ...cũng có tôi ( Thế Phong ) , là vì, thằng đó hẹn Hoài Bác và tôi lại quán Lê Lai [khách sạn 5 sao New World bây giờ] lúc buổi trưa, rồi, hắn úp mở mởi Hoài Bắc và tôi đến dự Đêm hát nhạc có lời của Văn Cao. Bởi, Cao Mỵ Nhân biết đó, thời 1980, bố ai dám mở nhạc vàng, cho dẫu là, nhạc hào đi nữa, ( ý nói: văn hào, thi hào.. .thì có nhạc hào ) Văn Cao, tác giả Tiến quân ca.
Thật là không tiền khoáng hậu , Cao Mỵ Nhân ạ. Tôi nghĩ, sẽ chẳng có lần thứ 2 như vậy nữa đâu, nhạc Văn Cao do Thái Thanh , ca sĩ thượng thặng hát, trong một khung cảnh hết sức hạn chế, kín như... bưng vậy .
Thú thức, hồi đó,, 1980, tôi không chú ý về chuyện trên, lý do, tôi đâu đã được yên tâm, thảnh thơi, khi mới rời trại cải tạo về, còn phải đi lao động nông trường, thì ... văn nghệ, văn gừng chỉ tối ư là rắc rối .
Hai mươi năm sau nữa, tức cuối thế kỷ trước, vào tháng 8- 1999, Thế Phong cho in và nộp lưu chiếu tập bút ký mỏng : Hànội 40 năm xa, do nhà xuất bản Thanh niên phổ biến, khổ sách 13x 19 cm.
Bìa trước do họa sĩ Đằng Giao ( phu quân Chu Vị Thủy , tức, con rể nhà văn quá cố Chu Tử ) vẽ hình một thiếu nữ che dù hoa, ngồi dưới nắng vàng dịu, đợi người .
Bìa sau là bức tranh Tháp Rùa Hànội bên cành liễu rủ, có đám mây vàng, bay thật thấp, hay là một sắc hoa vàng, ,rất Hanoi xa xưa, của [nữ] họa sĩ [Nguyễn] thị Tâm.
Với 104 trang, một Hànội đã bốn mươi năm xa, Thế Phong viết, nhân chuyến trở về Hànội dự hội nghị Les Temps des Livres, ( Ngày Hội Sách ) diễn ra từ 2-10-1995 tại Hànội do Trung tâm văn hóa Pháp tổ chức.
Đọc Hànội 40 năm xa / Thế Phong, bạn đọc sẽ thấy đầy đủ những Hànội trước 1954 đến 1955, từ phố xá, chợ búa, chùa chiền, nhà thờ. và đặc biệt hơn một chút, qua những hồi [ức] về Hànội của hàng chục tác giả trong và ngoài nước ít năm gần đây - là một cây viết xanh rờm tàng trữ hàng trăm thứ kỷ niệm liên kết với những thân hữu, văn hữu một thời Hànội của anh , như, Phạm Hậu [thi sĩ Nhất Tuấn], Hồ Nam ..., đồng thời với một Hànội, với những tên tuổi rực rỡ trên văn đàn nghệ thuật, như đã và đang còn tồn tại trong lòng người dân Hànội , vẫn còn sống Thăng Long hoài cổ - hay là - tản mác đi đâu đó, hướng về nhạc sĩ tài danh Việtnam chẳng hạn : một Văn Cao vĩnh cửu, một Văn Cao chưa có ai thay thế ngôi vị của ông.
Xuyên suốt những kỷ niệm của Thế Phong, với các bạn văn, bạn viết ... xuất xứ từ Hànội xưa và nay của Thế Phong, tôi... tâm đắc nhất là câu chuyện quanh số nhà 108 phố Yết kiêu, nơi, nhạc sĩ Văn Cao qua đời .
Thế Phong kể rằng :
'... năm 1980 ,anh nhớ rõ là ngày mồng 1 Tết ở Sài Gòn, Thế Phong ghé chúc tết người bạn thân, tên Nguyễn bá Châu, chủ nhà xuất bản Á châu. Ông Châu rủ Thế Phong ra quán Lê Lai ( nay: khách sạn 5 sao New World ), để đợi người bạn khác, nhạc sĩ Phạm đình Chương, tức ca sĩ Hoài Bắc. Nghe vậy, Thế Phong rất có lòng mong đợi ... vì quá lâu, anh chưa gặp lại nhạc sĩ Phạm đình Chương. Thế Phong chợt nhớ, có một lần, hồi 1955, nhạc sĩ Phạm đình Chương nói với anh:
' Chú viết văn làm quái gì, chắc gì mày đã nổi tiếng và làm gì có tiền để in tác phẩm'. Ông Châu và Thế Phong uống đến chai bia thứ 3 , thì, nhạc sĩ Phạm đình Chương tới. gặp Thế Phong, Phạm đình Chương xiết tay anh thật chặt: ' mày còn làm thơ không ? Mày có làm thơ hay, tao cũng đếch phổ nhạc được'? - ' Sao lại vậy?' - ' Báo phê bình thơ mày đếch có điệu, vần, thơ tự do hũ nút, làm đếch gì ông phổ nhạc cho được !'.
Nhạc sĩ Phạm đình Chương vẫn hút thuốc lá ' Bastos de luxe ' , ông tiếp:' Bây giờ tao chỉ có dạy nhạc kiếm cơm cho qua ngày'.
Sau đó, 3 ông : chủ nhà xuất bản Á châu, nhạc sĩ Phạm đình Chương và nhà văn Thế Phong đấu láo tới lúc chia tay, ông Nguyễn bá Châu cứ úp mở mời nhạc sĩ Phạm đình Chương và nhà văn Thế Phong tới nhà ông dự buổi hát nhạc có lời của Văn Cao , vào đêm mồng 1 Tết đó. ( 1980).
Trong khi Thế Phong tủm tỉm cười, vì, ông Châu bằng giọng chậm rãi, nói gần, nói xa; cố ý dò xem phản ứng của Phạm đình Chương và Thế Phong thế nào, thì, nhạc sĩ Phạm đình Chương vào đề huỵch toẹt : ' Thì nói mẹ nó ra, còn úp mở làm đếch gì ?'
Ông Châu đành cho biết , tối đó, tại phòng khách thứ 2 trên lầu 3 của ngôi nhà ông Châu [92 Lê Lai, quận 1] sẽ tổ chức hát nhạc có lời của Văn Cao và Nghiêm Phú Phi, sẽ chỉ mời một ca sĩ tài danh là Thái Thanh.
Tất nhiên, còn có ít người khách khác - nhưng - có một người khách không mới mà cứ đến - là chàng thanh niên khoảng ngoài 20 tuổi, mặc dân sự, nhưng, quyền thế nấp sau áo quần, dáng điệu, lời nói. Nhạc sĩ Phạm đình Chương nói với ông Châu: ' ...hai thằng ( Phạm đình Chương & Thế Phong) cũng tham dự- nhưng, không được giới thiệu bút hiệu. Tên tao là Trung, và thằng này, tên thật là cái đếch gì nhỉ ?'.
Phạm đình Chương còn nhấn mạnh :'... phải dặn Nghiêm Phú Phi, còn em gái tao, khỏi; nó biết rồi ! ( tức Thái Thanh ).
Nhạc sĩ Văn Cao uống rượu, vuốt chòm râu, yêu cầu hát bài gì, ca sĩ hát bài đó. ' Buồn tàn thu' -
'Suối mơ' - ' Thiên Thai'- ' Đàn chim Việt'- Trường ca Sông Lô '- ' Không quân Việtnam' ... tới
' Trương Chi '...
Anh bạn trẻ nêu tên trên kia, ngồi nghe, nhấp nha, nhấp nhổm; anh ta thấy phạm quy quá rồi, toàn hát nhạc vàng, nên khó chịu ra mặt.
Nhạc sĩ Văn Cao biết ý, bèn, cầm ly rượu tới mời cậu thanh niên tuổi trẻ. Nhạc sĩ Văn Cao choàng tay qua vai người bạn trẻ, chậm rãi nói : ' Anh từng là cán bộ công an trước 1945, như em bây giờ, còn nguy hiểm khổ cực hơn tí chút, công an biệt động bắn súng hãm thanh trước 45. thế, em có thích nhạc vừa hát không ? bài' Suối mơ' chẳng hạn, bởi anh ( Văn Cao) luôn luôn là kẻ thất bại về tình yêu, bởi, anh không giỏi tán chuyện với đàn bà, nên, anh dốc tâm ... bù vào sự thiếu thốn ấy, vào lời và nhạc của anh sáng tác. Em ạ, có thể, em không nghe' Thiên Thai',' Suối mơ' ... bao giờ - hoặc - em chỉ thích tiếng nhạc ồn ào, gầm thét 'Trường ca Sông Lô ', như nước đổ ầm vang tiếng súng, hoặc 'Tiến quân ca ' - bài quốc ca mà anh lá tác giả. Như vậy, em thấy đủ bảo đảm về chính
trị cho buồi hòa tấu nhạc đêm nay chưa ?'
Người trẻ tuổi vẫn chưa tin tưởng - hình như - anh ta chỉ biết bài quốc ca, khi nào được hát lên, và hình như, tác giả cảm thấy được điều này; Văn Cao lại thủ thỉ : '... bản nhạc của anh, riêng bản
' Tiến quân ca' , thì, từ anh dân đen đến ông to có chức, có quyền cao nhất, nghe nhạc tấu lên, đều phải đứng phắt dậy- kể cả, nhưng người không thích nhạc của anh.,..'
Và, Văn Cao đã hát câu đầu ' Đoàn quân Việtnam đi ...' - người trẻ tuổi mới hạ bộ mặt đăm chiêu xuống, rồi, lấy cớ bận việc, đi một lèo ra cửa ...'
( TRÍCH ' HÀNỘI 40 NĂM XA CỦA THẾ PHONG ' ).
Thế Phong ghi ngày nhạc sĩ Văn Cao ra đời vào năm 1923, không nhớ ngày, tháng - nhưng, có điều, ông hàng xóm lâu đời của tôi, lại nhớ rất rõ ngày tháng, nhạc sĩ Văn Cao qua đời :
10 tháng 7 năm 1995
bởi vì, ngày sinh của Thế Phong là ngày 10-7 đó.
Đọc 2 trang 68 và 69, nơi Hànội 40 năm xa / Thế Phong, tôi, bỗng xót xa, nhớ lại cách đây đã 20 năm- khi nghe nhà văn Thế Phong chêm vào câu chuyện về đêm hát nhạc có lời Văn Cao- thay vì - tôi phải hỏi thăm anh về buổi cảnh lịch sử đó thế nào, thì, tôi lại dửng dưng, lo chiu chắt chuyện vui chơi ngắn ngủi, vì, những ngày kế tiếp, còn phải đi nông trường, trồng cây xuất khẩu ở Bến Cát- Đồng Xoài.
Thì ra, tôi cũng bị ảnh hưởng cách nhìn từ đam đông ngó về Thế Phong- như một thách thức viển vông, có biết đâu, những điều anh nói, lại có thể đọc được dễ dàng, rõ ràng nơi sách, truyện của anh.
Hẳn không phải là tưởng tượng, với Thế Phong, những dữ kiện để viết đó; chính là kinh nghiệm, là sinh hoạt trong quá trình cuộc sống của nhà văn đấy thôi.
[]
cao mỵ nhân
( trích tạp chí Tiếng Vang / chủ nhiệm: Trần văn Ngà - Sacto, Cali- USA , tháng 2 năm 2002)
vài hàng tiểu sử :
cao mỵ nhân
sinh : 25 tháng 3 năm 1939 tại Sapa ( Lào cai )
học : trường tiểu học Lệ Hải (Hải phòng ) -
trường Nữ Trưng vương Hànội + Saigon.
10- 1954 : di cư vào Nam.
theo học khóa Nữ cán sự Xã hội Caritas Saigon
binh nghiệp : nữ thiếu tá Quân lực VNCH , phục vụ tại
Quân đoàn I, cho tới 30-4-1975.
định cư : 1992 ở Hoa Kỳ.
1994-95 : tổng thư ký Trung tâm Văn bút Hoa Kỳ,
nhiệm kỳ 1994-95.
tác phẩm :\
Hoa Sao ( thơ, Saigon 1959) - Thơ Mỵ ( thơ, Saigon 1961)-
Chốn bụi hồng ( bút ký, tập 1 , Hoa kỳ 1994) - Thơ Mỵ II
( thơ, Hoa kỳ 1997) - Áo màu xanh ( thơ, Hoa Kỳ 1999) -
Lãng đãng vào thu ( thơ, Hoa kỳ 2001) - Đưa người tình
đi tu ( thơ, Hoa Kỳ 2003 ) v.v...
theo < web. cothom > - usa .
Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013
Thứ Hai, 25 tháng 11, 2013
77 tuổi ra tập thơ đầu tay và duy nhất : thơ nguyễn thanh giang / bài : thanh thảo ( quảng ngãi )
những mẫu quặng đọc đường / nguyễn thanh giang
nxb hội nhà văn việtnam, hànội 2013
' thơ định phận cho ta :
phần thưởng của ta ...'
bài viết: thanh thảo
- phạm nhật duật thành danh , đều đã bước ra từ tuyển tập thơ sức mới ...
.
- 3 /4 thơ nguyễn thanh giang là thơ mậu dịch ... thơ của' phở không người lái ...-
theo cách nói xếch mé của
...
-' mừng thấy non sông bặt gió tây'.- gió tây ấy bây giờ là gió ...
- nguyễn thanh giang đã nổi tiếng lắm rồi... công an, an ninh mật theo anh khắp nơi...
anh lên tàu, cũng không thấy ai theo dõi..hay, là có mà tôi không biết .
..
- thơ nguyễn thanh giang là thơ yêu nước, thơ kháng chiến, thơ chống giặc ngoại xâm...
Thơ Nguyễn thanh Giang mộc mạc mà thỏ thẻ với tôi nhiều thú vị. Anh nói đây là tập thơ của cả đời mình. Có lẽ đúng, vì 3/ 4 tập thơ , thì 2 phần đã dính với nghề nghiệp của anh rồi. Nếu 1 phần là những mẫu quặng đời, thì phần 3, là hành trình địa chất.
Anh dành trọn 1 phần 2 cho quê hương đất nước, như mọi người việt là thơ yêu nước...
Nguyễn thanh Giang là một nhà địa-vật-lý. Suốt bao năm trong đời mình, anh đã có những đóng góp đáng kể cho đất nước qua chuyên môn rộng và sâu của mình.
Đó là một người sống chết với từng mẫu quặng, sống chết với nghề : nghề địa chất . Và đã trải đời mình trên cả chiều rộng, chiều sâu của bản đồ Tổ quốc. Nghề và nghiệp đã đưa anh tới với Thơ. Tình yêu đất nước, yêu những người dân bình dị [mà] anh đã gặp và đã thân quen suốt hành trình địa chất đã đưa anh tới với Thơ.
Tôi còn nhớ, khi học ở khoa Văn đại học Tổng hợp, những năm sơ tán ở Đại từ- Thái nguyên, tôi đã đọc được đọc [tuyển] tập thơ Sức mới, với lời giới thiệu của Chế lan Viên . Đó gần như là tập thơ trẻ đầu tiên của miền Bắc. Chúng tôi, hồi đó còn rất trẻ, nên, đã nhìn thơ trẻ, thơ được làm bởi những người trẻ thu hút chúng tôi nhiều nhất.
Tôi nhớ Sức mới ấy có một bài thơ của Nguyễn thanh Giang. Hồi đó, có thơ in trong một tuyển [tập] thơ như vậy là ghê lắm rồi, là bắt đầu nổi tiếng. Chính Phạm tiến Duật , và nhiều nhà thơ trẻ thành danh sau này, đều đã bước ra từ tập thơ Sức mới , in giấy xấu.
Bẵng đi nhiều năm, không thấy Nguyễn thanh Giang công bố thơ nữa, cứ , nghĩ là anh bỏ thơ sang làm chuyện khác rồi. Cho tới một ngày, tình cờ, ở một ga tỉnh lẻ, tôi, lần đầu được gặp Nguyễn thanh Giang, qua giới thiệu của một người bạn đang chờ tàu. Lúc ấy, Nguyễn thanh Giang đã nổi tiếng lắm rồi, nhưng, là ở một khu vực khác. Người ta nói công an, hay, an ninh mật gì đó theo anh khắp nơi Nhưng hôm ở nhà ga tỉnh lẻ, anh đi đâu ghé qua đường, tôi, hình như không thấy có bạn công an nào theo anh. Chỉ có nắng. Và gió. Và dòng người chen chúc nhau ở một nhà ga, khi tàu sắp tới. Khi tôi nhắc về [một] bài thơ ở tập Sức mới, Nguyễn thanh Giang thổ lộ là anh vẫn làm thơ, anh còn yêu thơ lắm .
Rồi tàu đến, chúng tôi chia tay.
Nguyễn thanh Giang lân tàu, cũng không thấy ai theo dõi gì, hay, là có mà tôi không biết.
Tôi vốn thật thà, và, cũng không quá coi trọng ai theo dõi ai .
Phải nói , gần như là 3 /4 [ trong] tập thơ Nguyễn thanh Giang là thơ mậu dịch quốc doanh - theo cách nói xếch mé của một vài nhà [được] gọi là nhà phê bình trên mạng internet bây giờ.
Đó là thơ yêu nước, thơ chống giặc ngoại xâm. Nó song hành với những bát phở không người lái, với từng đề-xi-mét, vải thô được cấp phát, với từng chút mì chính ( bột ngọt) phân phối tới mỗi người lính, mỗi cán bộ, mỗi người dân trong những năm tháng cực kỳ thiếu thốn ở miền bắc Việtnam :
Anh muốn về thăm nơi nặng tình nặng nghĩa
Nơi mẹ già cho bát cháo hành dăm
Nơi các em dựng trường bằng tiền mót khoai xúc tép
Vào lớp ngồi bàn còn bùn đầy chân
NHỚ VỀ XÓM CŨ / thơ NGUYỄN THANH GIANG
Phải chăng nhân dân từ góc nhìn như thế, thì mới có những câu thơ - như nhà điêu khắc tạc vào đá - khi viết về một người đồng hương của mình :
Vẫn thấy ông thồ đá qua những đồi sim
Lầm lũi xám những chiều hoang biền biệt
Kẽo kẹt bên trời dáng ông lẫm liệt
NHỚ HỮU LOAN / thơ NGUYỄN THANH GIANG
Và khi nhớ về một nhà thơ của miền ven biển Quảng ngãi : nơi nước bao vây cách biển nửa ngày sông - Nguyễn thanh Giang vẫn định hướng được tầm vóc của những mảnh hồn làng hôm nay :
Ông có về lại vườn xưa hái quả
Thăm con sông từng tắm mát đời ta
Chú còng gió giương càng chào biển cả
Những mảnh hồn làng phấp phới tận Hoàng Sa
NHỚ TẾ HANH / thơ NGUYỄN THANH GIANG
Và, trong một đêm ngủ ở làng cổ Đường Lâm [Sơn tây], quê Ngô Quyền - Nguyễn thanh Giang vụt nghe và thấy :
Chiều đọc tin ngư phủ mình bị giết
Ước biển Đông vút cọc nhọn Bạch Đằng
Đêm nghe vọng tiếng tù và hối thúc
Thấy Ngô Quyền lẫm liệt vung gươm
ĐÊM NGỦ Ở ĐƯỜNG LÂM / thơ NGUYỄN THANH GIANG
Không thể gọi bằng một tên khác; đó là thơ yêu nước. Người ta cứ tưởng khi đã thanh bình rồi, thì, lòng yêu nước cũng lặn mất tiêu trong thơ. Không phải đâu !
Và đất nước ta bây giờ cũng chưa thật sự thanh bình.
Kẻ thù vẫn ngày đêm rình rập, đe dọa.
Biển Đông cuộn sóng.
Ngư dân ra khơi đánh cá trên những ngư trường truyền thống, như Hoàng Sa, Trường Sa vẫn liên tục bị khủng bố.
Người ta làm thơ yêu nước,
bây giờ vẫn canh cánh trong lòng bao nỗi niềm, như thuở cụ Đồ Chiểu hằng khắc khoải:
Bao giờ trời đất an ngời Mừng thấy non sông bặt gió Tây !
thơ ĐỒ CHIỂU
Gió Tây ấy, bây giờ là gió ( bấc ) Bắc .
Mà gió bấc lả gió bấc, gió nồm là gió nồm, không có kiểu chúng ta cùng gió bấc gió nồm, như ai đã nói !
Đọc thơ Nguyễn thanh Giang,tôi cứ muốn dừng lâu ở những đoạn thơ hồn nhiên thời kháng chiến
của anh :
Bấy lâu măng chấm muối vừng
Bữa nay giềng mẻ thơm lừng suối khe
Đi mười cây số mua bia
Bi-đông mở nút cũng nghe nổ giòn
Chúc nhau chân cứng đá mòn
Tay vừa chụm cốc, cây rừng đã say
TẾT TRONG THUNG LŨNG / thơ NGUYỄN THANH GIANG
Những câu thơ như thế, nó khiến cuộc đời chúng ta vốn nhiều buồn phiền, [tuy vậy, vẫn ] dễ sống hơn. Cũng như bài thơ tặng cháu đích tôn này :
Mơ màng thấy nước biển dâng
Thuyền vào tận ngõ nhưng không còn mình
Tưởng đã qua mấy mươi năm
Tỉnh ra biết cháu đái dầm ướt lưng
thơ NGUYỄN THANH GIANG
rất tự tại !
Tôi biết người vợ tần tảo của Nguyễn thanh Giang , con gái nhà thơ [Vệ quốc quân] Thôi Hữu *, một nhà thơ yêu nước, và bài thơ nổi tiếng Lên Cấm Sơn **, mà từ hồi đi học, chúng tôi từng ngưỡng mộ. Thơ là chuyện của đất nước, của nhân loại, mà, cũng là chuyện của nhà ta, của mỗi gia đình việt. Dù thơ chẳng cho ta danh phận gì, nhưng, thơ định phận cho ta , thơ là phần thưởng của ta - nói như nhà thơ Nga-xô-viết :
Và những huân chương, không cần
Không lăng xăng huênh hoang
Với nhà thơ chúng ta - phần thưởng-
chính là số phận mình
Khi phần thưởng của mình chính là số phận mình, thì, cần phải lắm lời, phải không ạ ?
[]
thanh thảo
QUẢNG NGÃI, QUA TẾT ĐOAN NGỌ, 2013
-----------
* và ** : xem ở phần Phụ lục . ( chú thích : Biên Tập )
< web Đàn chim việt > - 10.37 am 21/11/ 2013 - tựa chính bài: Phần thưởng của thơ Nguyễn thanh Giang>
vài hàng tiểu sử
nguyễn thanh giang
Sinh : 6.7. 1936
nguyên quán Hoằng Đức, Hoằng Hóa, Thanh hóa
Bố : Nguyễn như Bá ( 1913 - )
Mẹ : Ngô thị Nhung
Vợ : Nguyễn thị Tuyết Mai ( 1.1. 1943 - )
Con : Nguyễn giang Vũ ( 1967 - )
Nguyễn thị Mai Thủy ( 1971 - )
Công việc
đã kinh qua : 1953 - 63 : dạy học ở Thanh hóa
: 1955 - 62: học cấp 3 và đại học
Tổng hợp Hànội
: 1962 - 94 công tác tại Tổng cục Địa chất
( bộ Công nghiệp Nặng )
: 1992 - 94 tư vấn Công ty kỹ nghệ tại Rican.
: 1995- 96 chuyên viên kỹ thuật Liên đoàn
Vật lý - Địa chất Máy bay
Hiện nghỉ hưu : Khu nhà tập thể Địa-vật-lý Máy bay
tại Trung văn, Từ Liêm, Hànội.
< theo Google.com .search / hosodanchu.word.press.com >
PHỤ LỤC :
LÊN CẤM SƠN
thơ thôi hữu
Tôi lên vùng Cấm Sơn
Đi tìm thăm bộ đội
Đây bốn bề, núi, núi
Heo hút vắng tăm người
Đèo cao rồi lũng hẹp
Dăm túp lều chơi vơi
Bộ đội đóng ở đó
Cách xa hẳn cuộc đời
Ngày ngày ngóng đợi tin xuôi ngược
Chỉ thấy mây xanh bát ngát trời
Họ đã từng dự trận
Từ Tiên yên, Đầm hà
Về An châu, Biển động
Thấm thoát hai năm qua
Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa !
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà
Quây quần bên nến tràm
Chúng tôi ngồi hàn huyên
Bao nhiêu giờ vinh nhục
Bao nhiêu phút ưu phiền
Của đời người chiến sĩ
Đem thâu kể triền miên :
' Có khi gạo hết tiền vơi
Ổi xanh hái xuống đành xơi no lòng
Có đêm gió bấc lạnh lùng
Áo quần rách nát lá dùng che thân
Khó khăn đau ốm muôn phần
Lấy đâu đủ thuốc mặc dầu bệnh nguôi
Có phen chạy giặc tơi bời
Rừng sâu đói rét, không người hỏi han '
Đến nay họ về đây
Giữ vững miền núi Cấm
Thổ phỉ quét xong rồi
Đồn Tây xa chục dặm
Khiến thiết lại bản xóm
Bị giặc đốt tan tành
Trên nền tro đen kịt
Vàng hoe màu mái gianh
Họ đi tìm dân chúng
Lẩn trốn trong rừng xanh
Về làm ăn cày cấy
Tiếp tục đời yên lành
Tiếng hát lừng vang trong gió núi
Ngày vang ngân giọng trẻ ê a.
Ở đây bản vắng rưng u tối
Bộ đội mang gieo ánh chói lòa
Ở đây đường ngập bùn phân cũ
Xẻng cuốc khua vang điệu dựng nhà
Ở đây những mặt buồn như đất
Bộ đội cười lên tươi như hoa
Họ vẫn gầy, vẫn ốm
Mắt vẫn lõm, da vàng
Áo chăn chưa đủ ấm
Ăn uống vẫn tồi tàn
Nhưng vẫn vui, vẫn nhộn
Pháo cưới luôn nổ ran
Lòng tôi bừng thức tình trai mạnh
Muốn viết bài thơ nhộn tiếng cười
Tặng những anh tôi trong lửa đạn
Qua nghìn gian khổ vẫn vui tươi
thôi hữu
( trích từ TẬP VĂN CÁCH MẠNG & KHÁNG CHIẾN -
Hội Văn nghệ Việtnam xuất bản năm 1949 )
THÔI HỮU ( 1914- 1950) - Tên khai sinh: Nguyễn đắc Giới. Sinh 1914 tại huyện Hoằng hóa, tỉnh Thanh hóa. Tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, một trong những người xây dựng báo Vệ quốc quân ( tiền thân báo Quân đội nhân dân ).
Hy sinh ngày 16 tháng 2 năm 1959 tại chiến trường Việt bắc.
Tác phẩm: Thơ văn Thôi Hữu ( 1984 ) Nhà văn Việtnam hiện đai - Hànội 1997.
nxb hội nhà văn việtnam, hànội 2013
' thơ định phận cho ta :
phần thưởng của ta ...'
bài viết: thanh thảo
- phạm nhật duật thành danh , đều đã bước ra từ tuyển tập thơ sức mới ...
.
- 3 /4 thơ nguyễn thanh giang là thơ mậu dịch ... thơ của' phở không người lái ...-
theo cách nói xếch mé của
...
-' mừng thấy non sông bặt gió tây'.- gió tây ấy bây giờ là gió ...
- nguyễn thanh giang đã nổi tiếng lắm rồi... công an, an ninh mật theo anh khắp nơi...
anh lên tàu, cũng không thấy ai theo dõi..hay, là có mà tôi không biết .
..
- thơ nguyễn thanh giang là thơ yêu nước, thơ kháng chiến, thơ chống giặc ngoại xâm...
Thơ Nguyễn thanh Giang mộc mạc mà thỏ thẻ với tôi nhiều thú vị. Anh nói đây là tập thơ của cả đời mình. Có lẽ đúng, vì 3/ 4 tập thơ , thì 2 phần đã dính với nghề nghiệp của anh rồi. Nếu 1 phần là những mẫu quặng đời, thì phần 3, là hành trình địa chất.
Anh dành trọn 1 phần 2 cho quê hương đất nước, như mọi người việt là thơ yêu nước...
Nguyễn thanh Giang là một nhà địa-vật-lý. Suốt bao năm trong đời mình, anh đã có những đóng góp đáng kể cho đất nước qua chuyên môn rộng và sâu của mình.
Đó là một người sống chết với từng mẫu quặng, sống chết với nghề : nghề địa chất . Và đã trải đời mình trên cả chiều rộng, chiều sâu của bản đồ Tổ quốc. Nghề và nghiệp đã đưa anh tới với Thơ. Tình yêu đất nước, yêu những người dân bình dị [mà] anh đã gặp và đã thân quen suốt hành trình địa chất đã đưa anh tới với Thơ.
Tôi còn nhớ, khi học ở khoa Văn đại học Tổng hợp, những năm sơ tán ở Đại từ- Thái nguyên, tôi đã đọc được đọc [tuyển] tập thơ Sức mới, với lời giới thiệu của Chế lan Viên . Đó gần như là tập thơ trẻ đầu tiên của miền Bắc. Chúng tôi, hồi đó còn rất trẻ, nên, đã nhìn thơ trẻ, thơ được làm bởi những người trẻ thu hút chúng tôi nhiều nhất.
Tôi nhớ Sức mới ấy có một bài thơ của Nguyễn thanh Giang. Hồi đó, có thơ in trong một tuyển [tập] thơ như vậy là ghê lắm rồi, là bắt đầu nổi tiếng. Chính Phạm tiến Duật , và nhiều nhà thơ trẻ thành danh sau này, đều đã bước ra từ tập thơ Sức mới , in giấy xấu.
Bẵng đi nhiều năm, không thấy Nguyễn thanh Giang công bố thơ nữa, cứ , nghĩ là anh bỏ thơ sang làm chuyện khác rồi. Cho tới một ngày, tình cờ, ở một ga tỉnh lẻ, tôi, lần đầu được gặp Nguyễn thanh Giang, qua giới thiệu của một người bạn đang chờ tàu. Lúc ấy, Nguyễn thanh Giang đã nổi tiếng lắm rồi, nhưng, là ở một khu vực khác. Người ta nói công an, hay, an ninh mật gì đó theo anh khắp nơi Nhưng hôm ở nhà ga tỉnh lẻ, anh đi đâu ghé qua đường, tôi, hình như không thấy có bạn công an nào theo anh. Chỉ có nắng. Và gió. Và dòng người chen chúc nhau ở một nhà ga, khi tàu sắp tới. Khi tôi nhắc về [một] bài thơ ở tập Sức mới, Nguyễn thanh Giang thổ lộ là anh vẫn làm thơ, anh còn yêu thơ lắm .
Rồi tàu đến, chúng tôi chia tay.
Nguyễn thanh Giang lân tàu, cũng không thấy ai theo dõi gì, hay, là có mà tôi không biết.
Tôi vốn thật thà, và, cũng không quá coi trọng ai theo dõi ai .
Phải nói , gần như là 3 /4 [ trong] tập thơ Nguyễn thanh Giang là thơ mậu dịch quốc doanh - theo cách nói xếch mé của một vài nhà [được] gọi là nhà phê bình trên mạng internet bây giờ.
Đó là thơ yêu nước, thơ chống giặc ngoại xâm. Nó song hành với những bát phở không người lái, với từng đề-xi-mét, vải thô được cấp phát, với từng chút mì chính ( bột ngọt) phân phối tới mỗi người lính, mỗi cán bộ, mỗi người dân trong những năm tháng cực kỳ thiếu thốn ở miền bắc Việtnam :
Anh muốn về thăm nơi nặng tình nặng nghĩa
Nơi mẹ già cho bát cháo hành dăm
Nơi các em dựng trường bằng tiền mót khoai xúc tép
Vào lớp ngồi bàn còn bùn đầy chân
NHỚ VỀ XÓM CŨ / thơ NGUYỄN THANH GIANG
Phải chăng nhân dân từ góc nhìn như thế, thì mới có những câu thơ - như nhà điêu khắc tạc vào đá - khi viết về một người đồng hương của mình :
Vẫn thấy ông thồ đá qua những đồi sim
Lầm lũi xám những chiều hoang biền biệt
Kẽo kẹt bên trời dáng ông lẫm liệt
NHỚ HỮU LOAN / thơ NGUYỄN THANH GIANG
Và khi nhớ về một nhà thơ của miền ven biển Quảng ngãi : nơi nước bao vây cách biển nửa ngày sông - Nguyễn thanh Giang vẫn định hướng được tầm vóc của những mảnh hồn làng hôm nay :
Ông có về lại vườn xưa hái quả
Thăm con sông từng tắm mát đời ta
Chú còng gió giương càng chào biển cả
Những mảnh hồn làng phấp phới tận Hoàng Sa
NHỚ TẾ HANH / thơ NGUYỄN THANH GIANG
Và, trong một đêm ngủ ở làng cổ Đường Lâm [Sơn tây], quê Ngô Quyền - Nguyễn thanh Giang vụt nghe và thấy :
Chiều đọc tin ngư phủ mình bị giết
Ước biển Đông vút cọc nhọn Bạch Đằng
Đêm nghe vọng tiếng tù và hối thúc
Thấy Ngô Quyền lẫm liệt vung gươm
ĐÊM NGỦ Ở ĐƯỜNG LÂM / thơ NGUYỄN THANH GIANG
Không thể gọi bằng một tên khác; đó là thơ yêu nước. Người ta cứ tưởng khi đã thanh bình rồi, thì, lòng yêu nước cũng lặn mất tiêu trong thơ. Không phải đâu !
Và đất nước ta bây giờ cũng chưa thật sự thanh bình.
Kẻ thù vẫn ngày đêm rình rập, đe dọa.
Biển Đông cuộn sóng.
Ngư dân ra khơi đánh cá trên những ngư trường truyền thống, như Hoàng Sa, Trường Sa vẫn liên tục bị khủng bố.
Người ta làm thơ yêu nước,
bây giờ vẫn canh cánh trong lòng bao nỗi niềm, như thuở cụ Đồ Chiểu hằng khắc khoải:
Bao giờ trời đất an ngời Mừng thấy non sông bặt gió Tây !
thơ ĐỒ CHIỂU
Gió Tây ấy, bây giờ là gió ( bấc ) Bắc .
Mà gió bấc lả gió bấc, gió nồm là gió nồm, không có kiểu chúng ta cùng gió bấc gió nồm, như ai đã nói !
Đọc thơ Nguyễn thanh Giang,tôi cứ muốn dừng lâu ở những đoạn thơ hồn nhiên thời kháng chiến
của anh :
Bấy lâu măng chấm muối vừng
Bữa nay giềng mẻ thơm lừng suối khe
Đi mười cây số mua bia
Bi-đông mở nút cũng nghe nổ giòn
Chúc nhau chân cứng đá mòn
Tay vừa chụm cốc, cây rừng đã say
TẾT TRONG THUNG LŨNG / thơ NGUYỄN THANH GIANG
Những câu thơ như thế, nó khiến cuộc đời chúng ta vốn nhiều buồn phiền, [tuy vậy, vẫn ] dễ sống hơn. Cũng như bài thơ tặng cháu đích tôn này :
Mơ màng thấy nước biển dâng
Thuyền vào tận ngõ nhưng không còn mình
Tưởng đã qua mấy mươi năm
Tỉnh ra biết cháu đái dầm ướt lưng
thơ NGUYỄN THANH GIANG
rất tự tại !
Tôi biết người vợ tần tảo của Nguyễn thanh Giang , con gái nhà thơ [Vệ quốc quân] Thôi Hữu *, một nhà thơ yêu nước, và bài thơ nổi tiếng Lên Cấm Sơn **, mà từ hồi đi học, chúng tôi từng ngưỡng mộ. Thơ là chuyện của đất nước, của nhân loại, mà, cũng là chuyện của nhà ta, của mỗi gia đình việt. Dù thơ chẳng cho ta danh phận gì, nhưng, thơ định phận cho ta , thơ là phần thưởng của ta - nói như nhà thơ Nga-xô-viết :
Và những huân chương, không cần
Không lăng xăng huênh hoang
Với nhà thơ chúng ta - phần thưởng-
chính là số phận mình
Khi phần thưởng của mình chính là số phận mình, thì, cần phải lắm lời, phải không ạ ?
[]
thanh thảo
QUẢNG NGÃI, QUA TẾT ĐOAN NGỌ, 2013
-----------
* và ** : xem ở phần Phụ lục . ( chú thích : Biên Tập )
< web Đàn chim việt > - 10.37 am 21/11/ 2013 - tựa chính bài: Phần thưởng của thơ Nguyễn thanh Giang>
vài hàng tiểu sử
nguyễn thanh giang
Sinh : 6.7. 1936
nguyên quán Hoằng Đức, Hoằng Hóa, Thanh hóa
Bố : Nguyễn như Bá ( 1913 - )
Mẹ : Ngô thị Nhung
Vợ : Nguyễn thị Tuyết Mai ( 1.1. 1943 - )
Con : Nguyễn giang Vũ ( 1967 - )
Nguyễn thị Mai Thủy ( 1971 - )
Công việc
đã kinh qua : 1953 - 63 : dạy học ở Thanh hóa
: 1955 - 62: học cấp 3 và đại học
Tổng hợp Hànội
: 1962 - 94 công tác tại Tổng cục Địa chất
( bộ Công nghiệp Nặng )
: 1992 - 94 tư vấn Công ty kỹ nghệ tại Rican.
: 1995- 96 chuyên viên kỹ thuật Liên đoàn
Vật lý - Địa chất Máy bay
Hiện nghỉ hưu : Khu nhà tập thể Địa-vật-lý Máy bay
tại Trung văn, Từ Liêm, Hànội.
< theo Google.com .search / hosodanchu.word.press.com >
PHỤ LỤC :
LÊN CẤM SƠN
thơ thôi hữu
Tôi lên vùng Cấm Sơn
Đi tìm thăm bộ đội
Đây bốn bề, núi, núi
Heo hút vắng tăm người
Đèo cao rồi lũng hẹp
Dăm túp lều chơi vơi
Bộ đội đóng ở đó
Cách xa hẳn cuộc đời
Ngày ngày ngóng đợi tin xuôi ngược
Chỉ thấy mây xanh bát ngát trời
Họ đã từng dự trận
Từ Tiên yên, Đầm hà
Về An châu, Biển động
Thấm thoát hai năm qua
Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa !
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà
Quây quần bên nến tràm
Chúng tôi ngồi hàn huyên
Bao nhiêu giờ vinh nhục
Bao nhiêu phút ưu phiền
Của đời người chiến sĩ
Đem thâu kể triền miên :
' Có khi gạo hết tiền vơi
Ổi xanh hái xuống đành xơi no lòng
Có đêm gió bấc lạnh lùng
Áo quần rách nát lá dùng che thân
Khó khăn đau ốm muôn phần
Lấy đâu đủ thuốc mặc dầu bệnh nguôi
Có phen chạy giặc tơi bời
Rừng sâu đói rét, không người hỏi han '
Đến nay họ về đây
Giữ vững miền núi Cấm
Thổ phỉ quét xong rồi
Đồn Tây xa chục dặm
Khiến thiết lại bản xóm
Bị giặc đốt tan tành
Trên nền tro đen kịt
Vàng hoe màu mái gianh
Họ đi tìm dân chúng
Lẩn trốn trong rừng xanh
Về làm ăn cày cấy
Tiếp tục đời yên lành
Tiếng hát lừng vang trong gió núi
Ngày vang ngân giọng trẻ ê a.
Ở đây bản vắng rưng u tối
Bộ đội mang gieo ánh chói lòa
Ở đây đường ngập bùn phân cũ
Xẻng cuốc khua vang điệu dựng nhà
Ở đây những mặt buồn như đất
Bộ đội cười lên tươi như hoa
Họ vẫn gầy, vẫn ốm
Mắt vẫn lõm, da vàng
Áo chăn chưa đủ ấm
Ăn uống vẫn tồi tàn
Nhưng vẫn vui, vẫn nhộn
Pháo cưới luôn nổ ran
Lòng tôi bừng thức tình trai mạnh
Muốn viết bài thơ nhộn tiếng cười
Tặng những anh tôi trong lửa đạn
Qua nghìn gian khổ vẫn vui tươi
thôi hữu
( trích từ TẬP VĂN CÁCH MẠNG & KHÁNG CHIẾN -
Hội Văn nghệ Việtnam xuất bản năm 1949 )
THÔI HỮU ( 1914- 1950) - Tên khai sinh: Nguyễn đắc Giới. Sinh 1914 tại huyện Hoằng hóa, tỉnh Thanh hóa. Tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, một trong những người xây dựng báo Vệ quốc quân ( tiền thân báo Quân đội nhân dân ).
Hy sinh ngày 16 tháng 2 năm 1959 tại chiến trường Việt bắc.
Tác phẩm: Thơ văn Thôi Hữu ( 1984 ) Nhà văn Việtnam hiện đai - Hànội 1997.
Thứ Tư, 20 tháng 11, 2013
cha Đắc Lộ phát sinh ra chữ quốc ngữ, như Colomb tìm ra châu Mỹ ... ' tùy bút : khuất đẩu ( usa )
< web T.Vấn & bạn hữu >
cha alexandre de rhodes phát sinh ra
chữ quốc ngữ
như christop colomb tìm ra châu Mỹ ...
.
tùy bút : khuất đẩu
Kỷ niệm ngày mất cha Đắc Lộ ( Alexandre de Rhodes ) , 5- 11- 1661 tới 2013, đã là 352 năm. Hơn 300 năm trước, bằng 24 chữ cái + 5 dấu , của các giáo sĩ dòng Tên và cha Đắc Lộ, đã cơ bản ghi lại trên giấy thứ tiếng ' hót như chim * của người Việtnam.
Đó là cánh cửa thần kỳ mở ra cho Đàng Trong và Đàng ngoài [ một] cơ hộ tiếp cận văn minh Âu châu.
Tiếc thay cánh cửa ấy đã bị đóng sập !
------
* '... Khi tôi đến xứ Nam kỳ và nghe người bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ, có lẽ không bao giờ mình học nói được tiếng một ngôn ngữ như thế ...'
ALEXANDRE DE RHODES
( tạp chí MISSI , tháng 5- 1961)
Phải chi các chùa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong có được 1 phần mười tầm nhìn cùa Minh Trị Thiên hoàng , thì nước Việt ta ngày hôm nay , không cần phải đổ bao nhiêu xương máu mới giành được độc lập và dĩ nhiên không cần phải có Điện biên Phủ mới khiến cả toàn thế giới kinh phục.
Truyện Kiều của Nguyễn Du đã không cần phải viết bằng thứ chữ khó đọc, khó viết, nửa vay mượn chữ Hán, nửa thêm thắt, tùy tiện một cách rối rắm, thứ chữ, mà, giá như có chữ quốc ngữ, thì dù có ra sức đến đâu, chắc chắn hãy còn một nửa nước mù chữ.
Một nước Nhật văn minh như thế, vẫn đang loay hoay khốn khổ tìm cách la-tinh-hóa , thì ở ta, một đứa trẻ lớp 1, chỉ phải mất 3 tháng, có thể đọc thông, viết thạo.
Sao mà dễ như lấy một viên kẹo trong túi. Nhưng 300 năm trước, các giáo sĩ dong Tên và cha Đắc Lộ không dễ như thế đâu? Trước hết, họ phải học thứ tiếng khó nói, khó học như chim hót . Khó, vì những âm tiết lên bổng, xuống trầm, mà, chỉ cần thay đổi một cái dấu trong 5 dấu là thành tiếng[nghiã] khác, [hoặc] chữ khác.
Chẳng những thông minh , mà còn phải kiên trì, nhẫn nại- các giáo sĩ Bồ + Ý , cha Đắc Lộ mới có thể phát âm đúng, để từ đó, tìm ra các ký tự. Rồi họ sử dụng các dấu huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng một cách tài tình để phân biệt các âm tiết trầm , bổng.
Đồng ý, cha Đắc Lộ không phải người phát kiến ra chữ quốc ngữ, nhưng, ông là người có công tổng hợp, hệ thống hóa và sắp đặt, để lần đầu tiên trên thế giới , in cuốn từ điển
Bồ+ La . [Anamiticum Lusitanum et Latinum - the first Vietnamese-Portuguese-Latinum, published in Rome, 1651]
Alexandre de Rhodes đã soạn cuốn từ điển đầu tiên khi nào ? [ Hẳn ], không còn nghi ngờ gì nữa, trong những lần ông đến Việtnam. Nhưng, khoảng thời gian 7* năm ông ở xứ này, luôn bị ngắt quãng bởi những lần đến, rồi đi, rồi lại trở lại.
-----
* đúng ra, phải là 12 năm . ( tạp chí MISSI, tháng 5, 1961 kỷ niệm 300 năm Alexandre de Rhodes ). (BT)
Nếu, lưu ý thêm rằng, cha Đắc Lộ còn bị thúc bách, bởi nhiệm vụ [ chính] là truyền đạo và ông phải thường xuyên ở [trong] trạng thái bí mật, hoặc nửa bí mật - một hoàn cảnh rất bất lợi cho công việc nghiên cứu 'ngữ nghĩa học' - chúng ta có thể giả định, như mục sư Bordreuil:
'... có lẽ, ông[ Đắc Lộ] đã làm cuốn từ điển trong [ một] thời gian khá dài ở Macao, từ năm 1630 đến 1640. Mặc dù, ông nói rõ trong tác phẩm , chúng tôi, tin rằng cha[Alexandre] de Rhodes đã tận dụng khỏng 10 năm yên ổn về tâm trí, nếu, không phải để viết, thì, ít nhất cũng đặt nền tảng cho 2 cuốn sách quan trọng đối với Ki-tô [Christ] hữu An Nam và các nhà truyền giáo, chúng tôi muốn nói đến cuốn giao lý và từ điển của ông [ A.de Rhodes] ...'
Mặt khác, thời gian ở Rome, cho phép ông [cha Đắc Lộ] thực hiện thành công việc thu xếp tài chính để xuất bản tác phẩm của mình.
Cha Léopard Cadìère, người rất am hiểu vấn đề, nhấn mạnh, vốn hiểu biết tiếng Việtnam sâu sắc của ông :
'... Mọi điều liên quan đến tiếng An Nam, phương ngữ Bắc bộ với phương ngữ Nam kỳ, đều phải là bí mật đối ông [cha Đắc Lộ] . Ông còn cho chúng tôi biết thêm về thực trạng tiếng An Nam cổ, những phong tục, tập quán[mà] ngày nay không còn và những thông tin[này cho] chúng ta không thể thấy ở bất cứ nơi nào khác. Thêm nữa, về nghĩa của các từ,[thì] cuốn sách là một sự đảm bào tuyệt đối, những khái niệm ngữ pháp [ của] ông thêm vào cuốn từ điển- cho thấy ông hiểu biết sâu sắc về cấu trúc- đôi khi, rất phức tạp và tinh tế của cú pháp An Nam. ..'
( CADIÈRE, 1915, p. 238- 239 )
Đành rằng ông[ cha Đắc Lộ] kiên nhẫn tìm cách la-tinh-hóa tiếng Việt là để truyền đạo - nhưng, bảo rằng ông chẳng có công trạng gì đối với dân tộc Vietnam, là vô ơn . Còn cho rằng
[ cha Đắc Lộ] có tội, vì :
'... tìm đường cho thực dân xâm chiếm nước ta , [thì ] lại [càng] hồ đồ hơn nữa!...
( BÙI KHA: CÔNG & TỘI CỦA ĐẮC LỘ ).
Khi các giáo sĩ dòng Tên và cha Đắc Lộ làm một công việc - theo tôi- như Christop Colomb
tìm ra châu Mỹ [vậy] .
[]
khuất đẩu
< web T.Vấn & bạn hữu >- usa-
( tựa chính của bài: ' Tôi thực sự cảm thấy xấu hổ...' )
cha alexandre de rhodes phát sinh ra
chữ quốc ngữ
như christop colomb tìm ra châu Mỹ ...
.
tùy bút : khuất đẩu
Kỷ niệm ngày mất cha Đắc Lộ ( Alexandre de Rhodes ) , 5- 11- 1661 tới 2013, đã là 352 năm. Hơn 300 năm trước, bằng 24 chữ cái + 5 dấu , của các giáo sĩ dòng Tên và cha Đắc Lộ, đã cơ bản ghi lại trên giấy thứ tiếng ' hót như chim * của người Việtnam.
Đó là cánh cửa thần kỳ mở ra cho Đàng Trong và Đàng ngoài [ một] cơ hộ tiếp cận văn minh Âu châu.
Tiếc thay cánh cửa ấy đã bị đóng sập !
------
* '... Khi tôi đến xứ Nam kỳ và nghe người bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ, có lẽ không bao giờ mình học nói được tiếng một ngôn ngữ như thế ...'
ALEXANDRE DE RHODES
( tạp chí MISSI , tháng 5- 1961)
Phải chi các chùa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong có được 1 phần mười tầm nhìn cùa Minh Trị Thiên hoàng , thì nước Việt ta ngày hôm nay , không cần phải đổ bao nhiêu xương máu mới giành được độc lập và dĩ nhiên không cần phải có Điện biên Phủ mới khiến cả toàn thế giới kinh phục.
Truyện Kiều của Nguyễn Du đã không cần phải viết bằng thứ chữ khó đọc, khó viết, nửa vay mượn chữ Hán, nửa thêm thắt, tùy tiện một cách rối rắm, thứ chữ, mà, giá như có chữ quốc ngữ, thì dù có ra sức đến đâu, chắc chắn hãy còn một nửa nước mù chữ.
Một nước Nhật văn minh như thế, vẫn đang loay hoay khốn khổ tìm cách la-tinh-hóa , thì ở ta, một đứa trẻ lớp 1, chỉ phải mất 3 tháng, có thể đọc thông, viết thạo.
Sao mà dễ như lấy một viên kẹo trong túi. Nhưng 300 năm trước, các giáo sĩ dong Tên và cha Đắc Lộ không dễ như thế đâu? Trước hết, họ phải học thứ tiếng khó nói, khó học như chim hót . Khó, vì những âm tiết lên bổng, xuống trầm, mà, chỉ cần thay đổi một cái dấu trong 5 dấu là thành tiếng[nghiã] khác, [hoặc] chữ khác.
Chẳng những thông minh , mà còn phải kiên trì, nhẫn nại- các giáo sĩ Bồ + Ý , cha Đắc Lộ mới có thể phát âm đúng, để từ đó, tìm ra các ký tự. Rồi họ sử dụng các dấu huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng một cách tài tình để phân biệt các âm tiết trầm , bổng.
Đồng ý, cha Đắc Lộ không phải người phát kiến ra chữ quốc ngữ, nhưng, ông là người có công tổng hợp, hệ thống hóa và sắp đặt, để lần đầu tiên trên thế giới , in cuốn từ điển
Bồ+ La . [Anamiticum Lusitanum et Latinum - the first Vietnamese-Portuguese-Latinum, published in Rome, 1651]
Alexandre de Rhodes đã soạn cuốn từ điển đầu tiên khi nào ? [ Hẳn ], không còn nghi ngờ gì nữa, trong những lần ông đến Việtnam. Nhưng, khoảng thời gian 7* năm ông ở xứ này, luôn bị ngắt quãng bởi những lần đến, rồi đi, rồi lại trở lại.
-----
* đúng ra, phải là 12 năm . ( tạp chí MISSI, tháng 5, 1961 kỷ niệm 300 năm Alexandre de Rhodes ). (BT)
Nếu, lưu ý thêm rằng, cha Đắc Lộ còn bị thúc bách, bởi nhiệm vụ [ chính] là truyền đạo và ông phải thường xuyên ở [trong] trạng thái bí mật, hoặc nửa bí mật - một hoàn cảnh rất bất lợi cho công việc nghiên cứu 'ngữ nghĩa học' - chúng ta có thể giả định, như mục sư Bordreuil:
'... có lẽ, ông[ Đắc Lộ] đã làm cuốn từ điển trong [ một] thời gian khá dài ở Macao, từ năm 1630 đến 1640. Mặc dù, ông nói rõ trong tác phẩm , chúng tôi, tin rằng cha[Alexandre] de Rhodes đã tận dụng khỏng 10 năm yên ổn về tâm trí, nếu, không phải để viết, thì, ít nhất cũng đặt nền tảng cho 2 cuốn sách quan trọng đối với Ki-tô [Christ] hữu An Nam và các nhà truyền giáo, chúng tôi muốn nói đến cuốn giao lý và từ điển của ông [ A.de Rhodes] ...'
Mặt khác, thời gian ở Rome, cho phép ông [cha Đắc Lộ] thực hiện thành công việc thu xếp tài chính để xuất bản tác phẩm của mình.
Cha Léopard Cadìère, người rất am hiểu vấn đề, nhấn mạnh, vốn hiểu biết tiếng Việtnam sâu sắc của ông :
'... Mọi điều liên quan đến tiếng An Nam, phương ngữ Bắc bộ với phương ngữ Nam kỳ, đều phải là bí mật đối ông [cha Đắc Lộ] . Ông còn cho chúng tôi biết thêm về thực trạng tiếng An Nam cổ, những phong tục, tập quán[mà] ngày nay không còn và những thông tin[này cho] chúng ta không thể thấy ở bất cứ nơi nào khác. Thêm nữa, về nghĩa của các từ,[thì] cuốn sách là một sự đảm bào tuyệt đối, những khái niệm ngữ pháp [ của] ông thêm vào cuốn từ điển- cho thấy ông hiểu biết sâu sắc về cấu trúc- đôi khi, rất phức tạp và tinh tế của cú pháp An Nam. ..'
( CADIÈRE, 1915, p. 238- 239 )
Đành rằng ông[ cha Đắc Lộ] kiên nhẫn tìm cách la-tinh-hóa tiếng Việt là để truyền đạo - nhưng, bảo rằng ông chẳng có công trạng gì đối với dân tộc Vietnam, là vô ơn . Còn cho rằng
[ cha Đắc Lộ] có tội, vì :
'... tìm đường cho thực dân xâm chiếm nước ta , [thì ] lại [càng] hồ đồ hơn nữa!...
( BÙI KHA: CÔNG & TỘI CỦA ĐẮC LỘ ).
Khi các giáo sĩ dòng Tên và cha Đắc Lộ làm một công việc - theo tôi- như Christop Colomb
tìm ra châu Mỹ [vậy] .
[]
khuất đẩu
< web T.Vấn & bạn hữu >- usa-
( tựa chính của bài: ' Tôi thực sự cảm thấy xấu hổ...' )
Thứ Ba, 19 tháng 11, 2013
sóng biển lộc an, thủy tinh làm tình dưới nước / thơ thế phong
bài thơ mới, từ sau 1970.
sóng biển lộc an,
thủy tinh làm tình dưới nước .
thơ thế phong
thơ chứng đạo tặng trần thiện hiệp:
' con lạc đà ... chui qua lỗ kim..!'
Thứ bẩy dã ngoại
ban truyền giảng hội thánh thị nghè
lộc an resort, đất đỏ, bàrịa - vũng tàu
bãi tắm tận xa kia
đò ngang qua đầm
thi nhân tuổi 81
vẫy vùng bãi tắm lạ kỳ !
biển xanh sóng bạc đầu
black pennon cọc lung liêng
cầm giây phao, mặc sóng cọ kỳ
tôi và Nàng [ nhớ lại]
thủy tinh làm tình dưới nước.
[ eo quắn vũng tàu, xa rồi 47 năm ! ]
nữ tín hữu tên ngời kể chuyện
46 xuân xanh,
làm chứng đạo,
chàng trung niên tuổi ngoài 5 bó ,
mời anh dự truyền giảng tối nay
đường thiên đàng rộng mở,
linh hồn anh được cứu.
Chúa phiếu tội anh trắng phau
chàng bèn sừng sộ:
dầu gì tôi có danh dự riêng ,
sao cô em dám rủ lên thiên đàng,
kỳ dzậy!
[ lên thiên đàng : vào khách sạn 50 k / giờ ]
cả xe cười ngặt nghẹo.
vóc dáng cô ngời mượt mà
điện nước quá đầy đủ
vậy mà,
chồng vẫn bỏ nhà theo gái,
mình nàng, gả chồng con gái
rể việt, quốc tịch huê kỳ,
rể yêu vợ đẹp,
quí trọng mẹ vợ xinh
thuê penthouse lầu cao vút,
xe hơi mẹ lái,
sống thỏa vui trong Chúa
hàng tuần chứng đạo.
hầu việc chúa Giê-xu
tôi trở dậy sáng nay,
ngày mới Ngài ban ,
cà-phê nhấp môi
đọc thi ca trần thiện hiệp *
thơ chàng tư mã thế mà hay
gạ lên thiên đàng, liệu có khứng ?
tin Chúa đi, trước khi quá muộn !
thếphong
SAIGON OCT. 21, 2013
-----
* mong chi Trời gọi sớm, ta về / thơ trần thiện hiệp
trong bài ' bát thập với thất ngôn '.
sóng biển lộc an,
thủy tinh làm tình dưới nước .
thơ thế phong
thơ chứng đạo tặng trần thiện hiệp:
' con lạc đà ... chui qua lỗ kim..!'
Thứ bẩy dã ngoại
ban truyền giảng hội thánh thị nghè
lộc an resort, đất đỏ, bàrịa - vũng tàu
bãi tắm tận xa kia
đò ngang qua đầm
thi nhân tuổi 81
vẫy vùng bãi tắm lạ kỳ !
biển xanh sóng bạc đầu
black pennon cọc lung liêng
cầm giây phao, mặc sóng cọ kỳ
tôi và Nàng [ nhớ lại]
thủy tinh làm tình dưới nước.
[ eo quắn vũng tàu, xa rồi 47 năm ! ]
nữ tín hữu tên ngời kể chuyện
46 xuân xanh,
làm chứng đạo,
chàng trung niên tuổi ngoài 5 bó ,
mời anh dự truyền giảng tối nay
đường thiên đàng rộng mở,
linh hồn anh được cứu.
Chúa phiếu tội anh trắng phau
chàng bèn sừng sộ:
dầu gì tôi có danh dự riêng ,
sao cô em dám rủ lên thiên đàng,
kỳ dzậy!
[ lên thiên đàng : vào khách sạn 50 k / giờ ]
cả xe cười ngặt nghẹo.
vóc dáng cô ngời mượt mà
điện nước quá đầy đủ
vậy mà,
chồng vẫn bỏ nhà theo gái,
mình nàng, gả chồng con gái
rể việt, quốc tịch huê kỳ,
rể yêu vợ đẹp,
quí trọng mẹ vợ xinh
thuê penthouse lầu cao vút,
xe hơi mẹ lái,
sống thỏa vui trong Chúa
hàng tuần chứng đạo.
hầu việc chúa Giê-xu
tôi trở dậy sáng nay,
ngày mới Ngài ban ,
cà-phê nhấp môi
đọc thi ca trần thiện hiệp *
thơ chàng tư mã thế mà hay
gạ lên thiên đàng, liệu có khứng ?
tin Chúa đi, trước khi quá muộn !
thếphong
SAIGON OCT. 21, 2013
-----
* mong chi Trời gọi sớm, ta về / thơ trần thiện hiệp
trong bài ' bát thập với thất ngôn '.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)