Thứ Hai, 25 tháng 11, 2013

77 tuổi ra tập thơ đầu tay và duy nhất : thơ nguyễn thanh giang / bài : thanh thảo ( quảng ngãi )

những mẫu quặng đọc đường / nguyễn thanh giang
nxb hội nhà văn việtnam, hànội 2013

                   ' thơ định phận cho ta :
                                   phần thưởng của ta ...'
                                                             bài  viết: thanh thảo


    -   phạm nhật duật thành danh  , đều đã bước ra từ  tuyển tập thơ  sức mới ...
.
    -  3 /4 thơ nguyễn thanh giang thơ mậu dịch ... thơ của' phở không người lái ...-
         theo cách  nói xếch mé của 
...
    -'  mừng thấy non sông bặt gió tây'.-  gió tây ấy bây giờ là gió ...

    -  nguyễn thanh giang đã nổi tiếng lắm rồi... công an, an ninh mật theo anh khắp nơi...
       anh lên tàu, cũng không thấy ai theo dõi..hay, là có mà tôi không biết .
..
    -  thơ nguyễn thanh giang là thơ yêu nước, thơ kháng chiến, thơ chống giặc ngoại xâm...

     
      Thơ Nguyễn thanh Giang mộc mạc mà thỏ thẻ với tôi nhiều thú  vị.   Anh nói đây là tập thơ của cả đời mình.  Có lẽ đúng, vì 3/ 4 tập thơ , thì 2 phần đã dính với nghề nghiệp của anh rồi. Nếu 1 phần là những mẫu quặng đời, thì phần 3, là  hành trình địa chất.
    Anh dành trọn 1 phần 2  cho quê hương đất nước, như mọi người việt là thơ yêu nước...

   Nguyễn thanh Giang là một nhà địa-vật-lý.  Suốt bao năm trong đời mình, anh đã có những đóng góp đáng kể cho đất nước qua chuyên môn rộng và sâu của mình.

    Đó là một người sống chết với từng mẫu quặng,  sống chết với nghề :   nghề địa chất .  Và đã trải đời mình trên cả chiều rộng, chiều sâu của bản đồ Tổ quốc.   Nghề và nghiệp đã đưa anh tới với Thơ.  Tình yêu  đất nước, yêu những người dân bình dị [mà]  anh đã gặp và đã thân quen suốt hành trình địa chất đã đưa anh tới với Thơ.

    Tôi còn nhớ, khi học ở khoa Văn đại học Tổng hợp, những năm sơ tán ở Đại từ- Thái nguyên, tôi đã đọc được đọc [tuyển]  tập thơ  Sức mới, với lời giới thiệu của Chế lan Viên .  Đó gần như là tập thơ trẻ đầu tiên của miền Bắc.   Chúng tôi, hồi đó còn rất trẻ, nên, đã nhìn thơ trẻ, thơ được làm bởi những người trẻ thu hút chúng tôi nhiều nhất.

     Tôi nhớ Sức mới ấy có một bài thơ của Nguyễn thanh Giang.   Hồi đó, có thơ in trong một tuyển  [tập] thơ như vậy là ghê lắm rồi, là bắt đầu nổi tiếng.  Chính Phạm tiến Duật , và nhiều nhà thơ trẻ thành danh sau này, đều đã bước ra từ tập thơ Sức mới , in giấy xấu.

    Bẵng đi nhiều năm, không thấy Nguyễn thanh Giang công bố thơ nữa, cứ , nghĩ là anh bỏ thơ sang làm chuyện khác rồi.   Cho tới một ngày, tình cờ, ở một ga tỉnh lẻ, tôi, lần đầu được gặp Nguyễn thanh Giang, qua giới thiệu của một người bạn đang chờ tàu.   Lúc ấy, Nguyễn thanh Giang đã nổi tiếng lắm rồi, nhưng, là ở một khu vực khác.   Người ta nói công an,  hay,  an ninh mật gì đó theo anh khắp nơi  Nhưng hôm ở nhà ga tỉnh lẻ, anh đi đâu ghé qua đường, tôi, hình như không thấy có  bạn công an nào theo anh. Chỉ có  nắng.  Và gió.  Và dòng người chen chúc nhau ở một nhà ga, khi tàu sắp tới.   Khi tôi nhắc về  [một] bài thơ ở tập Sức mới, Nguyễn thanh Giang thổ lộ là anh vẫn làm thơ, anh còn yêu thơ lắm .

    Rồi tàu đến, chúng tôi chia tay.
    Nguyễn thanh Giang lân tàu, cũng không thấy ai theo dõi gì, hay, là có mà tôi không biết.
   Tôi vốn thật thà, và,  cũng không quá coi trọng ai theo dõi ai .

     Phải nói , gần như là 3 /4 [ trong] tập thơ Nguyễn thanh Giang là thơ mậu dịch quốc doanh - theo cách nói  xếch mé của một vài nhà [được] gọi là nhà phê bình trên mạng internet bây giờ.

      Đó là thơ yêu nước,  thơ chống giặc ngoại xâm.  Nó song hành với những bát phở không người lái, với từng đề-xi-mét, vải thô được cấp phát, với  từng chút mì chính ( bột ngọt) phân phối tới mỗi người lính, mỗi cán bộ, mỗi người dân trong những năm tháng cực kỳ thiếu thốn ở miền bắc Việtnam :

                                Anh muốn về thăm nơi nặng tình nặng nghĩa
                                Nơi mẹ già cho bát cháo hành dăm
                                Nơi các em dựng trường bằng tiền mót khoai xúc tép
                                Vào lớp ngồi bàn còn bùn đầy chân 
                                       NHỚ VỀ XÓM CŨ / thơ  NGUYỄN THANH GIANG 
 
     Phải chăng nhân dân từ góc nhìn như thế, thì mới có những câu thơ - như nhà điêu khắc tạc vào đá - khi viết về một người đồng hương của mình :

                                Vẫn thấy ông thồ đá qua những đồi sim
                                Lầm lũi xám những chiều hoang biền biệt
                                Kẽo kẹt bên trời dáng ông lẫm liệt  
                                                    NHỚ HỮU LOAN  / thơ  NGUYỄN THANH GIANG

    Và khi nhớ về một nhà thơ của miền ven biển Quảng ngãi : nơi nước bao vây cách biển nửa ngày sông - Nguyễn thanh Giang vẫn định hướng được tầm vóc của những mảnh hồn làng hôm nay :

                               Ông có về lại vườn xưa hái quả 
                               Thăm con sông từng tắm mát đời ta 
                               Chú còng gió giương càng chào biển cả
                               Những mảnh hồn làng phấp phới tận Hoàng Sa 
                                   NHỚ TẾ HANH / thơ NGUYỄN THANH GIANG

   Và, trong một đêm ngủ ở làng cổ Đường Lâm [Sơn tây], quê Ngô Quyền - Nguyễn thanh Giang vụt nghe và thấy :

                              Chiều đọc tin ngư phủ mình bị giết 
                              Ước biển Đông vút cọc nhọn Bạch Đằng 
                              Đêm nghe vọng tiếng tù và hối thúc 
                             Thấy Ngô Quyền lẫm liệt vung gươm
                                              ĐÊM NGỦ Ở ĐƯỜNG LÂM / thơ NGUYỄN THANH GIANG

      Không thể gọi bằng một tên khác; đó là thơ yêu nước.  Người ta cứ tưởng khi đã thanh bình rồi, thì, lòng yêu nước cũng lặn mất tiêu trong thơ. Không phải đâu !

     Và đất nước ta bây giờ cũng chưa thật sự thanh bình.
     Kẻ thù vẫn ngày đêm rình rập, đe dọa.
     Biển Đông cuộn sóng.

    Ngư dân ra khơi đánh cá trên những ngư trường truyền thống, như Hoàng Sa, Trường Sa vẫn liên tục bị khủng bố.
 
      Người ta làm thơ yêu nước,
      bây giờ vẫn canh cánh trong lòng bao nỗi niềm, như thuở cụ Đồ Chiểu hằng khắc khoải:

                           Bao giờ trời đất an ngời Mừng thấy non sông bặt gió Tây !
                                                  thơ ĐỒ CHIỂU 

     Gió Tây ấy, bây giờ là gió ( bấc ) Bắc .

     Mà gió bấc lả gió bấc, gió nồm là gió nồm, không có kiểu chúng ta cùng gió bấc gió nồm, như ai đã nói  !

     Đọc thơ Nguyễn thanh Giang,tôi cứ muốn dừng lâu ở những đoạn thơ hồn nhiên thời kháng chiến
của anh :

                                      Bấy lâu măng chấm muối vừng 
                                      Bữa nay giềng mẻ thơm lừng suối khe 
                                      Đi mười cây số mua bia
                                      Bi-đông mở nút cũng nghe nổ giòn
                                      Chúc nhau chân cứng đá mòn 
                                      Tay vừa chụm cốc, cây rừng đã say
                                                       TẾT TRONG THUNG LŨNG /  thơ NGUYỄN THANH GIANG

    Những câu thơ như thế, nó khiến cuộc đời chúng ta vốn nhiều buồn phiền, [tuy vậy,  vẫn ] dễ sống hơn.   Cũng như bài thơ tặng cháu đích tôn này :

                                       Mơ màng thấy nước biển dâng 
                                       Thuyền vào tận ngõ nhưng không còn mình
                                       Tưởng đã qua mấy mươi năm 
                                       Tỉnh ra biết cháu đái dầm ướt lưng
                                                            thơ NGUYỄN THANH GIANG

       rất tự tại !

   Tôi biết người vợ tần tảo của Nguyễn thanh Giang , con gái nhà thơ [Vệ quốc quân] Thôi Hữu *, một nhà thơ yêu nước, và bài thơ nổi tiếng Lên Cấm Sơn **,  mà  từ hồi đi học, chúng tôi từng ngưỡng mộ.  Thơ là chuyện của đất nước, của nhân loại, mà, cũng là chuyện của nhà ta, của mỗi gia đình việt.  Dù thơ chẳng cho ta danh phận gì, nhưng, thơ định phận cho ta , thơ là phần thưởng của ta - nói như nhà thơ Nga-xô-viết :

                                         Và những huân chương, không cần 
                                         Không lăng xăng huênh hoang  
                                         Với  nhà thơ chúng ta - phần thưởng-
                                         chính  là số phận mình

     Khi phần thưởng của mình chính là số phận mình, thì, cần phải lắm lời, phải không ạ ?
             []

          thanh thảo 
          QUẢNG NGÃI, QUA TẾT ĐOAN NGỌ, 2013

-----------
*   và **  : xem ở phần Phụ lục . ( chú thích : Biên Tập )

< web Đàn chim việt  >  -  10.37 am  21/11/ 2013   - tựa chính bài: Phần thưởng của thơ Nguyễn thanh Giang>


            vài hàng tiểu sử

                                                   nguyễn thanh giang

                   Sinh                      :    6.7. 1936
                                                     nguyên quán Hoằng Đức, Hoằng Hóa, Thanh hóa
                   Bố                        :    Nguyễn như Bá   ( 1913 -        )
                   Mẹ                       :     Ngô thị Nhung
                   Vợ                        :     Nguyễn thị Tuyết  Mai   ( 1.1. 1943 -        )
                   Con                      :     Nguyễn giang Vũ     ( 1967  -            )
                                                    Nguyễn thị Mai Thủy   ( 1971 -        )
                   Công việc
                   đã kinh qua       :     1953 - 63   :    dạy học ở Thanh hóa
                                               :    1955 -  62:      học cấp 3 và đại học
                                                                         Tổng hợp Hànội
                                                :    1962 -   94     công tác tại Tổng cục Địa chất
                                                                         ( bộ Công nghiệp Nặng )
                                                :   1992  - 94       tư vấn Công ty kỹ nghệ tại Rican.
                                                :   1995- 96        chuyên viên kỹ thuật Liên đoàn 
                                                                        Vật lý - Địa chất Máy bay
                                                
                 Hiện nghỉ hưu            :                      Khu nhà tập thể Địa-vật-lý Máy bay
                                                                        tại Trung văn, Từ Liêm, Hànội.

                                               < theo Google.com .search /  hosodanchu.word.press.com > 

                PHỤ LỤC :

                                                                  LÊN CẤM SƠN 
                                                                   thơ thôi hữu 

                                                          Tôi lên vùng Cấm Sơn
                                                          Đi tìm thăm bộ đội  
                                                          Đây bốn bề, núi, núi
                                                          Heo hút vắng tăm người
                                                          Đèo cao rồi lũng hẹp 
                                                          Dăm túp lều chơi vơi 
                                                          Bộ đội đóng ở đó
                                                          Cách xa hẳn cuộc đời 
                                                          Ngày ngày ngóng đợi tin xuôi ngược
                                                          Chỉ thấy mây xanh bát ngát trời
                                                          Họ đã từng dự trận
                                                          Từ Tiên yên, Đầm hà
                                                          Về An châu, Biển động
                                                          Thấm thoát hai năm qua 

                                                          Cuộc đời gió bụi pha xương máu
                                                          Đói rét bao lần xé thịt da 
                                                          Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
                                                          Đâu còn tươi nữa những ngày hoa !
                                                          Lòng tôi xao xuyến tình thương xót  
                                                          Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa 
                                                          Tặng những anh tôi từng rỏ máu 
                                                          Đem thân xơ xác giữ sơn hà

                                                          Quây quần bên nến tràm
                                                          Chúng tôi ngồi hàn huyên
                                                          Bao nhiêu giờ vinh nhục
                                                          Bao nhiêu phút ưu phiền 
                                                          Của đời người chiến sĩ 
                                                          Đem thâu kể triền miên :
                                                          ' Có khi gạo hết tiền vơi
                                                          Ổi xanh hái xuống đành xơi no lòng
                                                          Có đêm gió bấc lạnh lùng 
                                                           Áo quần rách nát lá dùng che thân 
                                                           Khó khăn đau ốm muôn phần 
                                                           Lấy đâu đủ thuốc mặc dầu bệnh nguôi 
                                                           Có phen chạy giặc tơi bời 
                                                           Rừng sâu đói rét, không người hỏi han '

                                                            Đến nay họ về đây
                                                            Giữ vững miền núi Cấm 
                                                            Thổ phỉ quét xong rồi
                                                            Đồn Tây xa chục dặm
                                                            Khiến thiết lại bản xóm
                                                            Bị giặc đốt tan tành 
                                                            Trên nền tro đen kịt 
                                                            Vàng hoe màu mái gianh
                                                            Họ đi tìm dân chúng
                                                             Lẩn trốn trong rừng xanh
                                                            Về làm ăn cày cấy
                                                            Tiếp tục đời yên lành

                                                            Tiếng hát lừng vang trong gió núi 
                                                            Ngày vang ngân giọng trẻ ê a. 
                                                            Ở đây bản vắng rưng u tối
                                                            Bộ đội mang gieo ánh chói lòa
                                                            Ở đây đường ngập bùn phân cũ 
                                                             Xẻng cuốc khua vang điệu dựng nhà
                                                            Ở đây những mặt buồn như đất 
                                                             Bộ đội cười lên tươi như hoa

                                                             Họ vẫn gầy, vẫn ốm
                                                             Mắt vẫn lõm, da vàng
                                                            Áo chăn chưa đủ ấm
                                                             Ăn uống vẫn tồi tàn 
                                                             Nhưng vẫn vui, vẫn nhộn
                                                             Pháo cưới luôn nổ ran 
                                                             Lòng tôi bừng thức tình trai mạnh
                                                             Muốn viết bài thơ nhộn tiếng cười 
                                                             Tặng những anh tôi trong lửa đạn 
                                                             Qua nghìn gian khổ vẫn vui tươi

                                                                     thôi hữu
     
                                                      ( trích từ   TẬP VĂN  CÁCH MẠNG  & KHÁNG CHIẾN -
                                                                                      Hội Văn nghệ Việtnam   xuất bản năm 1949 

         THÔI HỮU  ( 1914- 1950)  - Tên khai sinh:   Nguyễn đắc Giới.    Sinh 1914 tại huyện Hoằng hóa,  tỉnh Thanh hóa.  Tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, một trong những người xây dựng báo Vệ quốc quân ( tiền thân báo Quân đội nhân dân ).  
             Hy sinh ngày 16 tháng 2 năm 1959 tại chiến trường  Việt bắc.
            Tác phẩm: Thơ văn Thôi Hữu ( 1984 )       Nhà văn Việtnam hiện đai - Hànội 1997.
                                                         

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét