Thứ Ba, 17 tháng 12, 2013

nhà văn - nhà thơ thế phong & mối tình ' nếu anh có em là vợ ' / bài viết : như hoa lê quang sinh ( usa )

tạp chí bút tre ( usa ) tháng 7 / 2006
 < www. buttre.org >



                                             nhà văn - nhà thơ  thế phong &
                              mối tình  ' nếu anh có em là vợ'
                                    bài viết : như hoa lê quang sinh

    Chúng tôi  xin hân hạnh giới thiệu cùng quý độc giả, bài viết về mối tình lãng mạn của nhà văn Thế Phong ( hiện đang sống tại Saigon ) do phóng viên Thanh Hải ghi theo lời kể của nhà văn Thế Phong.  Tài liệu nầy, chúng tôi vừa nhận được từ quê nhà gởi sang ( báo PL, tháng 4 - 2006).
    Thế Phong sinh ngày 10-07-1932 tại  Yên bái.  Ông viết văn, làm thơ từ hồi còn rất trè.   Năm 20 tuổi, ông viết truyện ngắn đầu tiên , ' Đời học sinh' , ký bút hiệu Tương Huyền, đăng trên nhật báo Tia sáng ở Hànội ( 17- 11- 1952 ).   Truyện dài đầu tiên  in ở Saigon  năm 1954 : ' Tình sơn nữ'.  
     Tổng số  có trên 50 tác phẩm, đủ thể loại: thơ, truyện, phê bình, khảo luận, và dịch thuật, đã có nhiều tác phẩm được chuyển dịch sang Anh và Pháp ngữ.  Những sách ông viết vào thập niên  90 và gần đây nhất, gồm có 'T.T.KH  Nàng là ai ?' ( Thế Nhật ) -  ' Nếu anh có em là vợ ' - ' Cuộc đời viết văn làm báo : Tam Lang- Tôi kéo xe ' - ' Chiêu niệm 4 nhà văn  Saigon , Hànội 40 năm xa - Hàn mặc Tử, nhà thơ siêu thoát. 
      Ông chủ trương nhà xuất bản Đại Nam văn hiến ở Saigon từ 1959 đến 4- 1975. Và đăng truyện ngắn Les Immondices dans la banlieue trên báo Le Monde Diplomatique ( tháng 12/ 1970), đăng thơ trên tạp chí TENGGARA  từ 1968 đến 1973. Năm 1971, thơ ông đã được in thành sách ' Asian morning Western music,  Đàm xuân Cận chuyển dịch anh ngữ, giáo sư Lloyd Fernando  viết tựa, Saigon 1971 & tạp chí TENGGARA giữ bản quyền.  
     Bút danh thường ký trên các tác phẩm :  Tương Huyền, Đường Bá Bổn, Đinh bạch Dân. 
   Tên tuổi tác giả đã  được đưa vào các sách Intoduction à la littérature vietnamienne của M.M. Durand & Nguyen tran Huân ( Collection UNESCO, Nxb La Rose, Paris 1969) và  ' Who's  who in Vietnam '  ( Vietnam Press, Saigon 1974).
       Sau 1975, 2 cuốn sách in ở Hoa Kỳ: Hồi ký ngoài văn chương ( Nxb văn nghệ , Cali, 1996) và ' Thư viết ở Saigon ' ( Nxb Văn Uyển, San Jose, Cali, 2000 ).
   Chúng tôi  được làm quen với ông  Thế Phong từ năm 2000, qua sự giới thiệu của nhà văn, nhà báo  Thanh Thương Hoàng ở San Jose.   Và từ đó, ông đã tham gia thi tập ' Cụm hoa tinh yêu'  do Hội thơ  Tài tử Việtnam Hải ngoại xuất bản  hàng năm cho tới nay .    Đáng lẽ ông đã đến Hoa Kỳ để tham dự Đại hội Thơ quốc tế vào ngày 17 tháng 9 năm 2006, theo lời mời của chúng tôi, nhưng lãnh sự quán Hoa  Kỳ ở Saigon đã từ chối cấp chiếu khán cho ông và phu nhân Nguyện thị Khê, với lý do rất đơn giản : có khả năng không trở lại Việtnam, hay, nói cách , là , họ ngại vợ chồng ông sẽ tìm cách ở lại Mỹ luôn !   Chúng tôi không tin như vậy.  
     Thế Phong là một con người khá đặc biệt. Học giả Hoàng xuân Việt, nhà văn Hoàng Lại Giang, nhà văn Tạ Tỵ đã nói nhiều về cá tính của ông.  Ông có lối viết bộc trực như cách sống của ông.  Tuy nhiên, dù thuộc thành phần ưa  ông hay ghét ông, độc giả vẫn bị cuốn hút bởi những chuyện ông kể.  Ông có lối sống ' bạt mạng ' , như chính ông cũng tự nhận mình la ' con ngựa bất kham '.   Người ta  nói,' có tật, có tài'.  Nhưng, đối với  Thê Phong, chúng tôi xin nói ngược lại, ông là người' có tài, có tật '.

         NHƯ HOA LÊ QUANG SINH

  Mười ba tuổi , khi đang học phổ thông, tôi đã cảm một cô bé  học cùng lớp.  Cô bé có đôi má ửng hồng, rất xinh.    Tôi viết vào vở cô ấy một câu tiếng Pháp:' Je t'aime ' ( Anh yêu em ).  Cô bé  đem quyển vở nộp cho cha tôi là hiệu trưởng của trường.  Ông bắt tôi xin lỗi bạn rồi về nhà cho tôi một trận no đòn.
    Mười tám tuổi, tôi lại si  là vở của một anh dân tộc Thái là thượng sĩ của Pháp.  Anh ta tức tôi, báo với quan đồn Pháp tôi là  Việt Minh.  Cha tôi lo lắng, bắt tôi nghỉ học, đem sang gửi ở nhà ông giáo Bảo (sau này  là bố vợ tôi ), nhờ thầy  lo giấy tờ cho tôi về Hànội lánh nạn.


                                                        MỐI TÌNH DANG DỞ

Về Hànội khắt khe của bà cô, nhưng, tính tôi ngang tàng, ưa phóng khoáng, nào có chịu ngồi một chỗ.  Bà cô mắng nhiều, vì tự ái, tôi bỏ đi lang thang, rồi, bắt đầu viết báo.

   Năm 1954, tôi vào  Saigon, bắt đầu cuộc đời viết văn, làm báo, và gặp Cao Mỵ Nhân, người phụ nữ để lại dấu ấn sâu sắc trong cuộc đời tôi.  Từ chuyện làm thơ, viết báo,  chúng tôi  nhanh chóng sánh đôi ngay từ mới quen .  Trái tim lãng  đãng và nghệ sĩ trong đời tôi như đã tìm thấy ' nửa' kia  cho mình.


    Mỵ là con thứ trong gia đình khá giả.  mấy chị em gái đều tên  là Nhân : Thi Nhân, Mỹ Nhân, Mỵ Nhân, Văn Nhân .   Cô sống rất có tâm hồn.  Khi tôi dự định hỏi xin cưới Mỵ, cha cô phản đối mối tình với anh chàng nhà văn nghèo, túi không tiền,   không nhà cửa như tôi.   Tôi vừa giận ông, vừa buồn cho mối tình éo le của mình.

    Một buổi tối, tôi đến nhà Mỵ dõng dạc:' . Thưa bác, tôi xin trả bác cô  con gái  con gái còn nguyên si ạ ! ' Sau  đó , chúng tôi  chia tay để cô ấy lấy chồng theo ý cha mình.  Tập thơ đầu tay Nếu anh có em là vợ ( năm 1959) ra đời, khi lòng tôi còn tan nát về mối tình ấy.  Sau đó, còn nhiều tập thơ tôi viết về Mỵ và mối tình dang dở của mình.

                                                        GẶP LẠI CỐ NHÂN

    Tháng 11 năm 1965, tôi gặp Khê ở Đà- lạt.  Tôi mê ngay vẻ đẹp dịu dàng của con gái Tây bắc.  Một tháng sau, tôi lên thăm nàng, rủ nàng ra đồi Cù chụp hình và chụp luôn 3 cuộn phim được hơn 200 kiểu.

    Về Saigon, tôi gửi thư và thiệp cưới có in hình tôi với Khê cho bố vợ tương lai, ghi rõ :' Cháu đã gửi thiệp cho bạn bè rồi, chỉ chờ ý kiến bác và Khê '.  Cha Khê giật mình, định viết thư bảo tôi  thư thả, nhưng cũng không thể khác được.   Hôm sau các báo đăng tin tôi sắp làm đám cưới với Khê. Bạn bè vẫn bảo tôi bắt cóc vợ là vì thế . Vì từ khi gặp đến ngày cưới chỉ hơn 2 tháng, vỏn vẹn 2  lần gặp.

    Mỵ lấy chồng trước tôi, đã có 4 con,  nhưng không hạnh phúc.  Thỉnh thoảng, chúng tôi vẫn gặp nhau.  Cô ấy vẫn  làm thơ tặng tôi, vì thế mà chồng Mỵ buồn, rồi đi tìm vui nơi khung cửa khác.   Năm 1968, chúng tôi gặp lại ở Đà nẵng, Mỵ tặng tôi một cuốn thơ viết cho tôi.   Tôi đã, sau mấy năm sống với chồng có 4 con, trai gái đủ cả; nhưng, cũng nổi hứng làm thơ tặng lại nàng.

    Sau chuyến công tác ấy, tôi im lặng, không hề nửa lời với vợ về chuyện Mỵ, sợ nàng nổi nóng với chuyện tình cũ không rủ cũng tới của tôi.   Còn Mỵ sau mấy năm sống với chồng không hạnh phúc, họ chia tay.  Có lẽ cũng một phần tại tôi.  Mỵ có chồng, nhưng vẫn viết thơ tình cho tôi giống nàng T.T.KH.

   Tôi ngạc nhiên, khi thấy vợ chẳng  giận hờn, ghen tức, còn đùa tôi :' Em sẽ tiếp sức cho anh đi '. Lúc ấy, tôi  chưa hiểu ý vợ, nên, vẫn thường xuyên gặp Mỵ.  năm 1979, Mỵ bàn với tôi sang Mỹ sống cho mối tình đi đường vòng của 2 đứa.  Tôi mụ mị cả người, giữa một bên là cuộc sống khó khăn, vợ tôi 5 đứa con nhỏ, một bên là tình yêu với nàng thơ , với nửa tâm hồn.  Tôi băn khoăn đâu là lẽ sống !

                                                                            NGƯỜI VỢ TUYỆT VỜI

    Một sáng tinh mơ , tôi thức dậy, lặng lẽ xếp đồ, đi theo  tiếng gọi của trái tim.  Vợ tôi tưởng chồng dậy đi làm, nhét vội vào ví tôi 500 đồng đổ xăng.  Nhưng ông Trời công bằng thật, ít nhất là với vợ tôi.   Cuộc ra đi không thành, tôi thất thểu như mất sổ gạo, trở về nhà, lặng thinh.

    Thấy chồng về muộn, vợ tôi sốt sắng : ' Anh đi đâu mà chẳng nói, giờ mới về, em lo quá !' . Tôi sinh ra  cáu giận vô cớ, còn hạ cẳng tay với nàng.  Vợ tôi  chắc cũng lờ mờ nhận ra nỗi lòng của chồng, nhưng, vẫn dịu dàng.

    Một đêm, cô ấy thủ thỉ : ' Nếu anh không muốn ở với em, thì cứ đi, để 5  đứa con cho em, em không trách anh đâu !'. Tự nhiên, tôi mủi lòng, thấy mình không phải với nàng.  Thương vợ con  quá !  Sự nhẹ nhàng của người phụ nữ có sức mạnh ghê gớm thật !  Nó thức tỉnh con ngựa bất kham trong tôi.  Tôi ôm lấy vợ và kể hết mọi chuyện đi không thành cho cô ấy nghe như một đứa trẻ .  Vợ tôi bảo : ' Đưa  xem thơ cô ấy tặng anh có hay không ?'  Tôi ngoan ngoãn đưa xem, xem xong, vợ tôi vẫn dịu dàng, không ghen, không giận.

    Đầu những năm 90, Mỵ sang Mỹ sống.  Chúng tôi không còn nhiều dịp gặp như xưa, nhưng, vẫn có thơ dành tặng nhau về mối tình dang dở ấy .   Vợ tôi vẫn vui vẻ, làm như chẳng yêu chồng nên không ghen  ( thế mới chết !).  Đến giờ, mối tình với Mỵ vẫn luôn là kỷ niệm đẹp và đáng nhớ nhất trong cuộc đời tôi.   Mỵ không còn ở Việtnam, nhưng, vài năm cô ấy vẫn về thăm chúng tôi, như một người bạn, hay, một người yêu , tùy theo cô ấy.

   Sau này, tôi còn có vài kỷ niệm riêng, khi vắng vợ, nhưng, tôi không bao giờ giấu vợ được điều
 gì.  Tôi viết cuốn  Hồi ký ngoài văn chương, để ' Tặng riêng Khê, người vợ tuyệt vời của tôi ' .Cô ấy bảo : '  Đối xử với vợ như vậy mà chỉ một câu  tặng người vợ tuyệt với là xong đấy hẳn ?!' 

    Tóc tôi đã điểm bạc, cháu nội ngoại đều có cả, nghĩ lại  cuộc đời mình có nhiều kỷ niệm để nhớ- trong đó - có mối tình Nếu anh có em là  vợ  dành cho Mỵ và, có cả sự dịu dàng của người vợ luôn là sợi dây vô hình kéo tôi lại với cuộc sống bình yên của gia đình.
   []

 T.H. 

    ( Bđd : tr  94- 95)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét