Asian Morning Western Music , poems by The Phong This Edition , Jan.2012 - HCM City .
R A I S E Y O U R H E A D S
a poem by THEPHONG
translated from the vietnamese by ĐÁM XUÂN CẬN
1.
When they have much money ,
sure you can ask then to buy this or that
Sure
they are the cream of society
Sure
their services can never be free
Sure
their hands are clean thanks to good ,
expensive soap
Sure
their teeth are clean and shinning
( for the same reason )
Sure
their voices are resounding
because full of pride
They come to you
do nothing for you
anyway
they expect too much from you
" I tell you
nobody needs to worry about them ".
2.
Whatever you do which involves no real labor ,
no genuine care ,
no love on your partner
I couldn' t care less about it
because it has no value
They should have suffered ,
but now it is too late for that
They should have earned their life honestly ,
but they should have the will
They should have known humility
so that they are not full of arrogance
Really they have never known real love
so they should not talk of love
" I tell you , they are downright contemtiple ".
3.
Today
I walk Saigon streets in sunny weather
The air is invigorating
I am enjoying myself
I feel myself a new man
Cheer up ,
Dear fellow .
[]
Saigon, July 17 , 1963 .
THEPHONG
( from ASIAN MORNING WESTERN MUSIC ,
poems by THE PHONG.
First published by DAI NAM VAN HIEN BOOKS ,
Saigon 1971.
- This Edition ,Jan . 2012 - Ho Chi Minh City .
p. 58- 60 ) .
Thứ Hai, 27 tháng 2, 2012
Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2012
HÀN MẶC TỬ NHÀ THƠ SIÊU THOÁT / THẾ PHONG
H à n M ặ c T ử : n h à t h ơ s i ê u t h o á t
tác giả : THẾ PHONG
bài viết : ĐƯỜNG BÁ BỔN .
Lời dẫn :
Khoảng năm 1960 ' Hàn Mặc Tử + Quách Thoại : nhà thơ siêu thoát / Thế Phong / Đại Nam văn hiến xuất bản cục / Saigon 1960 in rô-nê-ô . Năm 1965 , tái bản sách ( in ty-pô) -
sau 30 / 4 / 1975 sách tái bản , chỉ còn một " Hàn Mặc Tử : nhà thơ siêu thoát " ( Nxb Đồng Nai 1999 - 2002 -2004) .
Trước khi in , một số bài viết về Hàn Mặc Tử đã đăng tải ( ký Đường Bá Bổn ) trên tạp chí
' Văn hóa Á châu' ( chủ nhiệm: Nguyễn Đăng Thục ) - ông Quách Tấn viết bài lai cảo phản hồi
' Đôi điểm sai lầm về Hàn Mặc Tử ' ( bài này đã đăng tải trên ' Văn hóa Á châu - và khi sách ' Hàn Mặc Tử + Quách Thoại: nhà thơ siêu thoát ' tái bản năm 1965 , tôi đưa vào phụ lục .)
Năm 1999 , Nxb Đồng Nai tái bản lần đầu, tiếp 2002, rồi 2004 - ( tuy nhiên trong khoảng cách năm tái bản, tôi cho nối bản đôi ba lần , mỗi lần 1000 bản, không thông báo nhà xuất bản ). Bởi sách bán chạy , tuy không địch nổi T.T.KH., Nàng Là Ai ? / Thế Nhật ( Thế Phong) ; nhưng sách đã nuôi sống tôi một số năm - tam gọi là đủ . Đề tài Hàn Mặc Tử ăn sâu vào tâm can đọc giả từ trước 1975 ở miền Nam , khá nhiều nhạc sĩ đã sáng tác , lấy hứng từ thơ Tử , viết tuồng, soạn phim, rút từ đời sống mật đắng Hàn Mặc Tử vv... và còn sách nói về tác giả này cũng không phải là ít .
".... Chỉ tính tới 1998, sách viết về Hàn Mặc Tử có trên 10 cuốn; ấy không kể những bài báo , chương sách , viết riêng lẻ trong các cuốn sách : như trong ' Nhà văn hiện đại' / Vũ Ngọc Phan , có chương nói về Hàn Mặc Tử - ' Thi nhân Việtnam ' / Hoài Thanh + Hoài Chân - ' Kỷ niệm văn, thi sĩ tiền chiến' / Nguyễn Vỹ v.v... Số bài báo ấy lên tới số , trên, dưới 50; của nhiều tác giả nổi tiếng ; hoặc, bạn bè văn chương của Tử . Báo ' Người Mới ' , do Hoàng Trọng Miên phụ trách , rất nhiều bài báo nói về Tử, qua bài viết của Bích Khê , Chế Lan Viên , Hoàng Trọng Miên ( ký Trọng Miên ) , Xuân Diệu , ( Bài thơ của Người ' đăng trên ' Ngày Nay ' / 1938 ' . Từ 1954 đên 1975 : bài viết về Tử của Bùi Tuân , Bùi Xuân Bào , Châu Hải Kỳ , Đào Trường Phúc , Đặng Tiến
( Pháp ) , Võ Long Tê , Huỳnh Phan Anh , Lê Huy Oanh , Lê Tuyên , Ngọc Sương , Nguyễn Kim Chương , Nguyễn Xuân Hoàng , Phạm Xuân Sanh , Phạm Công Thiện , Phạm Đán Bình ( Paris ), Quách Tấn ( ký Trường Xuyên ), Thanh Lãng ( trong sách ' Bảng lược đồ văn học Việtnam ' ), Thi Vũ ( Paris ) , Trương Văn Ngọc vv... - hầu hết đăng trên tạp chí' Văn ' do Trần Phong Giao, Mai Thảo , Nguyên Xuân Hoàng luân phiên làm thư ký tòa soạn . ( chủ báo: Nguyễn Đình Vượng ) .
Năm 1976 , Việtnam thống nhất , bắt đầu xuất hiện nhiều bài báo đăng lẻ tẻ ; hoặc những chương bàn về Tử trong một cuốn sách ; phải kể đến Đỗ Lai Thúy , Lại Nguyên Ân , Ngô Văn Phú , Nguyễn Minh Vỹ ,. Nguyễn Quân , Nguyễn Văn Xê , Phan Xuân Tuyển ( Phạm Xuân Tuyển sau này ) , Phúng Quý Nhâm, Vũ Quần Phương , Yến Lan vv...
Về sách , chỉ nói riêng tới Hàn Mặc Tử - đầu tiên là cuốn khảo luận của Trần Thanh Mại : Hàn Mặc Tử - Thân thế và Thi văn ( 1942 ) ; Thái Văn Kiểm : Un grand poète vietnamien : Hàn Mặc Tử ( Saigon 1950) ; Thế Phong : Hàn Mặc Tử + Quách Thoại : nhà thơ siêu thoát '
( S 1960 ) ; Hoàng Diệp : Hàn Mặc Tử ( S. 1960 ) ; Chế Lan Viên : Hàn Mặc Tử, Anh là Ai ? '
( Nxb Nghĩa Bình , Nxb văn học đều xuất bản cùng năm 1989 ) ; Thiện-Nhân -Nguyễn Bá Tín :
Hàn Mặc Tử, Anh Tôi ' ( Nxb Tin, Paris, sau Nxb Văn nghệ tp. HCM tái bản 1991 - ấn bản này bị biên tập bỏ khá nhiều , so với ấn bản trước đó in ở Paris ) ; Quách Tấn : Đôi nét về Hàn Mặc Tử
( Nxb Nghĩa Bình, 1988 ) ; Phan Cự Đệ : Thơ văn Hàn Mặc Tử ( Nxb Giáo dục 1993 ) ; Trần Huyền Trang : Hương thơm và Mật đắng ( Nxb Hội nhà văn, 1991 ) ; Nguyễn Thụy Kha : Hàn Mặc Tử , Thi sĩ đồng trinh ( Nxb Đà Nẵng, 1996 ) ; Lữ Huy Nguyện : Hàn Mặc Tử, Thơ & Đời ( Nxb Văn học 199 ? ) ; Kiều Văn : Thơ văn Hàn Mặc Tử ( Nxb Đồng Nai, 1995 ) ; Vương Trí Nhàn : Hàn Mặc Tử, Hôm qua và Hôm nay ( Nxb Hội nhà văn, 1996 - V. T. Nhàn sưu soạn , thâu tóm nhiều cuốn nói về Tử - trích của Trần Thanh Mại , Quách Tấn , Hoàng Diệp , Nguyễn Bá Tín - mà ông ta gọi là
" cuốn sách tập hợp được gần như tất cả những gì mà người yêu thơ Hàn Mặc tử cần biết ; nhưng lại chưa được giới thiệu đầy đủ trong các tập sách nghiên cứu khác ..." .
( Sưu soạn , theo cách nói khác là sưu tập, song rất dễ thực hiện, ích lợi cho văn học không nhỏ - bởi lẽ chỉ cần mua một cuốn' Hàn Mặc Tử, Hôm qua và Hôm nay' của V.T.Nhàn sưu tầm; ít nhất coi như đã mua được 4 cuốn trích gộp lại + thêm nhiểu bài báo lẻ khác nói về Hàn Mặc Tử . Tóm lại : đó là một lối sưu tầm ' ăn cắp một cách gian giảo, sảo quyệt , lưu manh , ăn chặn bản quyền -vô sỉ , dám ký tên Vương Trí. Nhàn sưu tầm . !!! ).
Một cuốn khác ' Đi Tìm Chân Dung Hàn Mặc Tử ' của Phạm Xuân Tuyển ( Nxb Văn học, 1996) . Hình ảnh sưu tập thật công phu , phải nói là đầy đủ nhất , kể cả phổ trạng , hồ sơ học bạ , văn bằng của Nguyễn Trọng Trí . Nhưng tới phần đánh giá tư tưởng Hàn Mặc Tử lại mờ nhạt , như không thấy đâu là ý riêng đáng giá của soạn giả . Có lẽ sự hiểu biết ôm đồm - kho tài liệu bổ béo về Nguyễn Trọng Trí- Hàn Mặc Tử sưu tập được , khi viết , soạn già chưa kịp tiêu hóa để khai thác thành cuốn sách hữu ích hơn đối với đọc giả chọn lọc.
Thêm một chuyện nhỏ đáng nói , lại không thể không nhắc tới ở đây ; chú thích dưới một số ảnh, phô trương lộ liễu ,đề cao lố bịch - lấy thí dụ :
a) - " Ông Nguyễn Văn Xê và TÁC GIẢ ( sic ) trước cổng bệnh viện Bến Sắn , xã Khánh Bình , huyện Tân Uyên , tỉnh Sông Bé " ( trang 401 ).
b) -" TÁC GIẢ ( sic ) nơi cửa biển Nhật Lệ .." / TÁC GIẢ ( sic ) với di tích nhà thờ Tam Tòa "
c) - TÁC GIẢ ( sic ) nơi ngã ba trước mặt di tích nhà thờ Tam Tòa có hai biển tên đường của hai nhà thơ lớn Việtnam : Nguyễn Du và Hàn Mặc tử .." ( 3 ảnh Như Châu chụp ngày 10 - 2 - 95 - trang 403 )
d ) - nơi trang 405, 5 chú thích dưới 5 tấm ảnh đều ghi hàng chữ :" TÁC GIẢ VÀ ..." ( chữ hoa / sic ).
Ý nghĩ đầu tiên đến với tôi , có lẽ là phép lạ : "... BỞI HÀN MẶC TỬ SÔNG LẠI BẰNG XƯỚNG THỊT TRƯỚC NHÀ THỜ TAM TÒA , TRƯỚC CỬA BIỂN NHẬT LỆ , TÁC GIẢ HÀN MẶC TỬ NHÌN THẤY TÊN MÌNH TRÊN BIỂN TÊN ĐƯỜNG CÙNG VỚI THI HÀO NGUYỄN DU RA SAO ?
Tôi giụi mắt nhiều lần , nhìn ảnh Hàn Mặc Tử , sao tác giả đã sống lại chăng ? - mặt mũi phương phi , béo tốt , trẻ , đẹp vậy sao ? Thật vậy sao ? - Không phải vậy . Hóa ra không phải tác giả Hàn Mặc Tử thật !
Bởi tôi đã bị BÉ CÁI LẦM - TÁC GIẢ này không phải HÀN MẶC TỬ sống lại, mà chỉ là Phạm Xuân Tuyển thích nhận MÌNH LÀ TÁC GIẢ - nên đọc giả chẳng thể phân biệt được đâu ai là SOẠN GIẢ ( thiệt ) và TÁC GIẢ ( giả ) !!!
-------
* trang 79 - 80 HÀN MẶC TỬ NHÀ THƠ SIÊU THOÁT / THẾ PHONG .
P H Ụ L Ụ C 1
1.- Đôi điểm sai lầm về Hàn Mặc Tử
QUÁCH TẤN viết.
Thân sinh Hàn Mặc Tử tên là Nguyễn Văn Toản ( chớ không phải Nguyễn Ngọc Toàn ) . Tổ tiên của Tử vốn họ Phạm và quê ở Thanh Hóa .
Nguyên ông cố ( của Tử ) liên quan vì quốc sự , gia đình bị truy nã , người con trai là cụ Phạm Bồi phải trốn vào Thừa Thiên , cải ra họ Nguyễn theo mẫu tánh . Vào Thừa Thiên , cụ Phạm Bồi đến nương náu tại xứ Ồ- Ồ , làng Thanh Tân ( chớ không phải Thanh Thủy ) , huyên Phong Điền . Cụ Phạm Bồi tuy hán học thông , võ nghệ giỏi , nhưng suốt đời cam phận áo vải chớ không xuất sĩ .
Ông Nguyễn Văn Toản là con ( sic ) trưởng nam của cụ .
Vì vậy Đường quân ( bài viết ký Đường Bá Bổn - Đ.B.B. ghi ) bảo thân sinh Tử lả con một xuất đội dưới triều Đồng Khánh là không đúng .
Ông Nguyễn Văn Toản sanh hạ ( sic ) được 6 người con , 4 trai 2 gái , mà Hàn Mặc tử là con thứ tư ( chớ không phải con út ) . Người anh cả là Nguyễn Bá Nhân hiệu Mộng Châu , đã qua đời . Hai người chị là Nguyễn- Thị -Như - Nghĩa , Nguyễn-Thị-Như- Lễ , và 2 người em trai là Nguyễn Bá Tín , Nguyễn Bá Hiếu , hiện còn tại thế .
Hàn Mặc Tử đã học ( làm ) thơ cùng anh Mộng Châu , và Tử nổi tiếng vào khoảng 1930 - 31 , nhờ lời giơi thiệu của Phan Sào Nam tiên sinh .
Mới bước vào làng thơ , Tử lấy hiệu là Minh-Duệ-Thị , rồi đổi làm Phong Trần , lại đổi ra Lệ Thanh , lại đổi nữa là Hản Mạc Tử , sau cùng mới lấy hiệu Hàn Mặc Tử .
Lúc nhỏ Tử theo học nhiều trường , mà lâu nhất là Trường Quảng Ngãi . Sau khi thân sinh Tử qua đời , bàn thân ( của) Tử về ở Quy Nhơn cùng anh Mộng Châu và cho Tử ra học ở Trường Dòng Pellerin ở Huế . Năm 1930 , Tử thôi học và về Quy Nhơn cùng mẹ và anh . Sau đó xin vào làm việc ở Sở Đạc Điền Quy Nhơn .
Khi làm ở sở Đạc Điền, Tử có yêu một thiếu nữ tên Cúc , con một ông bạn đồng sự và cùng ở một con đường . Nhưng biết rằng không thể đi đến hôn nhân , Tử bèn tìm cách dứt tình . Tử xin thôi làm ở Sở Đạc điền và cùng Thúc Tề Vào Sài Gòn làm báo . ( Nguyên nhân vễệc làm báo của Tử là thế , chứ không vì kii1nh tế khủng hoảng như lời Đường quân ) .
Tử vào Sài Gòn khoảng đầu năm 1935 .
Tử vốn là một nhà thơ Đường luật . Nhưng từ khi vào Sài Gòn , Tử bước sang địa hạt mới .
Ở Sài Gòn được một năm thì Tử trở về Quy Nhơn , và cho xuất bản tập Gái Quê là tập thơ mới của tử ( 1936 ) .
Tháng 5 / 1936 , anh Mộng Châu qua đời .
Và cách 4, 5 tháng sau , Tử mang bệnh .
Khi biết mình mắc chứng nan y , Tử liền sang Gò Bồi , cách Quy Nhơn chừng 15 cây số , để uống
thuốc , chớ không hề có ý định vào Nhà thương Quy Hòa , như lời Đường quân . Người bạn ở Nha Trang của Tử là ông Trường Xuyên ( chớ không phải Trường Xuân ) - đưa lương y ra hốt thuốc cho Tử sau khi Tử ở Gò Bồi về Quy Nhơn vào khoảng cuối năm 1937 . Và từ khi bệnh phát hiện cho đến 1940 , Tử luôn luôn uống thuốc Bắc và thuốc Nam ; chớ không chịu uống thuốc tây , mặc dầu người anh rể , chồng chị Như-Lễ , là một viên y tá làm việc tại Nhà thương Quy Nhơn , đã hết lời khuyên bảo . Sau cùng và không thể dừng được , Tử mới vào nhà thương Quy Hòa .
Tử tuy mắc chứng nan y , song chỉ có đôi chân và đôi tay mang dấu vết tật bệnh mà thôi . Còn mặt mũi và mình mẩy vẫn không sưng lở , cũng không sượng sần , như phần đông người mắc bệnh hủi . Nơi má phía tay trái có bị nám và nước da Tử trông trắng nhợt . Người không quen biết , ngồi đối diện , chỉ ngờ Tử bị ốm mới khỏi , chớ không nhận được rằng Tử bị bệnh ngặt nghèo .
Trước mấy hôm vào Quy Hòa , tôi có gặp Tử tại Nhà thương Quy Nhơn . Lúc ấy Tử vẫn đi đứng như thường , và nét mặt rất bình tĩnh .
Đường quân nói rằng lúc vào Nhà thương Quy Hòa : " hình hài thi sĩ đã tiều tụy , quằn quại , những vết thương của bệnh hủi " là sai .
Còn sau khi vào Nhà thương Quy Hòa cho đến lúc Tử mất , hình dáng Tử ra sao , tôi không được biết . Nhưng tôi không tin rằng đến nỗi : đầu óc bù rối chiết lại từng vế, trong ấy nhung nhúc chí là chí ... Vì Nhà thương Quy Hòa tuy là một nhà thương làm phúc , song các Bà phước rất tận tâm , không khi ào để cho một bệnh nhân lâm vào cảnh tồi tàn đến thế . Đối với những bệnh nhân thường còn không đến nỗi phó thác cho tự nhiên , huống hồ đối với Tử là người quý Bà khen là ngoan đạo và quý Bà biết là một nhà thơ . Thêm nữa là gia đình Tử thứ hai, ba ngày, là cho người mang đồ ăn vào cho Tử , và người chị của tử là chị Như-Lễ thường vào thăm luôn , lẽ đâu lại để Tử lâm vào cảnh tồi tàn đến thế !
Sau khi Tử mất , anh Xê ( Nguyễn Văn Xê - Đ.B.B. ghi ) có gửi thư cho tôi - theo lời Tử dặn - trong thư có tả những ngày cuối cùng của Tử và kể lại trong lời trối trăn của Tử , song không nói đến những cảnh tả trong bức thư của Đường quân đã trích dẫn .
Để cho chắc chắn , tôi sẽ hỏi lại chị Như-Lễ về điểm này .
Trong số những người đàn bà đi qua cuộc đời thơ của Hàn Mặc Tử , thì cô Lệ Thị Mai tức Mai Đình là người Hàn Mặc Tử ít nói đến nhất . lại được các sách , các báo , nói đến rất nhiều . Cuộc tình duyên giữa Tử và Mai Đình đã được thêu rồng vẽ rắn quá đẹp . Trái lại có một người đã gây một ảnh hưởng lớn trong thơ Tử , mà lâu nay các nhà viết về Tử không hề nhắc tới ; đó là cô Cúc ( Hòang thị Cúc - Đ.B.B. ghi ) .
Cô Cúc là người yêu đầu tiên của Tử ( chớ không phải là Mộng Cầm như Đường quân đã tưởng lầm ) - mối tình giữa Tử và cô Cúc tuy mới chớm nở , nhưng là mối tình đầu , nên nghìn thu chưa dễ đã ai quên . Mối tình ấy bàng bạc trong tập Gái Quê và phảng phất trong nhiều bài thơ kết tiếp .
Tập Gái Quê trong bản thảo Tử đề tặng Cúc , nhưng nghĩ không tiện , nên khi in , Tử đã xóa mấy hàng đề tặng
Còn Mộng Cầm thì Tử gặp sau khi vào Sài Gòn làm báo .
Và Mộng Cầm cũng như cô Cúc hiện còn sức khỏe và hiện tại ở miền Nam ... Nhưng vì tôn trọng ý muôn của đương sự tôi không thể nói gì thêm .
Tử là một nhà thơ hay yêu . Gặp những người hay dễ yêu là Tử cứ việc yêu . Họ có yêu lại càng tốt , không đoái tưởng cũng không hề gì . Tử nghĩ rằng yêu như thế không hại chi đến sự chú mà có lợi cho văn chương . Ví dụ Thương Thương chẳng hạn . Và ngoài Thương Thương , còn hai người nữa bị Tử yêu mà không biết , là chị Ngọc Sương, một nữ sỹ quánThu Xà , một ni cô thôn Hưng Trị ( Bình Định ) . Đó là những mối tình thoáng qua , nhưng vẫn để dấu trong thi nghiệp của tủ :
Tay đề chữ ngọc trên tàu lá
Sương ở cung Thiềm nhớ chẳng thôi ..
Cho tôi qua đền Ngự
Cho tôi lòng ni cô ...
Vì có đôi bạn muốn viết lại thân thế và sự nghiệp văn chương Hàn Mặc Tử , nên nhân tiện , tôi mách lẻo qua loa . nếu quý bạn muốn biết thêm , xin hỏi nơi khổ chủ .
Còn về văn chương của Hàn Mặc Tử , thì tôi chỉ xin sắp lại những bài thơ Đường quân đã trích dẫn theo thời kỳ sản xuất của chúng mà thôi . Vốn văn chương vô bằng cứ , nên tôi không bàn đến nội dung .
Những thơ Tử làm lúc mới nhập môn làng thơ hiện không còn bài nào . Những bài trong tập thơ Lê Thanh Thi Tập đều là những bài làm từ 1929 - 1930 đổ vể sau . Bài Tử họa vận bài Nhắn nhạn của anh Mộng Châu , cũng như bài Thức khuya đều những sản phẩm ra đời vào những năm 1929 - 30 - 31 . Còn bài Buồn thu và Nhớ Trường Xuyên , cùng Vịnh cây đàn nguyệt , đền bài Thức khuya, Chùa hoang, Gái ở Chùa chớ không phải bài Đàn nguyệt . ( như lời Đường quân nói )..
Từ khi bước vào làng thơ mới , Tử đã lần lượt sáng tác : Gái Quê ( 1935 - 1936 ) - Đau thương ( sau đổi Thơ điên ) - Xuân Như Ý - ThượngThanh Khí - Cẩm Châu Duyên - Duyên Kỳ Nôộ - Quần tiên hội ( 1937 - 1940 ) .
Bài Bẽn lẽn , trong có câu :
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi .
Trong tập Gái Quê , nghĩa là ra đời lúc Tử chưa mang bệnh . Còn bài Đà Lạt trăng mờ lại ở trong tập Thơ điên , nghĩa là làm trong lúc Tử đã mắc bệnh , chớ không phải lần hành hương đầu tiên đến Đà Lạt như lời Đường quân nói .
Tử lên Đà Lạt đầu tiên vào 1933 . Lúc ấy Tử chưa tập làm thơ mới . Bài Đà Lạt trăng mờ là hình ảnh những đêm trăng Đà Lạt đã in sâu trong tâm khảm Tử từ 1933 . Những đêm ấy Tử cùng tôi đã ngồi trên bờ hồ Đà Lạt , dưới lớp sương khuya đầy ánh trăng , và rồi cả hai bị cảm một trận nên thân ! Khi làm bài Đà Lạt trăng mờ .. gởi vào cho tôi , Tử có nhắc đến trận đau thú vị ấy . Do đó mà tôi nhớ rõ được thời kỳ Tử sáng tác .
Trong lúc Tử bắt đầu biết mình mắc chứng nan y, cho đến cưới 1937 , lòng Tử hết sức đau khổ , đau khổ đến phát điên ! Những cơn lọan thường nổi dậy khi nhiều khi ít . Nhưng cũng có đôi khi tâm hồn Tử bình tĩnh một cách lạ thường : ( vẫn sáng tác ) những bài thơ Đà Lạt trăng mờ, Tối Tân Hôn ... là bằng chứng cụ thể .
Biết rõ được thời kỳ sản xuất của thơTử , tôi tưởng cũng cần cho các bạn muốn đi sâu vào tâm hồn của thi nhân . Cho nên ta không nệ dài dòng .
Còn bài Thánh nữ Đồng trinh Maria , Tử làm vào khoảng cuối năm 1937 , chớ không phải lúc Tử đã vào Nhà thương Quy Hòa . ( như lời Đường quân ).
Nguyên , sau khi nghe tin Tử mắc bệnh , ông Trường Xuyên ở Nha Trang tìm thấy , đưa ra Quy Nhơn chữa cho Tử . Ông thầy ấy tên là Đoàn Phong . Ông Đoàn Phong hốt cho Tử mới mươi thang thì bệnh Tử thuyên giảm một cách bất ngờ . Các ngón tay Tử co lại rồi mà bỗng ngay ra được và cầm bút viêt được như thường . Tử mừng quá ôm ông Đoàn Phong mà khóc òa .
\ Trước khi ông Đoàn Phong đến hốt thuốc , Tử nằm mộng thấy Đức Mẹ Maria lấy nước thánh rảy khắp chân thân , Tử cảm thấy mát đến ớn lạnh . Cho nên khi cầm viết viết được , nhớ lại giấc chiêm bao ; Tử liền soạn bài Thánh nữ Maria để tỏ lòng biết ơn Đức Mẹ .
Bảo rằng : Tử thấy mình phải ghi lại hình tượng cáo quý của các Mẹ , các Chị, nên có bài Thánh nữ Đồng Trinh Maria ; không biết Đường quân lấy tài liệu ở sách , báo nào , chớ không lẽ lại phỏng đoán ?
***
Những khuyết điểm Đường quân đã mắc phải là do Đường quân là do Đường quân quá dễ dãi , đã bằng lòng với những tài liệu sẵn có , chớ khong chịu khó nghiên cứu lại , không chịu khò đi đến nơi Hàn Mặc Tử đã sống , tìm hỏi những người quen thân của Tử , trước khi viết .
Đã biết rằng những điểm tôi đính chính trên đây kể ra cũng không có gì là quan trọng . Nhưng nghĩ rằng : " Những cái nhỏ nhen ( sic - đúng hơn phải là nhỏ nhoi - Đ.B.B. ghi ) nhiều khi rất cần thiết ' và ' một lỗ mội có khi làm vỡ cả bờ đê ... nên tôi không ngại mang tiếng hiếu sự mà lạo thảo mấy hàng này . Nếu có điều sơ xuất ngửa mong quý vị độc giả thể tất cho ..
[]
QUÁCH TẤN
( 1959 ) .
2.- B ạ t
bài của : THẾ PHONG
Bây giờ nhắc lại cuốn sách do tôi viết về Hàn Mặc Tử (1) trước khi xuất bản , cho đăng trên tạp chí Văn hóa Á châu (2) vào những năm 1958 - 59 ở Sài Gòn . Báo đăng , ông Quách Tấn gửi đến tòa soạn, bài " Đôi điểm sai lầm về Hàn Mặc Tử " ( 3) . Ông viết :
"... Trong Văn Hóa Á Châu số 20 - 21 , ông Đường Bá Bổn có viết về cuộc đời và thi nghiệp Hàn Mặc Tử . Tôi nhận thấy trong bài của Đường quân có đôi điểm sai lầm , nên xin đính chính lại hầu mong cho bạn đọc biết rõ thêm về nhà thơ đa khuất ..".
\ Vậy ông đính chính những điểm nào àm cho là sai lầm ? Trước hết , về tên thật thân sinh Hàn Mặc Tử là Nguyễn văn Toản , chứ không phải Nguyễn Ngọc Toàn . Đổi họ vì lý do quốc sự , nhưng không nói rõ tại sao ?
Ông Toản , con trai cụ Phạm Bồi , tuy hán học tinh thông , võ nghệ giỏi ; nhưng suôt đời cam phận áo vải , chớ không phải là con một xuất đội dưới triều Đồng Khánh . Sau này, tôi đọc cướn hồi ký của Nguyễn Bá Tín nói về Tử ; tôi thấy rõ hơn ( 4 ) - gia phả viết bằng chữ Hán - dưới thời Trịnh Kiểm thóan vị cha vợ Nguyễn Kim , gia đình thế tử Nguyễn Uông nổi lên chống anh rể , nên bị hại . Thất bại trong việc nổi dậy chống Trịnh Kiểm , một số bị giết , một số cải họ Nguyễn thành họ Phạm - rồi bị lưu đày vào Đàng Trong lập nghiệp ở Thanh Hóa .
Ngoại tổ Tử là Nguyễn Long , quê ở Quảng Nam ra Huế lập nghiệp tại làng Vạn Kim , làm đến chức Ngự y dưới triều vua Tự Đức . Tất cả tài liệu về cuộc đời Tử , tôi nêu rõ theo xuất xứ tài liêu của ông Trần Thanh Mại ; song ông Quách Tấn lại bác bỏ cho là không đúng - nhưng ông không giải thích cặn kẽ lập luận của ông ' thế nào là đúng ?' . Ông Quách Tấn còn nói thêm về mối tình đầu tiên của Tử là cô Cúc ( đúng hơn , Hoàng Thị Cúc, mà kiệm lời không phải chỗ, không chịu nói đủ, họ tên ) . Những bài thơ của Tử như : Hoa Cúc , Trồng Hoa Cúc , Âm thầm , Đôi ta , Hồn Cúc , Tình Thu v.v... Tử viết tặng mối tinh đầu tiên , chính là Hoàng thị Cúc hoặc Hoàng Cúc , ông Quách Tấn ạ !!
Còn tôi nói về hình hài tiều tụy , quằn quại những vết thương của bệnh hùi - thì điểm này ông Quách Tấn nhắc lại lá thư ông Nguyễn Văn Xê gủi cho ông , theo lời Tử dặn dò trước khi chết . Thì ông Tấn viết :
"...Trong thư có tả những ngày cuối cùng của Tử và kể lại những lời trăn trối của Tử , song không thấy nói êến những cảnh tả trong bức thư của Đường quân . Để cho chắc tôi sẽ hỏi chị Như- Lễ về điểm này ...".
Bởi lẽ , tôi vêết ' đầu bù tóc rối chiết lại từng vế trong ấy nhúc nhúc lá chí .." - tôi trích theo thư ông Nguyễn văn Xê gửi cho ông Trần Thanh Mại, khi trích dẫn lại, tôi ghi xuất xứ rõ ràng .
Ông Quách Tấn lại thêm :
"' Nhà thương Quy Hòa tuy là nhà thương làm phúc , song các Bà phước rất tận tâm không khi nào để cho êệnh nhân lâm vào cảnh tối tàn như thế ? "
tiếp theo, ông Tấn lại phản bác việc tôi viết về nữ sĩ Mai Đình : "...Trong số những người đi qua cuộc đời của Hàn Mặc Tử thì cô Lê Thị Mai tức Mai Đình là người Hàn Mặc Tử ít nói đến nhất lại được các sách, báo nói đến rất nhiều ... "
điều này thật dễ hiểu , nhưng không phải ai cũng hiểu được - kể cả ông Quách Tấn là nhà thơ đi nữa ?! Bởi lẽ , Hoàng Thị Kim Cúc ( Hoàng Hoa ) , Mộng Cầm , Thương Thương ... sinh ra đời chỉ là nàng thơ , để thi sĩ viết về họ , bởi họ là cảm hứng cho nguồn thô giội đổ từ Hàn Mặc Tử , và nhớ là không có sự ngược lại .
còn Mai Đình lại khác hẳn họ . nàng thơ của Tử có vai trò khác hẵn những nàng thơ khác , ở chỗ Mai Đình làm được rất nhiều thơ nói về mối tình của Mai Đình và Hàn Mặc Tử . Nên tôi đã dành cho Mai Đình một chương là vậy !
theo ông Tấn , một người đã gây được một ảnh hưởng lớn trong thi nghiệp Hàn , đó phải là cô Cúc . Cũng vẫn theo Quách Tấn , sở dĩ cô Cúc và Hàn Mặc Tử có mối tinh ngang trái là thiếu môn đăng hộ đối . Nhưng lập luận này , theo ông Nguyễn Bá Tín ( em ruột Hàn Mặc Tử ) lại sai - chính vì không đồng tôn giáo ( Tử theo Công giáo, Cúc là người lương ) - cô Cúc , con gái ông Hoàng Phùng , giám đốc sở Địa chính ( Cadastre ) . Nhưng có điều ông Quách Tấn không nói rõ tên, họ đầy đủ, như ông Tín đã làm - mà chỉ ghi vắn tắt ".. Con gái ông H.P. làm việc ở Sở Dịa chính Quy Nhơn ( Conservation Foncière ) ( 5 ).
Riêng điểm này , tôi nhận thấy ; người tinh đầu tiên của Hàn mà Tử đã làm rất nhiều thơ cho nàng là Hoàng thị Cúc .
Quách Tấn còn nhắc đến thời điểm một số bài thơ của tử , như các bài Thức khuya, Chùa Hoang, Gái ở Chùa .. các bài thơ cho ra đời vào khoảng 1920 -1 930 mà Phan Sào Nam tán thưởng - chứ không phải bài Đàn nguyệt như tôi dẫn chứng Như Quách Tấn nhận ' văn chương vô bằng chứng '- thì chinh ông chẳng trưng dẫn được bằng chứng nào về điều này ?
Tôi chỉ nhận mình sơ sót một điều về tên người - cái tên ông Trường Xuyên kia lại lầm viết thành Trường Xuân , mà cái tên Trường Xuyên ấy không khác hơn, một bút danh khác của Quách Tấn - mà thực tình tôi không biết .
.
Quách Tấn viết tiếp :
"... Đã biêt rằng những điểm tôi đính chính trên đây chẳng có gì là quan trọng . Nhưng nghĩ rằng những cái nhỏ nhen ( sic ) nhiều khi rất cần thiết và một lỗ mội ( sic ) có khi làm vỡ cả bờ đê nên tôi không ngại ngùng mang tiêng hiếu sự lạo thảo mấy hàng này ..."
Nhớ lại - khi Hàn Mặc Tử + Quách Thoại, nhà thơ siêu thoát xuất bản vào 1960 , tái bản 1965 - tôi vẫn in bài' Đôi điểm sai lầm về Hàn Mặc Tử ' của Quách Tấn vào sách, ở phần Phụ Lục . Nhưng chữ nhưng nay hơi xấc , bởi lẽ : không sửa sai môt đôi chi tiết mà ông nêu ra thực đúng - thì tôi lại làm lơ .
Bài đính chính đã đăng trên tạp chí Văn hóa Á Châu không thiếu một dấu chấm, phẩy . Đó cũng là sự hiếu thắng, cao ngạo của tuổi trẻ - ngơời viết sách nói về Tử - là tôi đây chưa qua tuổi 30 .
Còn đối với Tử , sự nghiệp thi ca rạng rỡ hôm nay có được - công lao rất lớn của thi sĩ Quách Tấn đóng góp . Ông Tấn không những chỉ là bạn thơ ; còn là bạn chí thiêt , người được Tử tin cậy, trao quyền ' thủ bản quyền '. - mà sao không phải là ai khác, người thân trong gia tộc , chẳng hạn ?
Cũng vì vậy , khi ông Quách Tấn tâấy ông Trần Thanh Mại trích dẫn thơ nguyên thơ của Hàn Mặc Tử quá nhiều - so với phần nhận định - ( hình như không nên quá 1/3 cho một cuốn nhận định thì phải ? ) - nên Quách Tấn đệ đơn kiện Trần Thanh Mại ra trước Tòa án tại Huế . Không hIểu lý do gì , Quách Tấn lại biết rằng , Tòa xử thì ông thua , nên không tham dự . Còn đối Với chính Quách Tấn , ông khước từ, với lý do : " ở xa.., mắc công vụ, tôi không có mặt trong phiên tòa được ". Tòa án Huế tuyên bố : " Miễn xử " !
Bản in lần này về những chỗ sai ; nay hiệu đính - nhưng quá muộn , vì đã trên 30 năm rồi còn gì ? Bây giờ thi sĩ Quách Tấn không thể còn đọc được những dòng chữ này ( 7). Riêng tôi , đây là một cách xin lỗi tế nhị - cảm ơn muộn chân thành , lại tình nghĩa về đôi điểm sai lầm trước kia mà ông đã chỉ ra . Tuy khiêm tốn nói rằng chẳng có gì quan trọng , nhưng thực ra sự thiếu sót kia đích thực quan trọng . Sách hai lần in ra , không thừa nhận, không sửa sai sót ; từ lần thứ 3, thứ 4, thứ 5 .. đã sửa - bởi lẽ biết rằng đích thực cần thiết .
[]
THẾ PHONG
Sài Gòn, 1998 .
( trích HÀN MẶC TỬ NHÀ THƠ SIÊU THOÁT / THẾ PHONG / Nxb Đồng Nai tái bản 2004 .
bản tu chỉnh : 25 / 2/ 2012 .)
Đ. B. B.
------
1.- Bản đầu tiên in rô-nê -ô , Đại Nam văn hiến xuất bản, Sài Gòn, 1960, sách ký Thế Phong .
2.- Tạp chí ' Văn hóa Á châu' , chủ nhiệm: Giáo sư Nguyễn Đăng Thục .
3.- Văn hóa Á Châu, số 20 + 21 , đăng báo ký Đường Bá Bổn .
4.- Hàn mặc Tử, Anh tôi / Nguyễn Bá Tín , Nxb Văn nghệ tp HCM 1991 - và cùng tên , do Nxb Tin Paris xuất bản
1990 . Tài liệu được sử dụng ở đây, lấy từ ấn bản năm 1990 của Nxb Tin, Paris .
5.- Conservation Foncière dịch sang việt ngữ, Sở Địa chính , e không sát nghĩa . Cadastre đúng hơn chăng ?
6.- Sách đã dẫn : một số tác giả khác đã viết về Hàn mặc Tử , phải kể thêm : ' Thơ Hàn Mặc Tử / Chế lan Viên
chọn - ' Đôi nét về Hàn Mặc Tử ' / Quách Tấn / phát hành ở Paris, sách dày 212 trang, giá 70 frs .
7.- Quách Tấn qua đời ở Nha Trang ngày 21 / 12 / 1992 .
Thứ Năm, 23 tháng 2, 2012
TO BE A GIRL / a poem by THE PHONG.
Asian Morning Western Music / poems by THE PHONG
This Edition , Jan . 2012 - HCM City.
T o b e a G i r l
By THE PHONG
translated by Đàm Xuân Cận
Where there are flies there' s God
Where ' s God lonely men have a friend
I ' ve walked all trails in my country
When I stopped the city of Dalat
was shrouded in mist in the dead of night
fortunately I had companion to keep off the ghosts .
Your face is haunting me ,
in day and night
Lying in bed ,
I keep thingking of you
I simply cannot help it
Your lips are so delicate ,
your eyes just don' t go away
On the threshold of adulthood
I 'm still looking for a sister soul
I ' ve climbed to the top of Lang Biang Hill
When all I wanted was to bury my head in your floatting hair
Is there any love story
which is not beautiful
is there a blemish pervasive enough
to blot out deep humiliation inside ?
I think continuously
of you and me and all .
To be a girl
to be a bar hostess
Is to be stripped of the liberty to live straight
And forced to put on airs
for the sake of money
Remembering the sweet moment
worth the money I saved in one year
You held me in your arms
Your warmth was better to me
than the heat from the fire place
I was yours ,
all yours ,
even it for a brief moment only
We were together twelve long hours .
( Tomorrow I will live a world of memories ) .
[]
THEPHONG
( from ASIAN MORNING WESTERN MUSIC / poems by THE PHONG ..
First published by Dai Nam Van Hien Books, Saigon 1971
This Edition , Jan. 2012 - Hồ Chí Minh City .)
This Edition , Jan . 2012 - HCM City.
T o b e a G i r l
By THE PHONG
translated by Đàm Xuân Cận
Where there are flies there' s God
Where ' s God lonely men have a friend
I ' ve walked all trails in my country
When I stopped the city of Dalat
was shrouded in mist in the dead of night
fortunately I had companion to keep off the ghosts .
Your face is haunting me ,
in day and night
Lying in bed ,
I keep thingking of you
I simply cannot help it
Your lips are so delicate ,
your eyes just don' t go away
On the threshold of adulthood
I 'm still looking for a sister soul
I ' ve climbed to the top of Lang Biang Hill
When all I wanted was to bury my head in your floatting hair
Is there any love story
which is not beautiful
is there a blemish pervasive enough
to blot out deep humiliation inside ?
I think continuously
of you and me and all .
To be a girl
to be a bar hostess
Is to be stripped of the liberty to live straight
And forced to put on airs
for the sake of money
Remembering the sweet moment
worth the money I saved in one year
You held me in your arms
Your warmth was better to me
than the heat from the fire place
I was yours ,
all yours ,
even it for a brief moment only
We were together twelve long hours .
( Tomorrow I will live a world of memories ) .
[]
THEPHONG
( from ASIAN MORNING WESTERN MUSIC / poems by THE PHONG ..
First published by Dai Nam Van Hien Books, Saigon 1971
This Edition , Jan. 2012 - Hồ Chí Minh City .)
Thứ Tư, 22 tháng 2, 2012
WE PROMISE ONE ANOTHER / POEMS FROM PRISON : PHAN CHU TRINH / Don Luce introduced ...
We promise one another .
/ Don Luce ... introduced ...
P o e m s f r o m P r i s o n
In temporary set bach , those who mend the sky
Do not let minor things get them down
( PHAN CHU TRINH )
Most of Việtnam 's greatest heroes have spent time in prison and there is an impressive tradition of prison poetry in Việtnam . Phan Chu Trinh , a leader of the anti-colonial struggles at the turn of the century , spent time on the prison island of Côn Sơn . Phan Bội Châu , another leader of the resistance to the French policy in Indochina , was imprisoned in Kwang tung , China . Both wrotes articles and poems while behind prison walls . Hồ Chí Minh was a prisoner of Chiang Kai-Shek's police in China in August , 1942 to September, 1943 , a and wrote poems while he was in captivity .
Today many of the 100,000 political prisonners in the jails of South Việtnam compose poems and songs to help pass the time and to keep themselves from going mad . Since they are afraid to write them down , many prisoners carefully memorize long poems , and then commit them to paper if they released .
The Thiệu regime uses many of the prisons built by the French colonialists to repress those who oppose its policies . From all reports officials of the Thiệu regime treat their prisoners as inhumanely as the French authorities treated theirs in colonial days . Prisoners are shackled for months , and many become paralyzed . They suffer from chronic dysentery and other stomach disorders . Beatings and torture are common . Former prisoners have described water torture , the use of electrodes on sensitives parts of the body , and other tortures , The laws of South Việtnam make it possible for a prisoner to be arrested and held for up to two years without trial , which is renewable , jail and never be tried .
One of the most feared of all South Vietnam's prisons is on Côn Sơn Island . It is located in the South China Sea , approximately 140 miles southeast of Saigon . The prison was established in 1862 by the French . Although Hồ Chí Minh was never imprisoned there , it was also called
' University of Hồ Chí Minh ' because so many of its ' graduates ' changed from a strong anti-communist position when they entered to joining the Việt Minh upon their release . Now it is the Government of the Republic of South Việtnam ' s largest civilian prison , having 9,916 prisoners as of June , 1970 , according to the U.S. Public Safety Director in Việtnam .
In June , 1970 , Don Luce escorted Congressman Augustus Hawkins of the Los Angeles Watts area , Congressman William Anderson of Tennessee and Thomas Harkin , a congressional aide , to the prison on Côn Sơn . Frank E. Walton , Director of the U.S. Public Safety program in Việtnam , and Colonel Nguyễn Văn Vệ , Chief Warden of Côn Sơn Prison , accompanied them and were responsible for showing them around . At the beginning of the trip Mr. Walton said , ' This ( place ) is like a Boy Scout Recreational Camp ' . Both he and Colonel Vệ wanted the visitors to spend a lot of their time in the prisoner souvenir shop . When Mr. Harkin showed Colonel Vệ a list of prisons they would like to see , he became angry and said that is was not possible to see indivual prisons , without special permission from the Ministry of Interior .
Finally , however , with the help of a map given to him by a former prisoner , Don Luce was able to locate the tiger cages . He saw a path between two walls which had some vegetables growing along it and remembered that this was where a former prisoner said there was a door leading into the tiger cages . Before Colonel Vệ could stop them , the Congressman . , Don Luce and Thomas Harkin , punded on the door which was opened by a confused guard . They went into the area of the tiger cages .
What they saw was later well published in newspaers around the world . The prisoners showed scars where they had been shackled to an iron bar at the base of their small cells . Many of them were paralized from the waist down and could not stand . Don Luce spoke to them in Vietnamese and they complained of being beaten , of not having enough to eat , and of having lime thrown on them when they talked . The lime stung their eyes and was causing blindness in some.
After the existence of the tiger cages was made public , the American Mission and the Thiệu Government announced that steps were being taken to improve the conditions at Côn Sơn . Later , because , it was disclosed that the American construction company of Raymond , Morisson , Knutson- Brown , Root and Jones was building new ' isolation cells ' under a contract with the U.S. Government . These new cells are costing the American taxpayers $ 400,000 .
[]
( Don Luce 's note )
B r e a k i n g R o c k s o n C ô n S ơ n
By P H A N C H U T R I N H
Phan Chu Trinh was a key figure in Vietnamese anti-colonial struggles at the
turn of the century . He attempted to liberate Vietnamese from the feudalism
of the Mandarin system and perpare the way for a new nationalism . Heavily
influenced by European Enlightenment thinking , he argued against a violent
confrontation with France and was hopeful that an acceptable agreement could be
worked out with France without bloodshed . Nevertheless , he was accused of
inciting rebellion and sent to the prison island of Côn Sơn in 1908 , where he
remained until 1911 . Although due to his notoriety he received some special
privileges while at Côn Sơn , he had to break rocks for building roads with
all the other prisoners . He also supposedly ruffled French authorities
by refusing to talk to the French prison director unless he was invited to sit down .*
[]
( DON LUCE ' s not e ) .
------
* Information on Phan Chu Trinh was taken from ' Vietnamese Anti- Colonialism ' ,
by David C. Marr , University of California Press , Berkeley , Calif., 1971 .
As a man standing upright on Côn Sơn
I can being mountains crashing down in pieces .
With my hammer I shatter heap after heap ,
All my strength producing hundreds more stones ,
Day in , day out I make light of my exhausted body ,
In rain or shime my heart never fails .
In temporary setback , those who mend the sky
Do not let minor things get them down !
( poem by PHAN CHU TRINH )
P o em s b y H ồ C h í M i n h
TUNG CHUN PRISON
Tung Chin prison , Ping Ma prison : the same thing .
Rice thin in tiny bowls , the stomach shrinks ,
But at least there 's water and light
And twice a day they open the bars and let the air in .
ON THE WAY TO NANNING
The supple rope has now been replaced with iron fetters ,
At every step they jingle like jade rings .
Though a prisoner , accused of being a spy ,
I move with all the dignity of an ancient government official .
PASTORAL SCENE
When I came the rice was pale green .
Now it 's cut in the barns ..
Peasants laugh
I hear them , here , across the rice fields .
( poem by HỒ CHÍ MINH )
-----
( from WE PROMISE ONE ANOTHER / poems
from an Asian war - Don Luce , John C. Schafer
& Jacquelyn Chagnon selected, translated -
Published by The Indochina Mobile Education
Project , Washington , D. C. 1971 -
p. 94 - 98 ).
/ Don Luce ... introduced ...
P o e m s f r o m P r i s o n
In temporary set bach , those who mend the sky
Do not let minor things get them down
( PHAN CHU TRINH )
Most of Việtnam 's greatest heroes have spent time in prison and there is an impressive tradition of prison poetry in Việtnam . Phan Chu Trinh , a leader of the anti-colonial struggles at the turn of the century , spent time on the prison island of Côn Sơn . Phan Bội Châu , another leader of the resistance to the French policy in Indochina , was imprisoned in Kwang tung , China . Both wrotes articles and poems while behind prison walls . Hồ Chí Minh was a prisoner of Chiang Kai-Shek's police in China in August , 1942 to September, 1943 , a and wrote poems while he was in captivity .
Today many of the 100,000 political prisonners in the jails of South Việtnam compose poems and songs to help pass the time and to keep themselves from going mad . Since they are afraid to write them down , many prisoners carefully memorize long poems , and then commit them to paper if they released .
The Thiệu regime uses many of the prisons built by the French colonialists to repress those who oppose its policies . From all reports officials of the Thiệu regime treat their prisoners as inhumanely as the French authorities treated theirs in colonial days . Prisoners are shackled for months , and many become paralyzed . They suffer from chronic dysentery and other stomach disorders . Beatings and torture are common . Former prisoners have described water torture , the use of electrodes on sensitives parts of the body , and other tortures , The laws of South Việtnam make it possible for a prisoner to be arrested and held for up to two years without trial , which is renewable , jail and never be tried .
One of the most feared of all South Vietnam's prisons is on Côn Sơn Island . It is located in the South China Sea , approximately 140 miles southeast of Saigon . The prison was established in 1862 by the French . Although Hồ Chí Minh was never imprisoned there , it was also called
' University of Hồ Chí Minh ' because so many of its ' graduates ' changed from a strong anti-communist position when they entered to joining the Việt Minh upon their release . Now it is the Government of the Republic of South Việtnam ' s largest civilian prison , having 9,916 prisoners as of June , 1970 , according to the U.S. Public Safety Director in Việtnam .
In June , 1970 , Don Luce escorted Congressman Augustus Hawkins of the Los Angeles Watts area , Congressman William Anderson of Tennessee and Thomas Harkin , a congressional aide , to the prison on Côn Sơn . Frank E. Walton , Director of the U.S. Public Safety program in Việtnam , and Colonel Nguyễn Văn Vệ , Chief Warden of Côn Sơn Prison , accompanied them and were responsible for showing them around . At the beginning of the trip Mr. Walton said , ' This ( place ) is like a Boy Scout Recreational Camp ' . Both he and Colonel Vệ wanted the visitors to spend a lot of their time in the prisoner souvenir shop . When Mr. Harkin showed Colonel Vệ a list of prisons they would like to see , he became angry and said that is was not possible to see indivual prisons , without special permission from the Ministry of Interior .
Finally , however , with the help of a map given to him by a former prisoner , Don Luce was able to locate the tiger cages . He saw a path between two walls which had some vegetables growing along it and remembered that this was where a former prisoner said there was a door leading into the tiger cages . Before Colonel Vệ could stop them , the Congressman . , Don Luce and Thomas Harkin , punded on the door which was opened by a confused guard . They went into the area of the tiger cages .
What they saw was later well published in newspaers around the world . The prisoners showed scars where they had been shackled to an iron bar at the base of their small cells . Many of them were paralized from the waist down and could not stand . Don Luce spoke to them in Vietnamese and they complained of being beaten , of not having enough to eat , and of having lime thrown on them when they talked . The lime stung their eyes and was causing blindness in some.
After the existence of the tiger cages was made public , the American Mission and the Thiệu Government announced that steps were being taken to improve the conditions at Côn Sơn . Later , because , it was disclosed that the American construction company of Raymond , Morisson , Knutson- Brown , Root and Jones was building new ' isolation cells ' under a contract with the U.S. Government . These new cells are costing the American taxpayers $ 400,000 .
[]
( Don Luce 's note )
B r e a k i n g R o c k s o n C ô n S ơ n
By P H A N C H U T R I N H
Phan Chu Trinh was a key figure in Vietnamese anti-colonial struggles at the
turn of the century . He attempted to liberate Vietnamese from the feudalism
of the Mandarin system and perpare the way for a new nationalism . Heavily
influenced by European Enlightenment thinking , he argued against a violent
confrontation with France and was hopeful that an acceptable agreement could be
worked out with France without bloodshed . Nevertheless , he was accused of
inciting rebellion and sent to the prison island of Côn Sơn in 1908 , where he
remained until 1911 . Although due to his notoriety he received some special
privileges while at Côn Sơn , he had to break rocks for building roads with
all the other prisoners . He also supposedly ruffled French authorities
by refusing to talk to the French prison director unless he was invited to sit down .*
[]
( DON LUCE ' s not e ) .
------
* Information on Phan Chu Trinh was taken from ' Vietnamese Anti- Colonialism ' ,
by David C. Marr , University of California Press , Berkeley , Calif., 1971 .
As a man standing upright on Côn Sơn
I can being mountains crashing down in pieces .
With my hammer I shatter heap after heap ,
All my strength producing hundreds more stones ,
Day in , day out I make light of my exhausted body ,
In rain or shime my heart never fails .
In temporary setback , those who mend the sky
Do not let minor things get them down !
( poem by PHAN CHU TRINH )
P o em s b y H ồ C h í M i n h
TUNG CHUN PRISON
Tung Chin prison , Ping Ma prison : the same thing .
Rice thin in tiny bowls , the stomach shrinks ,
But at least there 's water and light
And twice a day they open the bars and let the air in .
ON THE WAY TO NANNING
The supple rope has now been replaced with iron fetters ,
At every step they jingle like jade rings .
Though a prisoner , accused of being a spy ,
I move with all the dignity of an ancient government official .
PASTORAL SCENE
When I came the rice was pale green .
Now it 's cut in the barns ..
Peasants laugh
I hear them , here , across the rice fields .
( poem by HỒ CHÍ MINH )
-----
( from WE PROMISE ONE ANOTHER / poems
from an Asian war - Don Luce , John C. Schafer
& Jacquelyn Chagnon selected, translated -
Published by The Indochina Mobile Education
Project , Washington , D. C. 1971 -
p. 94 - 98 ).
Thứ Hai, 20 tháng 2, 2012
NHỮNG NHÀ THƠ HÔM NAY / NGUYỄN THỊ HOÀNG / Nguyễn đình Tuyến viết .
Những nhà thơ hôm nay /
NGUYỄN ĐÌNH TUYẾN
N g u y ễ n T h ị H o à n g *
NGUYỄN ĐÌNH TUYẾN viết
Thi sĩ Nguyễn thị Hoàng sinh ngày 11 tháng 12 năm 1939 tại Huế . Đã theo học trường Đại học Văn Khoa Saigon . Đã cộng tác với tạp chí Bách Khoa .
Đã xuất bản :
Các quyển tiểu thuyết gây nhiều sôi nổi :
VÒNG TAY HỌC TRÒ
TUỔI SAIGON
Đã lần lượt đăng báo các bài thơ rút trong 2 thi phẩm ( chưa xuất bản ) :
SẦU RIÊNG ( 1960 )
SAU PHÚT ĐAM MÊ ( 1961 ) .
TRƯỜNG hợp của Nguyễn Thị Hoàng cũng giống như trường hợp của Sagan : học lỡ dở cấp bậc đại học rồi bỏ dở đi làm văn học . Nhưng chỗ khác nhau là Sagan viết văn ngay , còn Nguyễn thị Hoàng thì làm thơ trước khi viết văn . Và thơ Nguyễn thị Hoàng mang những âm vang thật mới là :
không ai về thăm chiều nay
cho tôi chết giữa vòng tay một người
tiếng hôn khép kín môi cười
gối chăn mùa lạnh rã rời thú xưa .
Tiếng thơ tha thiết xao xuyến , phản ảnh sự giàu sang của một tâm hồn nhiều đam mê cảm xúc , vừa ngọt ngào , vừa cay đắng như tiếng hát đoạn trường , như tiếng kêu thầm của một người con gái trong đêm tối :
Mím môi dằn tiếng kêu thầm
Về đâu rồi những mùa xuân cuộc đời
Về đâu rồi những mùa xuân của trời đất nối tiếp nhau ra đi không bao giờ trở lại ? Về đâu rồi những mùa xuân của người con gái khi soi gương thấy mùa xuân không còn ở với mình ? Về đâu rồi những ngày tươi đẹp cắp sách đến trường , vô tư lự , những vòng tay học trò , những nụ cười tươi nở trên môi ?
Hiện tại chỉ là chăn gối rã rời trong đó im nghe từng chuyến xe đời lặng lẽ , âm thầm , chứa đựng những hoài niệm bi đát :
trong cơn chăn gối rã rời
im nghe từng chuyến xe đời đi qua
Trong chuyến xe đời đi qua , đi vào tàn tạ . Thời gian vĩnh viễn là kẻ thù của mùa xuân , của cuộc đời , thời gian triền miên đi vào vô vọng . Nhưng mùa xuân tình cũ , ngày mộng , tiếng kêu thầm , tất cả các thứ ấy lòng người thiếu nữ còn ghi vọng những âm thanh ngỡ ngàng , thanh nhã :
nhạc trầm theo tiếng mưa bay
với em tình cũ tháng ngày vọng âm .
Tiếng thơ đưa ta đi trở lại mọi chặng đường quá khứ của người con gái hôm nay , đưa ta đi vào tâm tư sâu kín nhất của người con gái thời đại . Đó là một lời thú tội tình dục ( confession sexuelle ) như trong thi ca Nguyễn Du :
Biết thân đến chỗ lạc loài
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung
Đó là một nguồn thơ phát tiết từ tình mộng của người con gái mới lớn lên bị cuộc đới quyến rũ và ta không biết nên buồn hay nên thương :
lênh đênh tiếng hát kinh cầu
ăn năn cổ thụ cúi đầu ngẩn ngơ
trên cao thap cũ nhà thờ
hồi chuông tưởng niệm bây giờ còn vang .
Tình yêu, triết lý tôn giáo pha lẫn trong thơ Nguyễn thi Hoàng truyền cảm , kết tụ từ tinh thể mùa xuân thiếu nữ , phát xuất từ những mối tình duyên có thực , lạ lùng , não nuột . Lạ lùng ở chỗ vô ngôn cổ thụ ( nhân hóa ) cúi đầu ngẩn ngơ ; não nuột là ở chỗ nhà thơ đã đi từ thái cực này sang thái cực khác :
em mười sáu tuổi tơ măng
thịt da đốt cháy thiên đường tình yêu
và :
từ mất người yêu nhỏ bé xưa
mùa xuân đã chết tự bao gi
hồn tôi xưa một bồng lai đảo
giờ đã tan tành chuyện gió mưa .
Lạ lùng, não nuột , nhưng huyền diệu ở tiếng hát kinh cầu , ở hồi chuông niệm , ở tháp cũ nhà thờ . Đọc những vần thơ trên , ta thấy tất cả cái xót xa của ngưởi thiếu nữ : Sầu riêng , Sau phút đam mê đều chứa đựng cái triêt lý bi đát biểu trưng định mệnh đau thương của người con gái đẹp đi tìm yêu , đi tìm thiêng liêng và vĩnh cửu .
Ta làm sao quên được cái táo bạo của người con gái đã dấn thân vào cuộc đời tình ái phiêu lưu và đau khổ, để viết lên những bài thơ yêu đương nồng cháy như một Sara Teasdale của Mỹ trong Đêm Xuân ( Spring night ) :
Ta làm sao phải khóc kêu gọi yêu đương
Với tuổi thanh xuân , một giọng đầy âm nhạc
và nước mắt
Chính là để làm cho cả thế giới chiêm ngưỡng bất ngờ
Tại làm sao tôi lại từ chối sự kiêu căng
Tại sao tôi không được thỏa mãn
Tôi, màn đêm tư tưởng
Quấn tôi bằng ánh sáng tóc mây
Tôi, mà sắc đẹp nồng cháy
Như hương trong một triệu đỉnh ?
Ôi sắc đẹp , người có tự mãn không ?
Tại sao tôi phải khóc khi kêu gọi yêu đương ?
Ta làm sao quên được cái mím môi trong chăn gối , nửa mặt sầu nghiêng , những bước bơ vơ , những giòng lệ ngập ngừng , những cặp mắt sâu nhìn nhau mà cách biệt nhau đến muôn trùng thời gian :
cúi đầu đếm bước bơ vơ
hoàng hôn khép kín bao giờ đây em
nhìn lên thành phố không đèn
âm u còn một màn đêm cuối cùng
mắt sâu dòng lệ ngập ngừng
mình xa nhau đến muôn trùng thời gian .
Ta làm sao quên được những rung động thành thực phong phú của thời đại , phát xuất từ những sầu riêng con gái , từ những say sưa thác loạn , từ những vết son kỷ niệm trên lầu hoang ?
[]
trích thơ :
I .- m ê
Lầu hoang khép kín đêm xưa
Kín vòng tay ấm bao giờ nữa em ?
Chân cuồng đã đứng như im
Thu xưa giờ đã phai chìm tháng năm
Linh hồn đã thú ăn năn
Vết chân đương cũ nghìn năm chưa mòn
Em mười sáu tuổi tơ măng
Thịt da đốt cháy thiên đường tình yêu .
( SAU PHÚT ĐAM MÊ )
2.- n i ềm v u i n h ỏ
Em đợi anh về những chiều thứ bẩy
Hiu hắt vòm trời buổi sáng thứ hai
Nhạc dạo mơ hồ trong tiếng mưa bay
Thành phố ngủ quên những ngày chủ nhật
Em lang thang tìm thời gian đã mất
Cột đèn gầy soi trà thất vắng hoe
Dàn nhạc hoang vu ca sĩ chưa về
Quầy hang lao đao bầy con
trai khát rượu
Hồn xiêu đổ theo nhịp đời huyên náo
Vòng tay mong ôm ngang hết tinh cầu
Trở lại vòng đua thứ nhất
Không còn gì mai sau
Anh về với em một chiều thứ bẩy
Confetti vung vẩy lá me bay
Những đốm đèn xe chập chùng xa lộ
Hơi thở khuya nào gợn gió heo may
Anh bỏ em từ sáng thứ hai
Thành phố tha ma trải dài xa lộ
Từng hạt mưa bay cửa lòng bỡ ngỡ
Anh bỏ em từ trắc trở đầu tiên
Cho em xin một chiều vui thứ bẩy
Có nhạc phòng trà có lá me bay
Tiếng gió reo vui đêm dài xa lộ
Nửa cuộc đời còn khoác kín vòng tay
Anh nhớ về thăm em
Chiều hôm nay thứ bẩy
Trời giăng mưa trong lá me bay
Em sẽ vì anh bắt đầu từ hiện tại .
( SAU PHÚT ĐAM MÊ )
3. - n ử a đ ờ i
Con tàu theo dòng sông trôi
từng kiếp bèo mây
và tôi
ngơ ngác nhìn trước mặt sau lưng
đam mê lưu đày oán hận
bánh xe lao dốc chưa ngừng
trời cho làm thân con gái
nhạc nhằn thể xác từng cơn
trắng trong còn bàn tay trái
từng đêm thức giấc tui hờn
những vì sao nở phương nào
linh hồn sao không quen biết
giọt nước mắt nụ cười đã chết
nỗi buồn cao bay .
4.- t r o n g c ơ n c h ă n g ố i
Trong cơn chăn gối rã rời
Im nghe từng chuyến xe đời đi qua
Và từng chân bước dừng xa
Tưởng như mình đã bao giờ vùi chôn
Ung thư lở lói tâm hồn
Niềm đau thân thể ra mòn suy tư
Vườn đời đã nhuốm mùa thu
Chin thanh thôi hót trong mù sớm nay
Thuyền neo mãi bến sông này
Không ai về giữa vòng tay mỏi mòn
Chiều xa gà nhịp vào hồn
Rạc rời vó ngựa nẻo mòn hoang vu
Vang vang tiếng hát giã từ
Thiên đường Địa Ngục tôi giờ đi đâu ?
5.- t h ú t ộ i
Giờ xin vĩnh biệt Nhà Chung
Chúa ơi con đã vô cùng đớn đau
Đêm đêm lắng tiếng kinh cầu
Xót thương trăm nỗi tủi sầu một thân
Mưa sa gió táp bao lần
Nhục nhằn tội lỗi trên thân xác này
Con đem số kiếp đọa đày
Đi tìm kiếm một vài giây huy hoàng
Trọn đời du mục lang thang
Mỗi lần yêu một lỡ làng Chúa ơi
Nên con đi trốn cuộc đời
Nhà Chung cửa khép chôn vùi ngày xanh
Tâm hồn ngoại đạo lênh đênh'
Con không quên được bóng hình ngày xưa
Niềm tin vỡ nát bao giờ
Cuộc đời sớm nắng chiều mưa trở về
Con nằm lịm ngất trong mê
Nhạc xưa đồng vọng bốn bề tâm tư
Vô tri thể xác lao tù
Hồn hoang lạc nẻo sương mù yêu đương
Cho con vĩnh biệt Thiên Đường
Tìm đi Địa Ngục mê cuồng từ đây
Năm năm tháng tháng ngày ngày
Đau buồn khoác kín vòng tay tủi hờn
Linh hồn hải đảo cô đơn
Chúa ơi suối lệ lòng con vẫn đầy
Bèo trôi nước cuốn mây bay
Về đâu , giới hạn cuộc đời mong manh
Tình xa vạn lý trường thành
Về đâu rồi những ngày xanh tuổi vàng
Chuyện tinh đã chót đa mang
Trái tim lở lói trăm ngàn vết thương
Giờ xin vĩnh biệt Thiên Đường
Giờ xin tìm lại sầu thương giữa đời
Đường về không nhịp trùng lai
Chúa ơi con sợ ... ngày mai một mình .
( thơ NGUYỄN THỊ HOÀNG ) []
NGUYỄN ĐÌNH TUYẾN ..
-----
* Sau 30/ 4/ 1975, Nguyễn thị Hoàng thường trú tại tp. HCM. . ( B.T.)
( trích NHỮNG NHÀ THƠ HÔM NAY / NGUYỄN ĐÌNH TUYẾN
( ấn bản mới đã được hiệu đính ) - Nhà văn Việtnam tái bản , Saigon 1967 - tr. 235 - 244).
NGUYỄN ĐÌNH TUYẾN
N g u y ễ n T h ị H o à n g *
NGUYỄN ĐÌNH TUYẾN viết
Thi sĩ Nguyễn thị Hoàng sinh ngày 11 tháng 12 năm 1939 tại Huế . Đã theo học trường Đại học Văn Khoa Saigon . Đã cộng tác với tạp chí Bách Khoa .
Đã xuất bản :
Các quyển tiểu thuyết gây nhiều sôi nổi :
VÒNG TAY HỌC TRÒ
TUỔI SAIGON
Đã lần lượt đăng báo các bài thơ rút trong 2 thi phẩm ( chưa xuất bản ) :
SẦU RIÊNG ( 1960 )
SAU PHÚT ĐAM MÊ ( 1961 ) .
TRƯỜNG hợp của Nguyễn Thị Hoàng cũng giống như trường hợp của Sagan : học lỡ dở cấp bậc đại học rồi bỏ dở đi làm văn học . Nhưng chỗ khác nhau là Sagan viết văn ngay , còn Nguyễn thị Hoàng thì làm thơ trước khi viết văn . Và thơ Nguyễn thị Hoàng mang những âm vang thật mới là :
không ai về thăm chiều nay
cho tôi chết giữa vòng tay một người
tiếng hôn khép kín môi cười
gối chăn mùa lạnh rã rời thú xưa .
Tiếng thơ tha thiết xao xuyến , phản ảnh sự giàu sang của một tâm hồn nhiều đam mê cảm xúc , vừa ngọt ngào , vừa cay đắng như tiếng hát đoạn trường , như tiếng kêu thầm của một người con gái trong đêm tối :
Mím môi dằn tiếng kêu thầm
Về đâu rồi những mùa xuân cuộc đời
Về đâu rồi những mùa xuân của trời đất nối tiếp nhau ra đi không bao giờ trở lại ? Về đâu rồi những mùa xuân của người con gái khi soi gương thấy mùa xuân không còn ở với mình ? Về đâu rồi những ngày tươi đẹp cắp sách đến trường , vô tư lự , những vòng tay học trò , những nụ cười tươi nở trên môi ?
Hiện tại chỉ là chăn gối rã rời trong đó im nghe từng chuyến xe đời lặng lẽ , âm thầm , chứa đựng những hoài niệm bi đát :
trong cơn chăn gối rã rời
im nghe từng chuyến xe đời đi qua
Trong chuyến xe đời đi qua , đi vào tàn tạ . Thời gian vĩnh viễn là kẻ thù của mùa xuân , của cuộc đời , thời gian triền miên đi vào vô vọng . Nhưng mùa xuân tình cũ , ngày mộng , tiếng kêu thầm , tất cả các thứ ấy lòng người thiếu nữ còn ghi vọng những âm thanh ngỡ ngàng , thanh nhã :
nhạc trầm theo tiếng mưa bay
với em tình cũ tháng ngày vọng âm .
Tiếng thơ đưa ta đi trở lại mọi chặng đường quá khứ của người con gái hôm nay , đưa ta đi vào tâm tư sâu kín nhất của người con gái thời đại . Đó là một lời thú tội tình dục ( confession sexuelle ) như trong thi ca Nguyễn Du :
Biết thân đến chỗ lạc loài
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung
Đó là một nguồn thơ phát tiết từ tình mộng của người con gái mới lớn lên bị cuộc đới quyến rũ và ta không biết nên buồn hay nên thương :
lênh đênh tiếng hát kinh cầu
ăn năn cổ thụ cúi đầu ngẩn ngơ
trên cao thap cũ nhà thờ
hồi chuông tưởng niệm bây giờ còn vang .
Tình yêu, triết lý tôn giáo pha lẫn trong thơ Nguyễn thi Hoàng truyền cảm , kết tụ từ tinh thể mùa xuân thiếu nữ , phát xuất từ những mối tình duyên có thực , lạ lùng , não nuột . Lạ lùng ở chỗ vô ngôn cổ thụ ( nhân hóa ) cúi đầu ngẩn ngơ ; não nuột là ở chỗ nhà thơ đã đi từ thái cực này sang thái cực khác :
em mười sáu tuổi tơ măng
thịt da đốt cháy thiên đường tình yêu
và :
từ mất người yêu nhỏ bé xưa
mùa xuân đã chết tự bao gi
hồn tôi xưa một bồng lai đảo
giờ đã tan tành chuyện gió mưa .
Lạ lùng, não nuột , nhưng huyền diệu ở tiếng hát kinh cầu , ở hồi chuông niệm , ở tháp cũ nhà thờ . Đọc những vần thơ trên , ta thấy tất cả cái xót xa của ngưởi thiếu nữ : Sầu riêng , Sau phút đam mê đều chứa đựng cái triêt lý bi đát biểu trưng định mệnh đau thương của người con gái đẹp đi tìm yêu , đi tìm thiêng liêng và vĩnh cửu .
Ta làm sao quên được cái táo bạo của người con gái đã dấn thân vào cuộc đời tình ái phiêu lưu và đau khổ, để viết lên những bài thơ yêu đương nồng cháy như một Sara Teasdale của Mỹ trong Đêm Xuân ( Spring night ) :
Ta làm sao phải khóc kêu gọi yêu đương
Với tuổi thanh xuân , một giọng đầy âm nhạc
và nước mắt
Chính là để làm cho cả thế giới chiêm ngưỡng bất ngờ
Tại làm sao tôi lại từ chối sự kiêu căng
Tại sao tôi không được thỏa mãn
Tôi, màn đêm tư tưởng
Quấn tôi bằng ánh sáng tóc mây
Tôi, mà sắc đẹp nồng cháy
Như hương trong một triệu đỉnh ?
Ôi sắc đẹp , người có tự mãn không ?
Tại sao tôi phải khóc khi kêu gọi yêu đương ?
Ta làm sao quên được cái mím môi trong chăn gối , nửa mặt sầu nghiêng , những bước bơ vơ , những giòng lệ ngập ngừng , những cặp mắt sâu nhìn nhau mà cách biệt nhau đến muôn trùng thời gian :
cúi đầu đếm bước bơ vơ
hoàng hôn khép kín bao giờ đây em
nhìn lên thành phố không đèn
âm u còn một màn đêm cuối cùng
mắt sâu dòng lệ ngập ngừng
mình xa nhau đến muôn trùng thời gian .
Ta làm sao quên được những rung động thành thực phong phú của thời đại , phát xuất từ những sầu riêng con gái , từ những say sưa thác loạn , từ những vết son kỷ niệm trên lầu hoang ?
[]
trích thơ :
I .- m ê
Lầu hoang khép kín đêm xưa
Kín vòng tay ấm bao giờ nữa em ?
Chân cuồng đã đứng như im
Thu xưa giờ đã phai chìm tháng năm
Linh hồn đã thú ăn năn
Vết chân đương cũ nghìn năm chưa mòn
Em mười sáu tuổi tơ măng
Thịt da đốt cháy thiên đường tình yêu .
( SAU PHÚT ĐAM MÊ )
2.- n i ềm v u i n h ỏ
Em đợi anh về những chiều thứ bẩy
Hiu hắt vòm trời buổi sáng thứ hai
Nhạc dạo mơ hồ trong tiếng mưa bay
Thành phố ngủ quên những ngày chủ nhật
Em lang thang tìm thời gian đã mất
Cột đèn gầy soi trà thất vắng hoe
Dàn nhạc hoang vu ca sĩ chưa về
Quầy hang lao đao bầy con
trai khát rượu
Hồn xiêu đổ theo nhịp đời huyên náo
Vòng tay mong ôm ngang hết tinh cầu
Trở lại vòng đua thứ nhất
Không còn gì mai sau
Anh về với em một chiều thứ bẩy
Confetti vung vẩy lá me bay
Những đốm đèn xe chập chùng xa lộ
Hơi thở khuya nào gợn gió heo may
Anh bỏ em từ sáng thứ hai
Thành phố tha ma trải dài xa lộ
Từng hạt mưa bay cửa lòng bỡ ngỡ
Anh bỏ em từ trắc trở đầu tiên
Cho em xin một chiều vui thứ bẩy
Có nhạc phòng trà có lá me bay
Tiếng gió reo vui đêm dài xa lộ
Nửa cuộc đời còn khoác kín vòng tay
Anh nhớ về thăm em
Chiều hôm nay thứ bẩy
Trời giăng mưa trong lá me bay
Em sẽ vì anh bắt đầu từ hiện tại .
( SAU PHÚT ĐAM MÊ )
3. - n ử a đ ờ i
Con tàu theo dòng sông trôi
từng kiếp bèo mây
và tôi
ngơ ngác nhìn trước mặt sau lưng
đam mê lưu đày oán hận
bánh xe lao dốc chưa ngừng
trời cho làm thân con gái
nhạc nhằn thể xác từng cơn
trắng trong còn bàn tay trái
từng đêm thức giấc tui hờn
những vì sao nở phương nào
linh hồn sao không quen biết
giọt nước mắt nụ cười đã chết
nỗi buồn cao bay .
4.- t r o n g c ơ n c h ă n g ố i
Trong cơn chăn gối rã rời
Im nghe từng chuyến xe đời đi qua
Và từng chân bước dừng xa
Tưởng như mình đã bao giờ vùi chôn
Ung thư lở lói tâm hồn
Niềm đau thân thể ra mòn suy tư
Vườn đời đã nhuốm mùa thu
Chin thanh thôi hót trong mù sớm nay
Thuyền neo mãi bến sông này
Không ai về giữa vòng tay mỏi mòn
Chiều xa gà nhịp vào hồn
Rạc rời vó ngựa nẻo mòn hoang vu
Vang vang tiếng hát giã từ
Thiên đường Địa Ngục tôi giờ đi đâu ?
5.- t h ú t ộ i
Giờ xin vĩnh biệt Nhà Chung
Chúa ơi con đã vô cùng đớn đau
Đêm đêm lắng tiếng kinh cầu
Xót thương trăm nỗi tủi sầu một thân
Mưa sa gió táp bao lần
Nhục nhằn tội lỗi trên thân xác này
Con đem số kiếp đọa đày
Đi tìm kiếm một vài giây huy hoàng
Trọn đời du mục lang thang
Mỗi lần yêu một lỡ làng Chúa ơi
Nên con đi trốn cuộc đời
Nhà Chung cửa khép chôn vùi ngày xanh
Tâm hồn ngoại đạo lênh đênh'
Con không quên được bóng hình ngày xưa
Niềm tin vỡ nát bao giờ
Cuộc đời sớm nắng chiều mưa trở về
Con nằm lịm ngất trong mê
Nhạc xưa đồng vọng bốn bề tâm tư
Vô tri thể xác lao tù
Hồn hoang lạc nẻo sương mù yêu đương
Cho con vĩnh biệt Thiên Đường
Tìm đi Địa Ngục mê cuồng từ đây
Năm năm tháng tháng ngày ngày
Đau buồn khoác kín vòng tay tủi hờn
Linh hồn hải đảo cô đơn
Chúa ơi suối lệ lòng con vẫn đầy
Bèo trôi nước cuốn mây bay
Về đâu , giới hạn cuộc đời mong manh
Tình xa vạn lý trường thành
Về đâu rồi những ngày xanh tuổi vàng
Chuyện tinh đã chót đa mang
Trái tim lở lói trăm ngàn vết thương
Giờ xin vĩnh biệt Thiên Đường
Giờ xin tìm lại sầu thương giữa đời
Đường về không nhịp trùng lai
Chúa ơi con sợ ... ngày mai một mình .
( thơ NGUYỄN THỊ HOÀNG ) []
NGUYỄN ĐÌNH TUYẾN ..
-----
* Sau 30/ 4/ 1975, Nguyễn thị Hoàng thường trú tại tp. HCM. . ( B.T.)
( trích NHỮNG NHÀ THƠ HÔM NAY / NGUYỄN ĐÌNH TUYẾN
( ấn bản mới đã được hiệu đính ) - Nhà văn Việtnam tái bản , Saigon 1967 - tr. 235 - 244).
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)