Thứ Năm, 13 tháng 2, 2014

nam cao : hồi ức nguyễn đăng mạnh

 hồi ký nguyễn đăng mạnh
 hànội , 1998


                                      nam cao
                                               hồi ức : nguyễn đăng mạnh


      Năm 1963, tôi có về làng Đại hoàng, quê Nam Cao, cùng với Nguyễn hoành Khung. Lúc ấy ông bà thân sinh Nam Cao còn sống.  Tôi đã được uống rượu với ông cụ, đước ăn cam Đại hoàng.  Rồi còn được gặp cô Hồng con gái Nam Cao và một ông em của Nam Cao.  Một nông dân tên là Đạt .

     Tôi về làng Đại Hoàng để tìm hiểu những nguyên mẫu nhân vật của tác phẩm Văn Cao, vì, biết ông hay dùng nguyên mẫu. Hồi ấy tôi có hướng dẫn một sinh viên tên là Bạch văn Hợp làm luận văn sau đại học, ( tức luận văn thạc sĩ sau này )đề tài :' Từ nguyên mẫu đến nhân vật truyện của Nam Cao '.

     Chí Phèo không phải là người cùng thời với Nam Cao.  Đó là một nhân vật truyền thuyết của làng.  Ngày xưa, có một anh Chí Phèo, làm nghề mổ lợn, giỏi bắt phèo, nên , người ta gọi là Chí Phèo.   Anh thường uống rượu say, đi trên đường làng, chửi trời, chửi đất lung tung, trẻ con chạy theo hàng đàn. Chí Phèo  không đâm chém ai cả.  Còn Bá Kiến thì có nguyên mẫu tên là Bá Bính gần giống như Bá Kiến : bóc lột dân, dâm ô, cướp cả vợ bố, ngủ với con dâu.  Cũng có 4 vợ.  Tôi có ghi lại mấy câu vè về Bá Bính của dân Đại hoàng ( dân Đại hoàng hay làm vè, Nam Cao gọi là trần ngôn ) :

                         Nam Sang nhất ông Cao Đà
                         Có thằng Bá Nghị tên là sọc nhăng
                         Ông mà lại hóa ra thằng 
                         Khôn ngoan nhất mực, nói năng ai tày
                         Bốn đời lý trưởng trong tay
                         Bao chiếm điền thổ xưa nay đã nhiều
                         Thuế tháng năm nhà nghèo cũng khổ 
                         Mày lại còn lạm bổ lạm thu 
                         Mang về xây dựng cơ đồ
                         Lắng tai ta sẽ bảo cho ân cần  
                                        (THEO ÔNG TRẦN DOãN CHÂU)

     Nghe nói vợ Bá Bính bị ta thủ tiêu, vì, hay ra vào đồn giặc, người ta cho là Việt gian.  Còn vợ tư Bá Bính , thì, lúc chúng tôi về Đại hoàng, vẫn còn sống.
 Chí Phèo và Bá Bính chẳng liên quan gì đến nhau cả.  Bá Bính chẳng bị ai đâm chém, còn sống mãi sau cách mạng tháng 8 và có chân trong hội Liên Việt.

    Như vậy là truyện Chí Phèo hư cấu nhiều, nhất là nhân vật Chí Phèo đã bịa ra vụ án mạng Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát.  Ông đã sáng tạo ra một tính cách độc đáo.

   Những truyện Nam Cao đã trở thành sự thật đối với thế hệ trẻ làng Đại hoàng.  Tôi có đến xem bài viết về lịch sử làng Đại hoàng trình bày trên 1 tờ báo giấy lớn, đặt ở trụ sở ủy ban xã, do một học sinh lớp 7 soạn .  Anh ta ghi luôn nhân vật truyện của Nam Cao vào lịch sử : ' Xưa có một địa chủ cường hào tên Bá Kiến ...'

    Trong truyện Chí Phèo, Nam Cao nói làng Vũ đại lắm bè phái do kiểu đất
 ' Quần ngư tranh thực '.  Điều này có thật.

   Người làng còn nhớ 5 cánh : 

   1-  Cánh Bá Bính ( tên thật là Trần duy Bính)
   2-  Cánh Nhất Hợp.
   3-  Cánh Bát Ngọ ( tên là Trần thế Ngữ - còn có một người thật, thuộc cánh này, tên là Năm Ngọ).
   4-  Cánh Lý Bật.
   5-  Cánh bát Tụ.

  Còn Thị Nở có người nói có,có người nói không. Cô Hồng, con [của] Nam Cao, thì nói dứt khoát: ' ông ấy bịa' .

   Hôm ấy, tôi thử hỏi một ông người làng gặp ở giữa đường, có biết ông Nam Cao là ai không ? Ông ta nói : ' Biết chứ ! Nam Cao là một cán bộ trung ương'.  Nghĩa là, một ông quan cách mạng to.  Ông nông dân này nghĩ thế, chắc vì thấy nhiều người về thăm, trong đó có cả ông tây, bà đầm đi xe tu-bin.*  Mới biết người dân Việtnam chỉ trọng quan lại,  chứ nhà văn là cái quái gì !  Ngay ở nhà Nam Cao, tôi thấy có mấy bức ảnh Nam Cao chụp với gia đình, bị để mốc và hoen ố hết.  Những di vật ấy có giá trị gì mà giữ !
---
*  automobile : xe hơi, ô tô - ở đấy là xe con. [BT]

   Xem cảnh làng Đại hoàng thì thấy hệt như cảnh làng Vũ đại trong truyện Nam cao.  Làng Đại hoàng nhất thôn, nhất xã. ( xã chỉ có một thôn ) . Đàn ông không biết đi cày, đàn bà không biết đi cấy.  Dân làng làm vườn là
 chính  :(gọi là 'bòn vườn') trồng trầu, trồng cam, trồng chuối, trồng dâu .

                         Cây trồng rau chuối rườm rà
                         Cam cam, bưởi bưởi, na na, hồng hồng
                         (...) Đất thơm là đất trồng trầu
                          Bãi bồi là đất trồng dâu cứu bần

    Đại hoàng có nghề dệt vải.  Vào làng cứ nghe ran ran tiếng lách cách dệt cửi.  Truyện Nam Cao cũng hay nói đến nghề dệt, thợ dệt . ( Dì Hảo, Một bữa no...)

                          Người nhiều khôn khéo cũng nhiều
                          Dệt thoi thoi múa, thi diều diều lên 
                                  ( VÈ LÀNG ĐẠI HOÀNG)

    Đại hoàng cũng như làng Vũ đại, nằm bên bờ một con sông gọi là sông Châu Giang. ( Gió sông thổi lên vườn chuối nhà Chí Phèo, Thị Nở gọi lá ' mát như quạt hầu'.)

    Tìm hiểu Nam Cao, nhất thiết phải gặp Tô Hoài.  Ông là một nhà văn hiếm hoi gần gũi. lại am hiểu Nam Cao rất sâu.  ( Tô Hoài có một bà dì tên là Phương - nguyên mẫu nhân vật Oanh trong ' Sống mòn' của Nam Cao ) lấy chồng ở làng Đại hoàng  (ông giáo Bao- nguyên mẫu của nhân vật Đích  trong' Sống mòn'.)  Bà Phượng phụ trách trường Tiểu học tư thục Công thành ở Bưởi . Nam Cao dạy ở đó. Bà Phượng giới thiệu Nam Cao dạy tiếng Pháp cho Tô 
Hoài . Nam Cao ở nhà Tô Hoài, cùng ngủ chung 1 giường, đắp chung một cái chăn.  Tô Hoài chưa vợ. Nam Cao có vợ rồi, nhưng, vợ ở quê.  Đêm đêm họ tâm sự với nhau đủ chuyện.

     Theo Tô Hoài, Nam Cao cũng có đủ mọi thói xấu trên đời.  Nhưng giàu lòng thương người và rất ngậy thơ, lại cả tin.

    Có một lần, 2 người đi chơi gái.  Họ tìm đến một nhà trọ. Phòng hết.  Có 1 cô gái điếm nói, nhường cho họ phòng ngủ.  Nhưng khi họ vào ngủ, thì, cô gái điếm kia vào nằm chen ngay vào giữa, ả than thở về số phận như thề náo đó - Nam Cao rất xúc động - trong khi đó- ả vẫn sờ soạng và cắn tai Tô Hoài.

    Nhưng Nam Cao có một điều đặc biệt, là hay xấu hổ về những thói xấu của mình, về những chỗ tầm thường phàm tục của mình.  Chỗ hơn đời, hơn người của ông chính là chỗ này.

    Tôi Hoài kể cho tôi nghe chuyện này- tôi cho là rất có ý nghĩa.  Trước 1950, biên giới phía bắc nước ta còn bị Pháp chiếm giữ.  Con đường số 4 từ Cao bằng đi Lạng sơn,  Pháp kiêm soát, đóng nhiều đồn, bốt dọc đường, thường cho xe cơ giới vũ trang đi đi, lại lại, để kiểm soát,  có khi phục kích ở chỗ tắt qua đường.  Vì thế, cán bộ đi công tác qua đường số 4 rất nguy hiểm.  Những đoàn cán bộ muốn qua con đường này đều phải tập trung ở một khu rừng gần đó (Thất Khê) - chờ trinh sát viên thăm dò trước, nếu không thấy có  phục kích, các đoàn mới được phép vượt qua đường tức tốc. Tô Hoài kể,  khi được lệnh xuất phát, tâm lý chung mọi người là không ai muốn đi đầu.  Vì chắc gì đã không có phục kích ?  Trinh sát làm sao nắm chắc được tình hình 100%, nếu có phục kích, thì những anh đi đầu đều toi mạng.

   Một lần, Tô Hoài và Nam Cao phải đi công tác qua đường số 4, Nam cao cũng nhát như ai.  Khi được lệnh vượt đường, Tô Hoài để ý thấy Nam Cao mặt tái, người run.  Nhưng Nam Cao vẫn nhất quyết đi đầu, tuy vậy vẫn run lắm.

   Tôi kết luận : Nam Cao bề ngoài lạnh lùng, ít nói, nhưng, bên trong thì sôi sục, luôn đấu tranh tư tưởng để vượt lên bản thân.  Xét ra, ý nghĩa tư tưởng của truyện Nam Cao là thế - dạy cho người ta biết xấu hổ, hay, nói cách khác - muốn lấy tỉnh ở con người ý thức về nhân phẩm, nhân tính.  Không phải chỉ nhân vật trí thức, ngay thẳng; Chí Phèo cũng đấu tranh tư tưởng để trở lại làm người lương thiện. Chí Phèo chết như 1 người khao khát trở lại làm người.

   Nguyên Hồng, KIm Lân đều rất phục Nam Cao.

    Lần đầu, Kim Lân gặp Nam Cao ở nhà Nguyễn huy Tưởng ở phố Lò đúc.  Ông ta thấy Nam Cao rất khiêm tốn, tự biết mình tầm thường, nhiêu mặc cảm, lại, có vẻ lạnh nhạt, và không thích vồ vập ai.

   Thời kháng chiến chống Pháp, thì có thời gian , họ ở với nhau.  Nam Cao tỏ ra kính trọng mọi người, phục mọi người,  riêng chỉ thấy mình xoàng.  Nhưng có 1 lần, uống rượu với thịt trâu chết, Kim Lâm  bốc lên, rồi hát tuồng, như Phong rút súng lục đùa nghịch, dí vào cổ người khác.  Còn Nam Cao thì lớn tiếng :' Tao đéo phục thằng Gooc-ki '. Té ra, con người này không hẳn chỉ có khiêm tốn đâu !  Nam Cao chỉ phục Sê-khốp, và cho Gooc-ki ồn ào quá.

     Bản thảo của Nam Cao viết rất sạch sẽ, nhưng, không quý bản thảo của mình.  Bản thảo Sống mòn, nhờ có Nguyên Hồng giữ mới còn, giữ trong suốt thời kháng chiến, đến khi hòa bình lập lại mới giao cho hội Văn nghệ.  Tên truyện vốn là Chết mòn, khi in, Xuân Thủy đề nghị sửa Sống mòn.

   ' Nam Cao nhát, rất sợ máy bay ,' Kim Lân cho biết như thế. Mỗi lần có máy bay, ông  chạy vợi xuống hầm, chui chui, nấp nấp,  rất tội ! Thế mà, ông đã bị giặc bắt và đem ra bắn .

    Hồi ấy, Nam Cao vào Thanh hóa dự một hội nghị về văn nghệ.  Hội nghị kết thúc, lẽ ra, ông trở về Việt bắc, theo đường số 6.  Nhưng , ông lại muốn đi vào vùng địch, tạt về thăm làng, nghe nói đã thành làng du kích Ông có nguyện vọng viết về làng Vũ đại đứng lên đánh giặc, đã viết được mấy chục trang, tự thấy không ra gì, rồi vất đi.   Tác giả cho là thiếu thực tế, nên nhân dịp này về làng để chứng kiến thực tế, nên , đi theo một đoàn v cán bộ tuyên truyền thuế của nông nghiệp, đóng vai anh y tá hay cán bộ Bình dân học vụ gì đó.   Họ đi trên 7 chiếc thuyền nan, vì lúc đó,  vùng chiêm trũng ở Ninh bình, Hà nam, nước trắng băng.  Nam Cao cùng mấy cán bộ lãnh đạo ngồi trên chiếc thuyền đầu.  Vừa ghé đến làng Vũ đại, thì sa lưới bọn Commandos.  Đoàn đã được thông báo , đêm qua chúng rút đi rồi, hóa ra, còn một toán ở lại. Thật không may cho Nam Cao  !

    Không biết lúc viết Chí Phèo, Chết mòn ( tức Sống mòn)  , Nam Cao đã tới hay  đã nghe nói: có một cái làng thật tên là Vũ đại hay chứ ?.  Làng này thuộc tỉnh Ninh bình, tiêp giáp với Hà nam, kề ngay đường số 1 ( nay thuộc Gia xuân, huyện Gia viễn).  Chẳng lẽ, lại có một sự trùng hợp ngẫu nhiên một cách kì lạ thế sao, giữa 1 cái tên làng trong 1 truyện hư cấu, với một cái làng có thật - cũng không xa làng Đại hoàng của Nam Cao bao nhiêu.  Một sự kì lạ nữa là, Nam Cao lại bị bắt ở đúng cái làng mang cái tên ấy, và bị bắn chết ở đó.  Mà sao Nam Cao lại đi trên cái thuyền đầu  ?- bởi- các thuyền sau họ đều chạy thoát cả.  Số mệnh xui nên thế, hay là,  lại do cái tính cách ' vừa  đi đầu vừa run ', như cái hồi vượt đường số 4 với Tô Hoài năm nào ?

   mà lẽ ra, Nam Cao có thể chưa bị thủ tiêu, nếu như đêm ấy, không có một người trong đoàn cán bộ bị bắt bỏ trốn, không thoát.  Bắt được mấy cán bộ Việt minh ở làng Vũ đại, bọn Commandos đưa tất cả qua đường số 1 sang giam ở nhà thơ Mưỡu giáp, cách làng chừng vài trăm mét.  Do cuộc trốn chạy thất bại của anh cán bộ kia, chúng đem tất cả ra bắn ngay tại cánh đồng Mưỡu giáp, trước cửa nhà thờ. 

     Đó là vào một đêm tháng 11- 1951, khi ấy Nam Cao mới 36 tuổi.

     Như đã nói, viết truyện, Nam Cao hay dùng nguyên mẫu.

     Hầu như toàn bộ nhân vật trong Sống mòn đều có nguyên mẫu cả, và hầu hết, đều là người làng Đại hoàng- nhân vật Oanh, nguyên mẫu là Phượng, một bà dì của Tô Hoài.  Chồng của Oanh là Đích, nguyên mẫu Đích là giáo Bao, người  làng Đại hoàng.  [Nhân vật] San nguyên mẫu là Trần đức Phấn, hồi Pháo thuộc từng đăng lính sang Tây, sau, 1945  xung phong theo đoàn quân Nam tiến.Năm 1954, tập kết ra Bắc,  mang lon trung tá, có thời gian phụ trách điện ảnh quân đội.  Mô (anh lao công đánh trống trường), nguyên mẫu là Trần văn Đa, sau, cách mạng xung phong đi phát triển kinh tế miền núi ở Phú thọ.   Bá Kiến, nguyên mẫu là Trần duy Bính.  Liên, vợ giáo Thứ, nguyên mẫu là Trần thị Sen, vợ Nam Cao.  Còn giáo Thứ, nguyên mẫu là tác giả.  Trần hữu Trí tức Nam Cao, [ còn là tên thật tác giả].

   Sách viết xong năm 1944, mãi tới 1956 mới in được.

    Trong 1 bài viết về Nam Cao, Nguyễn đình Thi cho rằng tác phẩm phê phán hiện thực như thế nào đấy, kiểm duyệt thời Pháp không cho xuất bản.  Thực ra không phải.  Có 2 lý do :  một là, khoảng năm 1940-1945, do chiến tranh, giấy khan hiếm.  Cuốn tiểu thuyết của Nam Cao khá dày, tác giả chưa phải là một tên tuổi ăn khách lắm. In ra, nhà xuất bản sợ không bán được- hai là- tác phẩm  viết quá  sát sự thật về toàn những người quen biết trong làng văn . Vì thế sách in ra cũng ngại.  Nam Cao nói với Tô Hoài: đại ý là phải đợi cho các nguyên mẫu kia tịch hết cả rồi, thì mới in được.

    Năm 1956, khi sách được xuất bản, hầu hết  nguyên mẫu đều còn sống cả,  duy có nguyên mẫu của nhân vật giáo Thư, tức Nam Cao, thì không còn nữa.

   Nam Cao có một tập nhật ký.  Tô Hoài giao cho HMĐ.  Trong cuốn sách, HMĐ viết về Nam Cao, in năm 1960, 1981 gì đó ( Nam Cao, nhà văn hiện thực xuất sắc ), HMĐ có trích vài đoạn trong cuốn nhật ký.

   cuốn nhật ký ấy, nay ở đâu ?  chắc vẫn trong tay HMĐ. Có của quý, cứ giữ độc quyền, mà, không biết dùng, thât phí !  

    Giống như có gươm báu mà không biết sử dụng. Vậy giữ để làm gi đây ?

LÁNG HẠ , THÁNG 11- 2007
nguyễn đăng mạnh.

                         

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét