Thứ Năm, 8 tháng 5, 2014

về nữ thi sĩ tuệ nga - bài : diên nghị+ song nhị / nxb cội nguồn ( usa)

 lưu dân thi thoạidiên nghị+ song nhị
nxb cội nguồn, usa 2003


                                       về nữ thi sĩ tuệ nga
                                        bài viết : diên nghị + song nhị


Củng với tuổi đời, thơ Tuệ Nga có một bề dày trong văn học, với 8 tác phẩm đã xuất bản : Suối ( 1974)- Suối trầm tư ( 1982) - Mây hương 
( 1987) - Chiều phố mây ( 1991) - Hoa sương ( 1994) - Hoa đài dâng hương ( 1885) -  Nửa viền trăng ( 1997) - Suối hoa ( thơ, tái bản 1999.)

SUỐI là  thi phẩm đầu tay của Tuệ Nga, và, cũng chính SUỐI  là khởi đầu dòng chảy liên tục đằm thắm mà triều dâng tâm cảm của  Tuệ Nga danh cho Thơ.   Suối hoa đoạt giải Giải thưởng văn chương toàn quốc năm 1974.  là một nhà thơ nữ, sinh trưởng tại quê hương quan họ, thơ Tuệ Nga có đầy chất lãng mạn, trữ tình, đậm đà mà thanh thoát.  Tuệ Nga vào làng thơ rất sớm, bà là hội viên  thi đán Quỳnh Dao, một hội thơ kỳ cựu với nhiều 
nhà thơ lão thánh *.
---
*  người biên tập cho  in chữ nghiêng " nhiều nhá thơ lão thành ". Nhà thơ kiêm phê bình thơ Diên Nghị , có thể một phút bồng bột,  tôn sùng theo cảm tính nhất thời  - bởi lẽ  -nhóm Quỳnh Dao  không hoàn toàn gồm " nhiều nhà thơ lão thành" - chính xác hơn - rất -rất- ít  - nữ thi sĩ lão thành Mộng Tuyết ư , thôi thì cứ tàm tạm " ứ ừ " đi , vì Tự lực văn đoàn đã cấp giải thơ  khuyến khích cho bà  - và còn lại -  đa số tối đa  tác giả làm thơ có   nhiều tuổi đời  lên lão làng ( thành lão), hơn là tài năng thi ca có thực ( nhà thơ lão thành .)   Có thể ,xem thêm cách đánh giá  khác về  nhóm thơ  Quỳnh Dao,

 " ... (...) nội dung thơ xướng họa, thù tạc, cảm khái, thường có ít bài được truyền tụng lâu dài, vì , giàu công thức, thiếu xúc động chân thực ( gò bó về vần, chữ, thể thơ ) và tất nhiên là giàu mài giũa, ít thâm thúy, rung động, kém hàm xúc - nên hiếm bài sống dài lâu theo thời gian đãi lọc, như đề cập.  []"
   
    (  trang 41 ' TTKH- nàng là ai? "/ Thế Nhật [Thế Phong] , nxb Văn hóa- thông tin, Hà nội 2001, bản tái bản , trang 41) . (BT)

Đọc hết tác phẩm của Tuệ Nga, người ta có thể tìm thấy ở tác giả một tâm hồn rất thơ, rất tình tứ  trong giá trị tinh thần trường cửu.  Có một lúc nào đó, bà nhớ về cơn mưa Hà nội, như nghe mưa rơi trong tâm hồn.  Có một lúc nào đó, bà trải lòng mình gửi bạn hữu, có một lúc khác , bà lại  lắng lòng dâng lên ánh đạo vàng.

Đối với Tuệ Nga, Đạo là nguồn cảm hứng rào rạt của thi ca.  Tác giả đã có 2 tập thơ dành riêng viết về  ánh đạo vàng : Hoa đài dâng hương Mây  hương. Theo nhận định chung, thơ Tuệ Nga có  2 khuynh hướng: hoài cảm nước nonánh đạo vàng.  Trong thơ Đạo, nhuốm  vị sắc thiền, đời thâm nhập vào đạo, và, đạo là huyền nhiệm của đời :

                            Từ dòng trăng vô lượng 
                            Kinh hoa nở muôn mùa 
                            Từ dòng kinh thơ hoa 
                           Tiếng đời êm tiếng thơ 

ở một lúc khác, bà trăn trở hoài với hoài niệm cố hương :

                           Em ơi ! chiều viễn xứ
                           Về đâu ? hồn heo may 
                           Về đâu ? đời cỏ úa
                           Lệ rưng rưng bước gầy 

Bao nhiêu hình ảnh quen thuộc thân thương, chung dòng quá khứ ấp đầy ký ức, đè nặng hồn thơ :

                           Những con đường chiều thương nhớ mênh mang
                           Mây Cổ ngư , nắng Nghi tàm, Quảng bá
                           Gió mùa thu lá vàng bay nhiều quá
                           Hà nội bốn mùa phất phới áo bay
                           Những con đường hàng Bạc, hàng Khay
                           Chợ Đồng xuân, l;iễu hồ Gươm, phố Huế
                           Những con đường trải qua bao thế hệ
                           Gò Đống đa, Quốc tử giám, Sinh từ
                           Những con đường như huyền thoại viễn du
                           Bỗng trở về ngổn ngang trong tiềm thức
                                             NHỮNG CON ĐƯỜNG- HOA SƯƠNG

Nỗi nhớ đó như không còn bút mực nào để diễn đạt hết.  Nhà thơ mang theo tình quê, nghĩa nước, đi suốt cuộc  nhân sinh đời mình :

                          Mực khô bút cũng hao gầy
                          Tình non nước khắc đến ngày tàn hơi 
                                                                          XUÂN VỀ TRÊN SÔNG NƯỚC 

Với tình đồng bào ruột thịt, khi nghĩ tới, tưởng chừng  xé ruột, bào gan:

                          Tôi bâng khuâng, tôi tự thầm hỏi mình
                          Quê hương tôi có thật sự hòa bình ?
                          Quê hương tôi người người đang hạnh phúc ?
                          Quê hương tôi không còn ai oan ức ?
                          Bị tù đày bắt bớ oan khiên !
                          Có thật sự quê hương tôi bình yên?
                          Tôi thầm hỏi, rồi tôi thầm nghĩ 
                          Vẫn trùng trùng phi lý
                          Vẫn trại giam, cải tạo, tù đày
                          Triệu người dân vẫn sống trong cảnh lất lây!
                          Bút bẻ cong, đâu tự do tư tưởng 
                                                                 MÙA XUÂN THĂM GIÀN THIÊN L

Trong cả 'một trời thơ Tuệ Nga ', tác giả đã dành phần lớn tác phẩm để thể hiện nỗi trăn trở, thao thức, băn khoăn trước thảm họa chiến tranh,  đất nước chia cắt, tình tự dân tộc chia Ba.  Cuộc chiến đấu của nửa phần đất nước  bảo vệ tự do, hạnh phúc cho con người, duy trì giường mối xã hội... để rồi có ngày kết cuộc 20 tháng 4 1975 , (...) , dòng thơ đó lại theo dòng Văn học miền Nam nối dài tới hải ngoại.  Từ đấy, tác giả lại tiếp nối  vần diệu, nỗi niềm của một người còn mất mẹ, xa quê hương, tổ quốc :

                          Người đi nhớ nước non nhà
                          Ai nhìn mây trắng thiết tha cội nguồn
                      ... Đường về quê mẹ mây bay
                          Mây giăng kín nẻo, mây đầy thơ tôi
                          Hai lăm nam ! Bấy ngậm ngùi
                          Ôi thơ vẫn thế ! Xót đời ly hương 

Ở tuổi đới [Tuệ Nga] bước vào hoa giáp, từ ngày bỏ nước ra đi đã hết nửa đời, chưa một lần quay lại.  Bên kia bờ đại dướng là quê hương yêu dấu, nỗi nhớ thiết tha hiện lên ánh trăng trong, vắng mấy bạc, ngọn gió hắt hiu, mái chùa cong,  đồng ruộng mênh mông, dòng lịch sử ... Tất cả như xoáy vào tâm can người con viễn xứ, mà, ngày về con là mộng huyễn - tác giả đã mượn vầng trăng xưa, ký thác nỗi buồn xa vắng, khối tương tư mênh mông, nỗi cảm hoài ai oán thiết tha, trong Vầng trăng cổ độ. Đây là bài thơ diễn đạt đủ ý tình,  trong ý thơ thiền bát ngát :

                          Trong nắng chiều vô song
                          Bầy trẻ thơ vui hát
                          Khúc hát ca Tiên Rồng
                          Năm mươi con,  lên núi
                          Năm mươi con, xuống đồng
                          Đồng ruộng tươi màu mạ 
                          Huyền thoại một dòng sông 
                          Vui với ánh trăng trong  
                          Ơi vầng trăng cố đô 
                          Soi chiều mây tầng không
                          Ơi, vầng trăng quê Mẹ
                          Ơi, gió chiều tịnh không

                                             VẦNG TRĂNG CỔ ĐỘ/ THƠ TUỆ NGA
                                                     []

diên nghị+ song nhị

------


trích thơ tuệ nga:
 1 / 8 bài 


                       GỌI TÊN QUÊ HƯƠNG

       Năm tháng sầu lất lây 
       Đôi mắt người di tản 
       Dâng ngút ngàn đắng cay
       Đâu ga chiều phố nhỏ 
       Đâu tóc huyền thơ ngây 
           Hà nội trong tiền kiếp
           Sài gòn trong mơ say
           Gọi tên quê hương để 
           Lòng xót sa dâng đầy
      Em ơi! chiều viễn xứ 
      Về đâu ? hồn heo may
      Về đâu ? đời cỏ úa 
      Lệ rưng rưng bước gầy 
     
          Tóc xanh... chừ điểm tuyết
          Tuổi xanh.. u uất đấy 
          Về đâu ?đâu quê quán 
          Tương lai ... chừ mây bay 
          Lý tưởng... mờ khói sóng
          Cuối ghềnh xa gió lay 
     Đôi mắt người di tản 
     Dâng ngút ngàn đắng cay 
     Hà nội trong dư ảnh 
     Sài gòn trong huyễn say
     Đôi mắt người di tản 
     Xót sa kiếp luu đày ...

          thơ TUỆ NGA 

           ( Sdd: trang 111-115)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét