Chủ Nhật, 22 tháng 2, 2015

thơ điên nguiễn ngu í / bài viết : đỗ hồng ngọc ( việt nam)


    NGUIỄN NGU Í:  'cí jả kông chuiên' 
   hay 'một thi sĩ tài hoa bất đắc chí '
                                         bài viết  : đỗ hồng ngọc


                                     nguiễn ngu í [ i.e. nguyễn hữu ngư 1921- 1979]                                                                                (chụp lại trên Internet)

                                        sống và viết ... / nguiễn ngu í
                                               ( chụp  trên Internet)

Nhiều người biết đến ông như một nhà báo : Nguiễn Ngu Í  một " cí jả kông chuiên" ( ký giả không chuyên nghiệp) - theo danh thiếp , như ông tự nhận.  Với lọat bài phỏng vấn văn nghệ sĩ rất tài hoa, trên tạp chí Bách khoa. 

 Nhiều người biết đến ông, như một nhà giáo dạy văn, sử ở nhiều trường tư thục Sài gòn. Nhưng trước hết, ông là một nhà thơ, một người làm thơ đậc biệt,  hơn bất cứ một người làm thơ nào khác: thơ điên.

  Thơ ông là cuộc đời riêng ông.  Có khi là một tiếng thét uất hận, có khi là một tiếng lòng thổn thức, có khi là nỗi hờn căm - khi khác lại là những tiếng hát dịu dàng âu yếm, thiết tha, tùy lúc bài thơ được viết giữa các cơn điên, hay trong côn điên;  giữa những ngày tháng năm, nằm trong Bệnh viện Tâm thần Chợ quán hay Dưỡng trí viện Biên hoà.  Cũng viết về trăng, nhưng là trăng của ông - [ấy là] năm ông 19 tuổi, một đêm trong nhà thương diên Chợ quán :

                                  Ta sẽ đánh đầu ta
                                  Vào một Trăng bơ sữa
                                  Thì Trăng ơi, em sẽ ngã ngửa tan tành
                                  Rồi ta nuốt
                                  Mảnh của Trăng vào ruột
                                  Rồi tống ra
                                  Khỏi cơ thể ta mà .
                                                   (THƠ NGUIỄN NGU Í / VAN TRĂNG, 1940)

ông viết về cái màu trăng, màu của bệnh viện [tâm thần]  vẫn luôn luôn ám ảnh ông:

                                  Nhưng mà lạ quá, ôi là lạ
                                  Ngó phía nào đây, Trăng cũng theo
                                  Trăng phủ vây tôi. tôi sợ quá
                                  Làm sao trốn Trăng, hỡi người ôi !
                                       (THƠ NGUIỄN NGU Í /  TRĂNG, 1940)

Hết Chợ quán tới [Dưỡng trí viện] Biên hòa, hết vào rồi lại ra, giữa các đợt lên cơn như vậy; ông sống như một người mộng du, đi trên mặt đất, như đi trên tường cao, trên mái ngói nghiêng nghiêng, lảo đảo, lênh khênh, lãng đãng ... Ông thân thiết với tất cả các bác sĩ, nhân viên của Bệnh viện Tâm thần, cũa Dưỡng trí viện:

                                  Cũng tưởng một đi không trở lại
                                  Nào ngờ duyên nợ lại dằng dai
                                  Bỗng nhiên sực tỉnh năm trong 'khám' 
                                  Khám của lòng ai, của ai .
                                  (THƠ NGUIỄN NGU I / BÀI THƠ TÁI NGỘ DƯỠNG TRÌ VIỆN BIÊN HÒA, 1966)

Vậy, ông từ một người điên thứ thiệt, không phải là người giả điên buổi nhiễu nhương thường thấy -  nên ngay trong thời gian nằm ở Dưỡng trí viện Biên hòa, ông đã cùng những người đồng bệnh,  cho xuất bản một tập thơ THƠ ĐIÊN THỨ THIỆT. (Saigon, 1970.) - trong đó Bùi Giáng. ( cùng nhiều bạn điên khác của ông.)  Một tập thơ rất độc đáo, lạ lùng.  Trong một bài thơ, ông viết :

                                   Ta đi lang thang
                                   Ta nói tàng tàng
                                   Ta cười nghinh ngang
                                   Ta chửi đàng hoàng
                                  ( THƠ NGUIỄN NGU Í /  BÀI THƠ TỰ GIẾT, 1966) 

' Chửi đàng hoàng' , quả không phải là chuyện dễ --  nhưng với ông, thì ông làm được. Nhưng chửi ai? " Chửi cả thiên hạ, trong đó có mình" -- đó là cái tựa của một bài thơ khác của ông.  

Nhưng, tại sao điên ?  Dĩ nhiên, là một số tế bào thần kinh nào đó bị rối loạn, bị xáo trộn; nhưng điều đó không quan trọng.  Điều quan trọng là cái lòng ông, cái chí ông, cái tình ông, đối với  cõi đời, với con người, với quê hương, đất nước, với gia đình, bè bạn,  anh em.  Cái tình đó vĩ đại quá, bao la quá, nên không nhốt được trong những sợi giây thần kinh chật hẹp, bÌnh thường của một kiếp người.

Chẳng hạn, có lúc tỉnh táo; ông viết :

                                   Kiếp sau xin cứ làm người
                                   Còn bao nhiêu việc trên đời, còn bao ...
                                    ( THƠ NGUIỄN NGU Í / KIẾP SAU, 1942)

Ông làm câu đối cho cha mình  ông giáo Hoàn, [từng] tham gia  phong trào Đông kinh Nghĩa thục:

                                    Mắt mờ, đã thấy xiềng nô lệ
                                    Hồn đi, còn mơ gió tự do
                                      (THƠ NGUỄEN NGU Í/ THẦY, 1953)

rồi, khi ông dạy sử, ông viết :

                                     Ba trăm quyển sử to dày
                                     Cũng không sánh được một ngày tự do
                                        (THƠ NGUIỄN NGU Í / HỌC & HÀNH, 1955)

ông viết cho mẹ-  có lẽ đây là bài thơ viết về mẹ cảm động nhất của một người điên :

                                     Mẹ ơi, con má điên rồi
                                     Má còn trông đứng, đợi ngồi mà chi !
                                        (THƠ NGUIỄN NGU Í /  MẸ, 1950)

Năm 1960, trong chuyến về quê [để]  cải táng mộ song thân, [ông] đến Nước Nhĩ  - [rồi] nằm nghỉ dưới những tàn cây dứa đầy gai nhọn, bên cạnh đống gạch đổ vụn, ông viết một bài thơ, nhờ về những người bạn thuở thiếu thời, ở quê hương Núi Cú, Hòn Bà :

                                    Nằm đây mà ngó lên trời
                                    Lá cây dứa đã mấy đời đong đưa
                                    Nằm đây mà nhớ mơ hồ
                                    Những xanh tóc ấy, bây giờ về đâu ?...
                                              (THƠ NGUIỄN NGU Í ) 

Đó là lúc  vào tuổi 40- và khi ông  tới Ngãnh Tam tân, nơi quê ngoại  - [thì nơi đây], ông đã đặt sẵn ngôi mộ cho chính mình, ông cảm khái nhìn cửa biển xanh, núi biếc, với những hàng dương vi vút gió : 

                                    Em có đến... mà anh không đón tiếp
                                    Cát mịn này sẽ mơn trớn gót chân em
                                    Em có đến mà anh không đứng đợi
                                    Biển khơi này sẽ thỏ thẻ chuyện đời anh
                                           (THƠ NGUIỄN NGU Í )

Phải rồi, cái quê hương nhỏ bé đó của ông, quê hương Núi Cú, Hòn Bà ( nay : La-gi, tỉnh Bình thuận) - nơi  mà từ thuở 20, ông mang lý tưởng độc lập, tự do, gieo màu ánh sáng, ông không bao giờ quên - mà những người thân ở chốn heo hút đó[ cũng] chẳng bao giờ quên ông.  Có một bài thơ khác của ông, mà ,nhiều người cùng quê, đã mấy ai không nhớ :

                                     Nhè nhẹ sương bông ôm núi lịm
                                     Êm đềm cỏ đắm trong mơ
                                     Tiếng chuông đêm bỗng run lòng đá
                                     Ngó xuống trần ai, thấy mịt mờ
                                     (THƠ NGUIEN NGU Í / TỪ CHÙA NÚI CÚ NHÌN XUỐNG HÒN BÀ, 1964)

Ông và tôi có tình ruột rà: mẹ tôi và ông là 2 chị em con cô con cậu.  Có lần, ông nói :  hồi tôi mới sinh, ông đưa võng, đọc thơ cho tôi nghe. Có lẽ vì vậy, mà khi [tôi] lớn lên, được sống gần, tôi luôn luôn được ông sẻ chia những bài thơ, bài văn mới viết, cũng như báo tâm tình không dễ chia sẻ cùng ai . Nhiều bài thơ ông chép vội trên  mảnh giấy gói đồ, [hoặc] vỏ bao thuốc lá.  Nhiều đêm,  lên cơn [điên], ông đến đập cửa nhà tôi vào  lúc 2, 3 giờ sáng, rồi đọc thơ 'chửi cả thiên hạ'  cho tôi nghe.  Sau đó, ông tắm táp, ăn uống chút gì đó, rồi khệ nệ ôm một chồng sách ra đi.  Trời can cũng không nổi ?   Hỏi đi đâu, trả lời không biết. Lại có lần được nghe, ông nằm giữa xa lộ Biên hòa chờ cho xe Mỹ cán -  họ lại bắt ông , chở thẳng vào Dưỡng trí viện Biên hòa.  Một lần khác,  lại được chuyện ông đi bắt đom đóm, bọc trong khăn tay làm đèn, đi giữa giời giới nghiêm, trong rừng cao su.  Ông lại bị bắt, đưa vào bệnh viện  tâm thần]. Có lần, tôi đến Dưỡng trí viện Biên hòa, thấy ông ngủ say như chết, đưa mấy ngón chân Giao chỉ to bè ra ngoáy, xoáy vào nhau, như tìm hơi ấm -  tôi vẽ một bức ký họa-   xem rồi, ông rất thích, sau lại bỏ mất tiêu luôn.   

Có lần, tôi đưa ông vào Bệnh viện Chợ quán, người ta sốc điện cho ông, thì ông giựt đùng đùng như  con cá nằm trên thớt.   Sau đó, ông bất tỉnh, xụi lơ, tay chân quặt quẹo, sùi bọt mép.  Khi tỉnh dậy, ông lại làm những bài thơ quái dị, nhưng có bài rất hay. 

Đọc thơ ông mà thương cho kiếp tài hoa bất đắc chí. []
        
    ĐỔ HỒNG NGỌC

    (trích theo <Google. search/  nhà báo, thĩ sĩ Nguiễn Ngu Í ... >


        -----------
     vài hàng tiểu sử


- sinh ngày 20 tháng 4 năm 1921, qua đời ngày 19 tháng 2 năm 1979. Nguiễn Ngu Í là bút danh của  Nguyễn hữu Ngư. Ngoài ra còn nhiều bút danh khác: Tan Fong Hiệb -- Nghê bá Lí  -- Ngư Fi Lô Cố v.v...

- sinh ra tại làng Tam tân ( nay : xã Tân tiến, thị xã  La- gi, tỉnh Bình thuận./ Trung bộ.)
 Cha, Nguyễn hữu Hoàn, người Hà tĩnh, một nhà nho trong phong trào Đông kinh Nghĩa thục, bạn của Thái Phiên, Tăng bạt Hổ ...    Mẹ là Nghê thị Mỹ. 

- năm 1928, 7 tuổi, Nguyễn hữu Ngư phải xa gia đình, vào  Sài gòn.  Học trường Tiểu học Phú Lâm ( Chợ lớn).  Năm 1934- 38,  học trương Trung học Pétrus Ký.

- 1941, 20 tuổi, khi đang theo học trường Sư phạm, bị mắc bệnh tâm thần lân đầu, đưa vào nhà thương Chợ quán chữa trị.

-1942 khỏi bệnh, bỏ học, bắt đầu vào nghề văn, làm báo.

- từng cộng tác với báo Nam kỳ tuần báo ( chủ nhiệm: văn sĩ Hồ biểu Chánh) -- Thanh niên ( kỹ sư Huỳnh tấn Phát chủ nhiệm

- 1946 về lại Tam tân dạy học. lấy vợ vào ngày 26 tháng 9 năm 1949. Vợ, tên Nguyễn thị Thoại Dung, đôi khi có sáng tác, ký THOẠI NGUYÊN. 

-1852 cùng vợ vào Sài gòn, trở lại nghề dạy học và viết báo.

-1955, gia nhập Mặt trận Thống nhất Dân tộc, gồm: Cao đài, Hòa hảo, Bình xuyên  chống chính phủ  Ngô đình Diệm -- bị bắt, đưa vào trại chỉnh huấn Tân hiệp (Biên hòa.)

 - 1955 được trả tư do,  ông ủng hộ Trung lập chế / Hờ hữu Tường, viết báo Phương Đông.

-1957  biên tập viên tạp chí Bách khoa ( ban đầu Huỳnh văn  Lang làm chủ nhiệm sau chuyển qua chủ nhiệm Lê ngộ Châu. )

- 1977 vào Dưỡng trí viện Biên hoà ( nay: Bệnh viện Tâm thần trung ương.) 

- tháng 2/ 1979 qua đời. hài cốt được đưa về quê nhà.


      tác phẩm:


-Lịch sử Việt nam ( Nxb Tân Việt< Saigon  1956) --  Khi người chết có mặt ( truyện- Ngày xanh xb, Saigon 1962) --  Sống và viết ... ( Bách khoa xuất bản- viết về 12 nhà văn  đương đại) --  Hồ Thơm- Nguyễn Huệ- Quang Trung ( Saigon, 1967) -- Qê Hương ( Saigon, 1964) -- 
 Thơ điên ( Saigon, 1970) -- Hạnh phúc nơi chính bạn ( Saigon 1960) -- Có những bài thơ
( do các bác sĩ Dưỡng trí viện Biên hoà in , 1972) v.v ...                  theo WIKIPEDIA


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét